Tựa gió và ánh sáng

Nguồn tranh: Marv
Radio
Mai Văn Phấn
Tiến trình thơ đương đại,
theo tôi, không diễn ra như cuộc leo dốc theo bậc thang mà mở rộng theo hướng
lan tỏa, vươn tới những chiều kích mới của hiện tồn. Thơ không chỉ vận động
trên trục thời gian lịch đại hay trong không gian địa-văn hóa, mà còn bung nở
vào những miền phi tuyến, nơi cảm thức, ngôn ngữ và ý thức gặp nhau, va đập,
cộng hưởng rồi chuyển hóa. Từ một hiện tượng cụ thể mang hình tướng, âm thanh,
nhịp điệu…, thơ kết tụ và lóe sáng trong khoảnh khắc của xúc cảm, nuôi dưỡng
những rung chấn, phát lộ tầng nghĩa mới của ngôn từ. Thơ không chỉ là đối tượng
của thị giác mà còn thấm sâu vào nội tâm qua mọi giác quan của người đọc.
Bởi vậy, thơ có thể len
vào những khoảng tối sâu thẳm của tâm thức, đánh thức những gì tưởng chừng đã
ngủ yên, làm rung chuyển những ý niệm tưởng vững bền, đồng thời bồi đắp đời
sống tinh thần bằng nguồn năng lượng mới. Nếu gió và ánh sáng là điều kiện
thiết yếu cho sự sống, thì thơ, với quyền năng lay động tận
cùng, cũng là phần không thể tách rời của đời sống con người.
Nếu thơ cổ điển Việt Nam
thường tuân theo cấu trúc khép kín, có niêm luật, vần điệu và tuyến tính cảm
xúc, thì thơ hôm nay chuyển động đứt gãy, đồng hiện, bất định. Cấu trúc không
còn là khung xương cố định, mà tựa như gió, như ánh sáng. “Này, đàn giang trắng/ Khoảnh khắc/ Từ đất rạch lên trời/ Từ trời buông
xuống đất.” (Nguyễn Lương Ngọc – “Đàn giang”). Ngữ pháp không còn là quy
ước cứng nhắc; thơ không kể chuyện, không nêu lý do, chỉ để lại cảm giác về
chuyển động, khoảng trống, luồng khí mà nó chế ngự.
Thơ hiện đại thoát khỏi
mọi khuôn mẫu ngôn ngữ, với cấu trúc linh hoạt, gợi mở và tự do, tựa những dòng
khí không bị giam cầm trong không gian cố định. Khi vượt khỏi trật tự cú pháp,
thơ không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần kiến tạo trật tự mới. Những cú
ngắt dòng bất thường, những từ bị đẩy ra khỏi vị trí ngữ pháp quen thuộc, những
câu không chủ ngữ, không vị ngữ… không còn đơn thuần là phá cách, mà trở thành
dấu hiệu của nhận thức mới: thế giới là mảnh vụn, phân rã, giao cắt,… là đồng
thời, giao thoa, phi trung tâm... Trong thế giới ấy, thơ không còn là người kể
mà là kẻ gợi mở, vẫy gọi; vừa là diễn ngôn vừa là trường sóng lan truyền; không
mang thông điệp cố định, mà trở thành điểm va chạm tạo cộng hưởng. Chính trong
trạng thái đó, thơ Việt đương đại đang rời xa hình ảnh “bài thơ” như thể thống
nhất để trở thành không gian của cảm xúc – nơi ý niệm và lặng im cùng trú ngụ.
Sự tiến hóa này không khước từ cội nguồn, mà mở rộng biên giới; không chối bỏ
nghĩa lý, mà tái khởi nghĩa lý từ chính sự bất toàn, bất định và những gì chập
chờn giữa nghĩa và phi nghĩa.
Trước đây, nhà thơ thường
giữ vai trò trung tâm biểu đạt – một bản ngã cảm xúc mạnh, thậm chí sứ mệnh
hóa. Nhưng thơ hôm nay không còn mang cái tôi nặng nề, mà trở thành ánh sáng tự
thân, lan tỏa lặng lẽ, mở ra không gian cho cảm nhận và chuyển hóa vượt khỏi
chủ thể. Nhà thơ không tìm cách thể hiện bản thân, mà để sự rỗng lặng dẫn đường
cho cảm xúc. “Nơi cánh hoa tụ nhiều nước
mắt/ Ai hay bóng sương đang khẽ rung nhịp đàn/ Gió luồn qua ngón thon nức nở/
Hỏi sớm mai sao mùa xuân dĩ vãng/ Đang hiện hữu ngập tràn bao giọng nói, mùi
hương/ Lấy gì che đi, lấy gì quên mất/ Khi bầu trời kéo mặt đất mãi theo” (Nguyễn
Thị Thùy Linh – “Gảy đàn bên vườn hồng”). Những câu thơ ấy dường như xuất hiện
từ ngoài chủ thể sáng tạo, ý thức chỉ là điểm trung chuyển cho ánh sáng đi qua.
Đây là sự giải thoát khỏi bản ngã truyền thống, chấp nhận vô ngã, để ánh sáng
trở thành yếu tố chủ đạo.
Như vậy, thơ không còn là
hành trình tìm kiếm cái tôi, mà là quá trình gỡ bỏ cái tôi – như thể người viết
không còn dòng ý niệm mà chỉ lặng nghe ngôn từ trồi lên từ tầng sâu vô định.
Ngôn ngữ tự vận động, tỏa sáng, tan rã rồi kết tinh lại trong hình hài bất ngờ.
Cái đẹp không còn là sản phẩm của ý đồ thẩm mỹ, mà là kết quả của sự buông lỏng
kiểm soát, của trạng thái mở ra trước thế giới. Nhà thơ như không tạo dựng cấu
trúc, mà trú ngụ trong cấu trúc đang tự kiến tạo. Ở đó, thơ giống như hiện
tượng tự nhiên – như sương, như hạt bụi, như ánh trăng buông xuống tán cây:
hiện diện mà không tuyên bố, thấm vào người đọc như làn khí bảng lảng, hư ảo.
Cái tôi càng mờ đi, thơ càng sáng rõ, bởi chính khoảng trống ấy mở ra không
gian để độc giả cảm nhận bằng bản thể của mình, không bị lấn át bởi cái tôi của
người viết. "Trời nắng nóng/ Bật máy
quạt gọi con mèo đến ngồi cùng/ Tóc người tựa cỏ lau trên đồi cao/ Lông mèo tựa
cỏ mềm trên mặt đất/ Cùng bay theo chiều gió/ Xào xạc êm đềm/ Chầm chậm cùng đi
vào không gian khác/ Mát dịu xanh tươi/ Ở nơi đó/ Mèo lim dim mắt ngủ/ Tặng cho
người/ Giấc mộng đơn sơ" (Nguyễn Thị Hải – “Mùa hè”). Bài thơ này mở
ra không gian mơ hồ, mộng ảo, nơi con người và thiên nhiên hòa nhập như những
bạn đồng hành. Với ngôn ngữ giản dị, tinh tế và mang tính khách quan, bài thơ
tạo dựng hình ảnh “tóc người tựa cỏ lau,”
“lông mèo tựa cỏ mềm,” cùng chuyển động nhẹ nhàng – cảnh tượng tự nhiên,
phi cá nhân, không bị chi phối bởi ý chí chủ thể.
Bối cảnh văn hóa – xã hội
đương đại cũng thúc đẩy tiến trình này. Sự bùng nổ mạng xã hội, sự rạn vỡ các
hệ hình ý thức hệ cũ cùng với tính lưu động của đời sống đô thị đã làm thay đổi
sâu sắc cách con người cảm nhận thế giới. Thơ, vốn nhạy cảm, lập tức phản ứng
bằng cách rút lui khỏi các cấu trúc quen thuộc, từ bỏ những tuyên ngôn áp đặt
để chọn sự phân mảnh, u linh và đa thanh. Thơ Việt đương đại vì thế không đơn
độc mà âm thầm đối thoại với các xu hướng thơ quốc tế. Trong một thế giới vang
động, sự âm thầm đôi khi là khoảng không cho suy tưởng và chiêm nghiệm sâu sắc.
Chính trong cuộc đối thoại thầm lặng ấy, thơ Việt nhận ra chính mình – như ánh
sáng chạm vào giọt sương, hiện hữu âm ỉ mà dai dẳng trong ký ức.
Sự tiến hóa này không
triệt tiêu vai trò người viết mà tái định nghĩa họ: từ người sáng tạo thành
người biết lắng nghe, để ngôn từ sinh ra trong khoảng lặng, để thế giới tự cất
tiếng nói – không cần chủ thể áp đặt, chỉ cần sự hiện diện đủ lắng sâu để chạm
vào cái phi ngã, phi thời gian của thơ. Biểu hiện rõ nét nhất là xu hướng giản
lược và bất ngờ trong yên tĩnh: bài thơ không còn tìm cách gây ấn tượng mà chọn
ở lại trong sự thầm lặng của cái nhìn nghiêng, tiếng động nhỏ, hình ảnh vừa vụt
qua. Sự giản lược ấy là tinh lọc – gạn bỏ lớp biểu hiện dày cộm để giữ lại lõi
rung động nguyên sơ. Cái đẹp vì thế ẩn sâu dưới tầng trầm tích cảm xúc, nơi mỗi
từ ngữ như hòn sỏi rơi xuống mặt nước lặng, tạo gợn sóng chậm, lan xa và bền bỉ
trong tâm thức người đọc. Bài haiku (tôi gọi thơ 3 câu) của Đinh Trần Phương: “căn phòng lặng im/ con hạc giấy/ mình vừa
gấp xong” gợi cái vô thanh tựa mặt hồ – tĩnh mà động. Đó là sự nín lặng
căng đầy, khi tờ giấy từ từ thành hình con hạc. Câu “mình vừa gấp xong” như lời tuyên bố thầm lặng rằng tác phẩm đã
hoàn tất, và, đã đến lúc tác giả bước ra khỏi tác phẩm. Cái bất ngờ trong yên
tĩnh không đến từ kỹ xảo ngôn ngữ, mà bằng khả năng làm lệch nhịp thở quen
thuộc, phá vỡ khoảnh khắc an toàn để mở ra độ rung cảm mới.
Thơ, như vậy, đang hướng
về cõi im lặng thuần khiết, trở thành ánh sáng lan tỏa dịu dàng. Câu thơ không
nói hết, chỉ chạm đúng, mời gọi người đọc vào không gian thấu cảm và chiêm
nghiệm. Một nhịp lặng cũng đủ dẫn dắt người đọc vào miền không lời, nơi thơ
không còn là câu chữ, mà là hiện diện. Thơ Nguyễn Bình Phương tiêu biểu cho lối
viết mờ ảo và thấu thị ấy: “Người cuối
cùng lắng nghe tiếng chuông/ Ngân nga lên tóc em lên làn da xa thẳm…/ Khung cửa
hẹp bỗng làm anh hồi hộp/ Có một người trở về sau ánh chớp/ Lặng lẽ mang đi hư
ảnh cuối cùng” (Bâng quơ). Ánh sáng trong thơ không đến từ hình ảnh trực
tiếp mà từ trường cảm giác sinh ra giữa các liên tưởng. Phong cách này mở ra
không gian nội tâm, tạo nên trường rung cảm tinh tế, nơi ánh sáng không rực rỡ
mà âm thầm thấm đẫm, dẫn dắt người đọc vào trạng thái suy tưởng về sự hiện hữu
mong manh của ký ức và thời gian. Đó không còn là cái đẹp hiển hiện, mà là cái
đẹp ở lại – không nằm trong câu chữ, mà trong dư âm khi câu chữ mờ đi. Dư âm
không định hình bằng lý trí, nhưng vẫn gõ nhẹ vào tâm trí như tiếng chuông xa,
như vệt sáng đã tắt nhưng còn nóng trên da thịt người đọc. Trong tiến trình ấy,
thơ không trải rộng hơn mà thấm sâu hơn – như ánh sáng xuyên qua tầng khói hư
ảo, để lại đường chỉ mảnh giữa không gian, đủ cho người ta nhớ mình đã từng
chạm vào điều gì rất gần với im lặng, với thiêng liêng.
Thơ không còn là đối
tượng để đọc, mà trở thành trải nghiệm để sống cùng. Người đọc không tiếp nhận
thơ như tiếp nhận thông điệp, mà như đi qua một trường năng lượng – nơi mỗi từ,
mỗi khoảng trắng, mỗi nhịp ngắt mang theo độ rung cảm riêng. Thơ không mời gọi
sự hiểu, mà khơi dậy trực cảm; không ép nghĩa, mà để nghĩa tự thẩm thấu qua
những vết nứt vô hình của nhận thức. Khi đó, chức năng của thơ không còn là mô
tả hay biểu đạt, mà là kích hoạt: kích hoạt cảm giác, ký ức, tưởng tượng, và sự
hiện diện sống động của người đọc trong mối quan hệ bất khả tách rời với thế
giới.
Thơ vì thế gần với trạng
thái chiêm nghiệm hơn là làm thỏa mãn thị giác. Thơ không còn hỏi “Tôi nói gì?”, mà chuyển sang đặt câu
hỏi “Tôi đánh thức điều gì trong bạn?”.
Tại điểm giao thoa ấy, mỗi bài thơ không còn là điểm đến cuối cùng mà trở thành
cánh cửa mở, dẫn dắt người đọc bước vào không gian nội tâm rộng lớn và yên
tĩnh. Thơ đương đại, vì vậy, không bị giam giữ trong hình thức cố định, mà liên
tục mở rộng không gian cảm thức, kết nối những khả thể mới mẻ của đời sống tinh
thần.
Hải
Phòng, 9/8/2025
M.V.P