Cảm thức đức tin trong thơ Công giáo Việt Nam từ 1975 đến nay - Mai Văn Phấn
Cảm thức đức tin trong thơ Công giáo Việt Nam từ 1975 đến nay

"Ca đoàn nhà thờ*"
Mai Văn Phấn
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, tôn
giáo và văn chương đã thiết lập mối liên kết thiêng liêng, bền vững và sâu sắc,
hòa quyện giữa khát vọng hướng thượng và cảm thức nghệ thuật. Mối tương liên
này không chỉ xây dựng đức tin và động lực sống mà còn thắp lên trong mỗi con
người niềm hy vọng về một tương lai bình an, nơi những giá trị nhân văn và chân
lý được tôn vinh. Tôn giáo là cuộc hành trình truy cầu chân lý tuyệt đối, ánh
sáng vô biên và nguồn cội của sự sống; trong khi văn chương mở ra những chân
trời mới, giúp người đọc khám phá bản thân mình và thế giới xung quanh. Cảm thức
tôn giáo trong văn học thể hiện khát vọng lớn lao của nhân loại về niềm tin và
chân lý, góp phần hình thành hệ tư tưởng, các giá trị và bản sắc văn hóa bền
vững qua thời gian.
Đạo
Công giáo bắt đầu hiện diện tại Việt Nam từ khoảng thế kỷ XVI. Theo cuốn "Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục" (soạn dưới triều vua Tự Đức từ năm
1856, quyển 33, phần chính biên, tờ 5-6), vào khoảng năm 1533, một giáo sỹ
người Tây Ban Nha tên là I-nê-khu (Ignacio theo tiếng Tây Ban Nha) đã đến
truyền đạo Giatô tại các làng Ninh Cường, Quần Anh (huyện Nam Chân) và Trà Lũ
(huyện Giao Thủy), thuộc tỉnh Nam Định ngày nay. Năm 1533 được xem là năm khởi
đầu đánh dấu ánh sáng Tin Mừng đến Việt Nam. Đến năm 1615, giai đoạn truyền
giáo mới chính thức được mở ra khi hai tu sĩ Dòng Tên là Francesco Buzomi
(người Ý) và Diego Carvalho (người Bồ Đào Nha) đã tới Đà Nẵng, thiết lập địa
điểm truyền giáo tại xứ Đàng Trong (miền Trung, dưới thời Chúa Nguyễn). Và tại
xứ Đàng Ngoài (miền Bắc, dưới thời Chúa Trịnh), công cuộc loan báo Tin Mừng
chính thức và liên tục chỉ bắt đầu từ năm 1627 với hai vị thừa sai là Pedro Marquez
(người Bồ Đào Nha) và Alexandre de Rhodes (người Pháp). Sứ vụ truyền giáo của
các giáo sỹ phương Tây đã mang lại những ảnh hưởng sâu sắc, mở rộng đức tin
Công giáo và đặt nền móng cho việc hình thành, phát triển chữ Quốc ngữ của Việt
Nam.
Từ khi có Đạo Công giáo, đức tin Kitô giáo đã tác động sâu sắc đến đời sống tinh
thần của một bộ phận người Việt, đặc biệt, góp phần làm phong phú và thay đổi
diện mạo văn học Việt Nam. Các tác phẩm văn học Công giáo, từ thơ ca, văn xuôi đến
văn học giáo lý, dần hình thành và phát triển, mang theo tinh thần và giáo huấn
Kitô giáo. Điều này không chỉ tạo nên một dòng chảy văn học tôn giáo mà còn góp
phần làm phong phú nền văn học nước nhà với các đề tài mới mẻ về đức tin, lòng
mến, và niềm hy vọng. Nhân đức tin, tình yêu thương, sự khiêm nhường và lòng
bác ái của đạo Công giáo được thể hiện rõ nét trong văn học Công giáo, tạo nên
những tác phẩm ca ngợi Thiên Chúa và các giá trị nhân bản. Văn học Công giáo
cũng tạo nên những lối viết độc đáo, kết hợp giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ
giáo lý, khiến cho những giáo huấn Kitô giáo trở nên gần gũi với người dân Việt
Nam. Đồng thời, chữ Quốc ngữ - một công cụ mà các vị thừa sai đã dày công phát
triển - không chỉ là phương tiện truyền giáo mà còn trở thành nền tảng văn hóa
quan trọng, thúc đẩy văn học phát triển theo hướng mới. Qua đó, đạo Công giáo
đã tạo nên một môi trường tinh thần, giúp con người hướng về sự siêu việt, tìm
kiếm chân lý và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống hàng ngày.
Từ
thế kỷ XVI đến nay, mối quan hệ giữa tôn giáo và văn chương Việt Nam luôn gắn
bó, liên kết chặt chẽ. Văn chương vừa là phương tiện thể hiện đức tin vừa là
cầu nối đưa các giá trị Kitô giáo hòa nhập vào đời sống và tâm hồn con người.
Qua từng thời kỳ, văn học Công giáo đã phản ánh khát vọng về tình yêu Thiên
Chúa, lòng bác ái, và hy vọng vào cuộc sống đời đời, đồng thời mang đến cho nền
văn học nước nhà những sắc thái độc đáo, chứa đựng chiều sâu tâm linh và sự
hướng thiện. Theo dòng lịch sử, đức tin Công giáo trong văn chương Việt Nam
cũng trải qua nhiều thăng trầm. Từ buổi đầu đón nhận Tin Mừng, văn chương Công
giáo đã nảy nở trong sự giao thoa với văn hóa truyền thống Việt Nam, tạo nên
những tác phẩm hài hòa giữa đức tin và bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, có những
thời kỳ đầy biến động, đức tin Công giáo gặp những thử thách, và văn chương
Công giáo chịu nhiều áp lực, thậm chí bị gián đoạn. Dẫu vậy, qua mọi cung bậc,
văn chương Công giáo vẫn kiên trì và lặng lẽ hòa vào dòng chảy văn học nước
nhà, tiếp tục truyền tải tinh thần Kitô giáo qua ngôn ngữ của tình yêu, sự hy
sinh, và niềm tin vĩnh cửu vào Thiên Chúa, vào những giá trị tốt đẹp của thế
gian.
Với Công giáo Việt Nam, cảm thức đức tin
Thiên Chúa và những biến chuyển tinh thần trong văn chương được thể hiện rõ
trong diễn trình thơ Công giáo từ năm 1975 đến nay. Cảm thức ấy biểu hiện qua
khát vọng cứu rỗi, an bình và hy vọng trước những biến động không ngừng của
thời cuộc khi các giá trị xã hội và văn hóa liên tục thay đổi.
Thơ đương đại Việt Nam, qua những biến chuyển
trước và sau năm 1975, đã đón nhận Đạo Công giáo không chỉ như một biểu hiện
của niềm tin vào Thiên Chúa mà còn như một nguồn mạch nghệ thuật phong phú và
sinh động, góp phần định hình sắc thái độc đáo cho thi ca. Những tác phẩm thơ
ca đã chuyển tải sâu sắc các câu hỏi về sự tha thứ, tình yêu thương vô điều
kiện, và lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa như một điểm tựa tinh thần thiêng
liêng, bền vững trong cuộc sống. Các hình tượng này biểu trưng cho lòng khao
khát tìm kiếm chân lý, ánh sáng, và định hướng cho con người trước mọi nghịch
cảnh.
"Bỗng nghe một tiếng chuông buông
Xa xôi tự tháp thánh đường nào đây!
Vang lên cao vút tầng mây
Rồi ngân nhè nhẹ như ngây ngất lòng…"
("Chuông chiều" – Xuân Ly Băng)
Bốn câu thơ trên của nhà thơ Xuân Ly Băng khơi dậy những xúc cảm sâu sắc
về một không gian tâm linh tràn đầy ân thánh. Tiếng chuông mở ra một không gian
vời vợi và thanh tĩnh, dẫn dắt con người tới ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Âm
thanh ấy đưa ta về với đức tin Thiên Chúa, về với giá trị tinh thần, khuyên nhủ
con người dừng lại, suy ngẫm và mở lòng đón nhận những điều tốt đẹp; nó kết nối
con người với điều thiêng và cái đẹp, khiến tinh thần con người như được thanh
tẩy, tràn ngập tình yêu và niềm tin Thiên Chúa.
Sau năm 1975, xã hội Việt Nam bước vào giai đoạn chuyển đổi sâu rộng,
với nhiều biến động trong đời sống đức tin. Thời kỳ hậu chiến đưa đến những
thách thức mới trong tư duy và văn hóa, từ đó dẫn đến những hạn chế trong việc
khám phá các thi pháp sáng tác mới hay mở rộng những quan niệm thẩm mỹ vốn được
định hình trước đó. Trong bối cảnh này, những tác phẩm có nội dung liên quan
đến đức tin Thiên Chúa thường được thể hiện qua các biểu tượng, ẩn ý gián tiếp.
Khát vọng bình yên và lời cầu nguyện – những biểu trưng của đức tin – thường
được diễn đạt qua phép ẩn dụ nhằm biểu đạt những cảm xúc phức rối và đa tầng,
như nỗi nhớ, sự trăn trở, và cả nỗi đau do hệ lụy chiến tranh vừa qua.
Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cảm hứng tôn giáo vẫn luôn là nguồn mạch
tâm linh, là phương tiện cần thiết để các nhà thơ Công giáo khám phá chiều sâu
tâm hồn, phản ánh nỗi đau, sự hoài nghi và niềm hy vọng về một đời sống công
bằng, bác ái... Theo tác giả Nguyễn Vy Khanh, tác phẩm văn chương Công giáo
Việt Nam bao gồm hai loại: Một là, “Sách đạo”, tức các tác phẩm giáo lý, tu đức
và kinh sách về đạo Chúa; hai là, “Văn học đạo”, gồm các tác phẩm văn học và
học thuật có nội dung “tải đạo” hoặc chịu ảnh hưởng của Đạo Công giáo. Nói cách
khác, “văn học đạo” là một hình thức “hội nhập văn hóa” của đức tin. Trong các
tác phẩm thuộc thể loại “văn học đạo” có nhiều bài thơ và lời kinh bổn được
chuyển thể thành thơ, thành diễn ca để truyền bá Tin Mừng, đưa Thiên Chúa đến
gần hơn với tha nhân.
Theo thiển nghĩ của tôi, các nhà thơ là tín
hữu Công giáo người Việt không nhiều; trước năm 1975 có thể xướng tên các nhà
thơ, Bàng Bá Lân,
Hồ Dzếnh,
Hàn Mặc Tử,
Quách Thoại...;
sau năm 1975 có các nhà thơ như Lê Quốc Hán,
Xuân Ly Băng, Trăng Thập Tự,
Lê Đình Bảng,
Đình Chẩn,
Trần Vạn Giã, Mai
Văn Phấn... Ngoài ra, trong cuốn sách "Những nhà thơ Công giáo Việt Nam
hiện nay", tác giả Khải Triều
đã khảo cứu thơ của một số tác giả Công giáo như Trần Mộng Tú,
Bùi Đức Dung,
Dzuy Sơn Tuyền,
Hàn Lệ Thu,
Ngọc Tự,
Thanh Chương...
Sau
Đổi Mới (1986), các nhà thơ được cởi mở hơn trong cách biểu đạt đức tin Thiên
Chúa. Thơ ca giai đoạn này ngày càng phản ánh sâu sắc những trăn trở về vai trò
của Thượng Đế, khi các tác giả không chỉ nhìn nhận Ngài qua hệ thống tín lý mà
còn qua lăng kính của những trải nghiệm cá nhân. Nhiều nhà thơ, kể cả một số nhà thơ không phải người
Công giáo đã sử dụng hình ảnh Thiên Chúa như một biểu tượng của sự cứu rỗi,
điểm tựa tinh thần giúp họ đối diện với những thử thách trong cuộc sống. Thiên
Chúa không chỉ xuất hiện như Đấng-Tối-Cao mà còn đồng hành, gần gũi con người
trong những khoảnh khắc đớn đau, mất phương hướng. Bài thơ "Hạt bụi"
dưới đây của nhà thơ Lê Quốc Hán mang đến cái nhìn sâu sắc về tình yêu, đức tin
và sự tồn tại, qua đó diễn đạt mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa, tình
yêu và ý nghĩa cuộc sống.
"Phải
ngày xưa chúng mình hai hạt bụi, ở hai vì tinh tú xa xôi, một ngày kia qua hơi
thở Chúa Trời, quằn quại hóa đôi linh hồn bất diệt.
Hai hạt bụi chẳng thể hòa
làm một, nên suốt đời vờ vật ở bên nhau, đôi linh hồn sinh bởi một phép màu,
nên muôn kiếp muốn tan vào một biển...
... Xin
Chúa Trời hãy rộng lòng tha thứ, khi chúng con muốn vươn tới gương Người, dao
tình yêu tách hạt bụi làm đôi, thổi vào đó một linh hồn bé bỏng."
("Hạt bụi" – Lê Quốc Hán)
Hình ảnh "hạt bụi" vừa ẩn dụ sự nhỏ
bé, mong manh của con người trong vũ trụ, vừa biểu tượng cho sự nguyên sơ và
mối liên kết sâu sắc với Đấng-Tạo-Hóa. Sự mâu thuẫn trong tình yêu của hai
"hạt bụi" – dù "chẳng thể hòa làm một" mà vẫn "vờ
vật ở bên nhau" – gợi nỗi khắc khoải, khát vọng gắn bó của hai tâm
hồn. Tình yêu ở đây được nhà thơ nâng lên thành cuộc hành trình tâm linh đầy ý
nghĩa, một phép màu mà đôi lứa khao khát đạt được. Bài thơ khép lại với lòng
biết ơn và ngưỡng vọng, gửi gắm niềm tin vào tình yêu Thiên Chúa như một phép
lạ màu nhiệm. "Hạt bụi" không chỉ ngợi ca tình yêu đôi lứa mà còn
xưng tụng đức tin Thiên Chúa và mối liên hệ thiêng liêng giữa con người với
Đấng-Tạo-Hóa. Bài thơ khai thác chiều sâu tâm linh, vượt qua những khác biệt và
sự mong manh của kiếp người, từ đó gửi gắm niềm tin vào sự vĩnh cửu, vượt qua
ràng buộc của thời gian.
Thơ
ca Công giáo sau Đổi mới không chỉ thể hiện lòng sùng kính Thiên Chúa mà còn đi
sâu khám phá các trăn trở, xung đột nội tâm trong đời sống tâm linh. Các tác
phẩm chú trọng đến ý thức trách nhiệm cá nhân trong cộng đồng, qua đó truyền
tải những dòng thơ mang đậm màu sắc suy tư và chiêm nghiệm về ý nghĩa sự cứu
rỗi. Những biểu tượng như thập giá, thiên đường, địa ngục, thánh đường, tín
hữu,... đã trở thành chất liệu phong phú trong sáng tạo văn chương, đặc biệt
thơ ca. Các biểu tượng này đóng vai trò như những tấm gương, khung tham chiếu
nghệ thuật, giúp thơ ca khai phá chiều sâu tâm lý và những bí ẩn trong thế giới
nội tâm.
Trong thơ đương đại Việt Nam, đạo Công giáo
vừa là nguồn cảm hứng tâm linh vừa là phương tiện mở rộng chiều kích tâm hồn.
Qua những vần thơ nguyện cầu, tụng ca Thiên Chúa, các nhà thơ không chỉ xem tôn
giáo là nơi trú ngụ cho niềm tin và tinh thần, mà còn là hành trình tự vấn, nơi
họ đối diện với những khắc khoải, yếu đuối và khát vọng.
"Chúa tràn khắp, chan hòa hiện diện,
Con tha hồ trời biển thong dong.
Bây giờ chúa hẹn từ trong,
Con về giữ miệng gìn lòng lắng sâu"
(Hẹn (2))
Bài
thơ "Hẹn
(2)" của Trăng Thập Tự là khúc nguyện ca sâu sắc về đức
tin và hành trình nội tâm. Với hình ảnh Thiên Chúa chan hòa khắp vũ trụ, nhà
thơ khẳng định sự hiện diện toàn năng của Ngài, mang lại tự do và bình an như
trời biển cho con người. Hai câu cuối chuyển mạch cảm xúc vào sự chiêm niệm,
khi Chúa "hẹn từ trong" tâm hồn, nhắc nhở giữ lòng tĩnh lặng
và tỉnh thức. Bài thơ là hành trình tự vấn, giúp con người đối diện những khắc
khoải và yếu đuối để tìm về sự an lành và ơn cứu độ.
Hình ảnh Thiên Chúa trong thơ trở thành biểu
tượng không chỉ của quyền năng mà còn của tình yêu thiêng liêng và lòng trắc
ẩn, phản ánh sự hòa quyện giữa sức mạnh thần thánh và cảm thức nhân văn.
"Tôi
làm thơ nghĩa là tôi cầu nguyện
Hồn
reo vui trong từng chữ từng lời
Trong
đất mầu đương vỡ vạc sinh sôi
Trong
cây lá vươn sức dài vai rộng"
("Tôi làm thơ nghĩa
là tôi cầu nguyện" – Lê Đình Bảng);
"Tôi
quỳ lạy Chúa trên cao
Dẫn
dìu tôi kẻo sa vào tối tăm
Thế
mà tôi tưởng xa xăm
Hóa
ra Người ở âm thầm trong tôi"
("Chúa ở trong
tôi" – Lê Đình Bảng)
Hai đoạn thơ trên của nhà thơ Lê Đình Bảng đã
khắc họa thơ ca như nhịp cầu giữa Đấng-Tối-Cao và con người, là hành trình
thiêng liêng nơi tâm hồn nhà thơ kết nối với những điều cao cả. Những hình ảnh
đất đai, cây cỏ và nghi thức cầu nguyện đã gợi
lên khung cảnh Vườn Địa đàng, nơi không chỉ có vẻ đẹp tinh khôi mà còn tràn đầy
lòng nhân từ và an nhiên trong mọi tạo vật; chúng giúp
người đọc cảm nhận rõ nét sức mạnh và vẻ đẹp của nhân đức tin khi hòa quyện
trong nghệ thuật thơ ca. Từ nghi thức “quỳ
lạy Chúa trên cao” đến nhận thức “Người
ở âm thầm trong tôi”, tác giả đã miêu tả sự chuyển biến từ một nhận
thức bên ngoài về Thượng Đế đến sự giác ngộ sâu sắc bên trong. Nhà thơ nhận ra
rằng, Thiên Chúa luôn trong trái tim mỗi người, một sự hiện hữu gần gũi mà
không phải ai cũng dễ dàng cảm nhận. Hình ảnh này không chỉ biểu đạt chiều sâu
tâm linh, mà còn phản ánh tâm thức con người khi tìm kiếm ánh sáng từ bên trong
để vượt qua những thử thách của cuộc sống.
Trong hành trình đến với Chúa, cái tôi trong thơ được dâng hiến trọn vẹn
cho đức tin, cho nghệ thuật và sáng tạo. Các nhà thơ Công giáo đã liên kết hài
hòa cái tôi thi nhân với cái tôi tín hữu, tìm thấy trong đức tin những phẩm
hạnh đẹp đẽ của giá trị văn hóa, tinh thần – không xa lạ, mà hiện hữu trong
những điều bình dị của cuộc sống thường nhật. Khổ thơ dưới đây của nhà thơ Trần
Vạn Giã bộc lộ niềm tin tôn giáo, tình yêu nơi đời thường và hy vọng vào một
tương lai hứa hẹn.
"Tôi tin nơi bến đợi
sông chờ
Nơi tôi sống ngày mai mặt
trời vẫn đến
Tin năm con cá và hai
chiếc bánh
Sáng lên trong lời kinh
Thánh
Ấm lên bên bếp lửa hoàng
hôn
Tôi bắt chước Chúa thổi
vào xương sườn vợ tôi
...
Đất mới
Trời mới
Em hãy cùng anh tin còn
mùa gặt mới.”
("Năm chiếc bánh và hai con
cá" – Trần Vạn Giã)
Hình ảnh "năm con cá và hai
chiếc bánh" gợi nhắc một câu chuyện kỳ diệu trong Kinh Thánh về phép
lạ của Chúa Giê-su, khi Ngài cho một đám đông lớn được ăn no đủ. Câu chuyện này
đã trở thành biểu tượng cho lòng tin, sự sẻ chia và phép màu trong đức tin
Thiên Chúa, nó nhấn mạnh rằng những điều tưởng chừng nhỏ bé cũng có thể tạo ra
kết quả vĩ đại khi được Chúa tác động. Câu thơ “Tôi bắt
chước Chúa thổi vào xương sườn vợ tôi” trong bài chứa đựng ý niệm sâu sắc
về tình yêu và sự gắn bó vợ chồng. Tác giả mượn hình ảnh Thiên Chúa tạo ra bà Eva
từ xương sườn của ông Adam để thể hiện tình yêu bền chặt và thiêng liêng giữa
người nam và người nữ. Cách diễn đạt này nhấn mạnh sự hòa quyện giữa tình cảm
cá nhân và niềm tin tôn giáo, và, tình yêu cũng chính là một phép màu của tạo
hóa. Hình ảnh tôn giáo kết hợp với đời sống thường nhật đã tôn vinh niềm tin
trong những giá trị vĩnh cửu: tình yêu, gia đình và hy vọng về một tương lai
tràn đầy ơn thánh.
Đức tin Thiên Chúa không chỉ là tín ngưỡng,
mà còn là nguồn cảm hứng vô tận. Niềm tin ấy được khắc họa như một hành trình
tinh thần, phản ánh sự đấu tranh giữa khát vọng và đau khổ, lòng cậy trông và
sự cứu rỗi. Nhiều tác phẩm đã vẽ nên bức tranh đa chiều về con người trong diễn
trình tìm kiếm chân lý và sự bình an giữa những biến cải thế gian, khắc họa
hình ảnh Thiên Chúa vừa là ánh sáng dẫn lối vừa là tình yêu vô bờ bến dành cho
nhân loại. Chính những hình ảnh này đã tạo ra một cầu nối vững bền giữa tôn
giáo và văn chương, giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về đức tin và thấy
được giá trị của chính mình trong bức tranh lớn của cuộc sống.
"...Tôi đứng mãi đàng xa, tít tắp
Chờ bầy chim trắng thoáng bay qua
Chúa ôi, ai nấy đều tăm tắp
Như suối, như sông chảy thật thà..."
(“Ngày mai, Lễ khấn dòng” – Lê Đình Bảng)
Đoạn thơ trên của nhà thơ Lê Đình Bảng vẽ nên
cảnh tượng mang tính tượng trưng về hành trình tinh thần, nơi mà lòng thành
kính và đức tin Thiên Chúa được phác họa qua hình ảnh "bầy chim
trắng" – biểu trưng cho sự thanh khiết, hồn nhiên và khát vọng hướng
về cõi thiêng. Hình ảnh ấy được sử dụng như một biểu tượng của tâm hồn thanh
sạch và khao khát thăng hoa tinh thần. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế để
biểu đạt niềm tin sâu sắc và bền bỉ vào Thiên Chúa, đồng thời mở ra một không gian
tinh thần vô biên, nơi đức tin được hình dung là nguồn sáng và nơi an bình vững
bền.
Bài thơ này nằm trong tập thơ "Và Em, Lễ
khấn dòng" (Tủ sách Tuổi hoa, 2024), đây là thi tập ca ngợi tình yêu thế tục trong không gian của đạo Chúa, nơi hòa
quyện hương sắc trần gian với cõi thiêng. Thơ của Lê Đình Bảng trong thi tập
này phảng phất giữa đạo và đời, với những câu thơ vương vất mối tình nam nữ mà
kết lại trong tình yêu Thiên Chúa:
"Lệ mùa rơi đoá Thu phong ấy
Hương ngọc lan ủ dưới gối nằm
Chợt nửa khuya, mơ hồ tỉnh giấc
Đêm thơm như là đóa từ tâm."
("Ngọc lan hương" – Lê Đình Bảng)
Dấu ấn Đạo Công giáo trong thơ đương đại Việt Nam
từ 1975 đến nay cho thấy các nhà thơ đã thay đổi cách tiếp cận đức tin và các
giá trị văn hóa tôn giáo. Sau Đổi mới, thơ Công giáo không chỉ miêu tả sự sùng
kính Thiên Chúa mà còn phản ánh những trăn trở nội
tâm trước thực tại đời sống. Các tác phẩm nhấn mạnh ý thức trách nhiệm cá nhân
trong cộng đồng, qua các dòng thơ đậm chất suy tư, chiêm nghiệm về ý nghĩa cuộc
sống và sự cứu rỗi. Những chuyển biến trong đời sống văn hóa và
xã hội đã làm phong phú thêm dòng thơ về đức tin Thiên Chúa, mở rộng không gian
sáng tạo. Giai đoạn này, đức tin, nội tâm và những suy tư của các nhà thơ về
Thiên Chúa, không chỉ qua hình ảnh của một Thượng Đế thiêng liêng, mà Ngài còn
hiện thân như một Người bạn đồng hành trong cuộc sống thường nhật của con
người. Với lý trí, ý chí và tự do, con
người được mời gọi hiệp hành cùng Thiên Chúa, kiến tạo một mối quan hệ sâu sắc
hơn để khám phá những giá trị cao quý, thiêng liêng. Dòng thơ về đức tin Thiên
Chúa từ đó được cá nhân hóa hơn, phản ánh khát vọng tâm linh một cách đa dạng
và sâu sắc hơn. Thơ ca không chỉ tôn vinh niềm tin theo truyền thống mà còn kết
hợp với triết lý Đông phương, mở rộng tầm nhìn. Thiên Chúa hiện ra trong thơ,
vừa là Đấng-Toàn-Năng vừa biểu tượng cho sự hòa hợp, bình an và tự do nội tại,
dẫn dắt con người trên hành trình tìm về nơi bình yên, hạnh phúc. Các chủ
đề về hiệp hành, tha
thứ, hòa giải đã làm cho hình ảnh Thiên Chúa trở nên gần gũi và thiêng liêng,
đồng thời mở ra nhãn quan mới mẻ, đa chiều cho không gian thơ.
"Có
ai thương con bằng khối tình muôn thuở
Khi
kiếp nhân sinh hơi thở vô thường
Từ ngàn
xưa khi chưa có trời đất
Rồi đến
ngàn sau...
Nào ai
trọn tình thương?"
("Muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương" – Đình Chẩn)
Đoạn thơ trên của
dịch giả, nhà thơ Đình Chẩn vừa ngợi ca tình yêu vĩnh hằng của Thiên
Chúa, vừa suy tưởng sâu sắc về kiếp người vô thường theo tư tưởng Á Đông; từ đó
mở ra một không gian thơ lành thánh, nơi tâm hồn con người được ôm ấp trong
tình thương bao la, trường tồn của Thiên Chúa. Câu
thơ "Có ai thương con bằng khối tình muôn thuở" ngợi ca, tôn
vinh tình thương vô biên của Thiên Chúa, vượt qua mọi giới hạn thời gian và
không gian. Quan niệm của tác giả về "kiếp
nhân sinh hơi thở vô thường" phản ánh rõ triết lý Á Đông, cho rằng đời sống ngắn ngủi,
mọi thứ đều trôi qua và thay đổi.
Cũng cần phải nói thêm, Đình
Chẩn là bút danh của Linh mục Giuse Trần Văn Đỉnh, người công giáo đầu tiên đã
chuyển ngữ bản “Thần khúc” của nhà thơ kiệt xuất Dante Alighieri (1265-1321,
của nước Ý) từ nguyên tác tiếng Ý sang
tiếng Việt. Mặc dù trước ông đã có một số bản dịch tác phẩm này, nhưng cho đến
nay bản dịch của ông là bản dịch đầy đủ và trung thành nhất với nguyên tác
"Thần khúc" của Dante. Đình Chẩn không chỉ chuyển ngữ mà còn chú giải
tỉ mỉ các đoạn khó hiểu hoặc xa lạ với văn hóa Việt Nam, đồng thời ông ghi chú
chi tiết từng điển tích, tên riêng, những ám chỉ, ẩn dụ trong kiệt tác này. Đình
Chẩn sinh năm 1982. Năm 2009, ông được bề trên cử sang Ý tu học tại Đại học
Giáo hoàng Urbaniana ở Rôma. Sau tám năm học tập ở Ý, ông đã thực hiện một số
bản dịch, trong đó có tập thơ của Thánh nữ Teresa. Với kiến thức sâu rộng về
Kinh thánh và văn chương Đông – Tây, Đình Chẩn đã giúp độc giả cảm nhận được
cái đẹp của nguyên tác gần như trực tiếp, và vượt qua được những khác biệt về văn hóa. Bản dịch
"Thần khúc" của Đình Chẩn đã đóng góp ý nghĩa lớn lao vào kho tàng văn
học Việt Nam, đặc biệt là văn học Công giáo.
* * *
Tôn giáo và nghệ thuật, đặc biệt là văn
chương, có mối quan hệ khăng khít, lâu đời, tạo nên một dòng chảy tinh thần và
tư tưởng phong phú trong lịch sử văn hóa nhân loại. Từ xưa đến này, tôn giáo
luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho tác phẩm nghệ thuật, trong đó có thơ, khi
con người tìm cách diễn đạt đức tin, những câu hỏi về sự tồn tại, và ước vọng
về một thế giới lý tưởng. Ngày 4/4/1999, trong Tông thư của Đức Giáo Hoàng
Gioan-Phaolô II gửi các văn nghệ sĩ toàn cầu đã viết: “Tôi mời gọi anh chị
em hãy khám phá lại chiều sâu tâm linh và tôn giáo, vốn là nét điển hình của
nghệ thuật từ xưa tới nay dưới những hình thức cao quý nhất. Nghĩ như thế, nên
tôi kêu gọi anh chị em nghệ sĩ: nghệ sĩ của chữ viết và lời nói, của sân khấu
và âm nhạc của tạo hình và thông tin theo các kỹ thuật tiên tiến nhất. Còn các
nghệ sĩ Kitô giáo, tôi cũng xin có lời hiệu triệu đặc biệt đối với các bạn: tôi
muốn nhắc anh chị em nhớ rằng, ngoài những suy nghĩ nặng tính chức năng trên
đây, ta còn thấy có một sự liên minh chặt chẽ và luôn luôn giữa Tin Mừng và
nghệ thuật, nghĩa là các bạn được mời sử dụng trực giác sáng tạo của mình để đi
sâu vào mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể và đồng thời, đi sâu vào mầu nhiệm con
người".
Như thế, ta thấy chính Đức Giáo hoàng
Gioan-Phaolô II đã đề cao vai trò của văn chương nghệ thuật trong việc biểu đạt
đức tin tôn giáo. Lời dạy của Đức Giáo Hoàng chính là sự khích lệ các văn nghệ
sĩ trải nghiệm đức tin thông qua nghệ thuật.
Thơ Công giáo Việt Nam từ sau năm 1975 đến
nay đã trải qua giai đoạn dè dặt và bước ra cánh cửa mở rộng sau Đổi mới, thơ
đã mang những đặc tính thiêng liêng của đức tin, kết hợp sâu sắc giữa đức tin
và đời sống con người. Sự lan tỏa đức tin Thiên Chúa trong thơ đương đại cho
thấy sức hút và sự đa dạng của chủ đề này; nó minh chứng cho khả năng biểu đạt
phong phú và rộng mở của thơ ca về tâm linh và niềm tin tôn giáo. Đức tin Thiên Chúa không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng mà
còn mở ra một không gian lành thánh để con người hiện đại khám phá và trải
nghiệm. Thơ ca về đức tin trước hết dẫn dắt con người đến với niềm tin tôn
giáo, con người có đức tin sẽ được sống cuộc sống thiện lành hơn, tốt đẹp và ý
nghĩa hơn. Như vậy, thơ ca Công giáo góp phần vào lan tỏa tinh thần nhân văn,
khơi gợi tình yêu thương, lòng khoan dung, và mang đến niềm tin vào những giá
trị tốt đẹp. Đức tin Thiên Chúa trong thơ đương đại được thể hiện như
một diễn trình tìm kiếm hạnh phúc, bình an và sự hòa hợp giữa đời sống tâm linh
với cuộc sống thế tục. Thông qua nghệ thuật thơ ca, các nhà thơ Công giáo biểu
đạt khát vọng sống trọn vẹn với đức tin, đồng thời phản ánh những trăn trở và
hoài nghi của con người hiện đại trước sự tha hóa và suy thoái của các giá trị
đạo đức và văn hóa hiện nay.
Cảm thức tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo
trong thơ đương đại Việt Nam sau 1975, không chỉ kế thừa truyền thống văn
chương Công giáo trước đó, mà còn mở rộng các hình thức biểu đạt, thể hiện mối
liên kết bền chặt và màu nhiệm giữa Thiên Chúa và con người. Thông qua các biểu
tượng và cảm thức tôn giáo, người đọc có thể cảm nhận những xúc cảm thiêng
liêng, sâu lắng cùng khát vọng tìm kiếm ánh sáng Thiên Chúa và sự cứu rỗi. Thơ
ca, bên cạnh chức năng là nghệ thuật ngôn từ, còn đóng vai trò như một nhịp cầu
kết nối đời sống thế tục với thế giới tâm linh, giúp con người khám phá sự giao
hòa giữa ánh sáng của đức tin và những trải nghiệm sống, nơi phản chiếu niềm
vui và ân sủng từ đức tin.
(Do hạn
chế nguồn tài liệu, bài viết này có thể chưa bao quát hết các tác phẩm của các
nhà thơ Công giáo Việt Nam, nên rất mong nhận được những ý kiến góp ý từ bạn
đọc.)
Hải Phòng, 30/10/2024
M.V.P
Nhà thơ Bàng Bá Lân (1912-1988) tên
thật là Nguyễn Xuân Lân, là một tín hữu Công giáo. Sinh tại Tân Minh, Lạng
Thương, Bắc Giang. Đã xuất bản các tập thơ: "Tiếng thông reo" (1934),
"Xưa" (1941), "Tiếng sáo diều" (1939 - 1945), "Để hiểu
thơ" (1956, "Thơ Bàng Bá Lân" (1957), "Tiếng võng đưa"
(1957),... Và các tập truyện: "Người vợ câm", "Vực xoáy",
"Gàn bát sách" (phiếm luận). Từ 1977 viết thêm "Kỷ niệm
văn", "Thi sĩ hiện đại quyển 3", "Hồi ký Trọn đời cho
thơ"...
Nhà thơ Quách Thoại (1930-1957) tên
thật là Đoàn Thoại, là một tín hữu Công giáo. Thơ của ông thường đăng rải rác
trên các báo xuất bản ở Sài Gòn. Đã xuất bản tập thơ “Giữa Lòng Cuộc Đời”
(1963).
Trăng Thập Tự (bút danh của Linh mục Gioan Phêrô
Võ Tá Khánh). Ngài sinh và lãnh bí tích Thánh tẩy năm 1947, tại An Nhiên, Thạch
Hạ, Thạch Hà, Hà Tĩnh, thuộc giáo xứ An Nhiên, giáo phận Vinh. Học Tiểu chủng
viện Làng Sông Qui Nhơn và Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà Lạt. Thụ phong linh
mục: 1975. Ngài biên soạn và viết nhiều sách nghiên cứu về Công giáo, trong đó
có các tác phẩm văn học tiêu biểu: "Có ai về Cát Minh", "Tin
Mừng cho người muốn nghe"... và, "Trăng bẻ làm đôi" (Nxb. Đồng
Nai, 2024).
Nhà thơ Lê Đình Bảng (1942), là một
tín hữu Công giáo. Sinh tại làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Đã xuất bản:
"Bước chân giao chỉ" (Sài gòn 1967), "Hành
hương" (2006), "Quỳ trước đền
vàng" (2010), "Lời tự tình của bến trần
gian" (2012), "Ơn đời một cõi mênh mang" (2014), "Kinh
buồn" (2014), và các bài thơ được phổ nhạc: "Đội ơn lòng
Chúa bao dung" (2012), "Lời khấn nhỏ chiều Chúa
nhật" (2012), "Về cõi trời mênh mang" (2012).
Ngoài ra ông còn là nhà nghiên cứu lịch sử văn học Công giáo Việt Nam. Đã in
“Văn học Công giáo Việt Nam-Những chặng đường” (2010), và bộ sách gồm 6
cuốn, 4.088 trang in: “Ở thượng nguồn thi ca Công giáo Việt Nam” (2009) do ông
sưu tầm, nghiên cứu… Gần đây ông xuất bản tập thơ "Và em, Lễ khấn
dòng", và "Hành hương với hành hương".
Nhà thơ Trần Vạn Giã (sinh năm 1945)
tên thật là Trần Ngọc Ẩn, là một tín hữu Công giáo. Đã xuất bản các tập thơ:
"Tiếng hát những người đi tới " (1993), "Tuyển tập văn chương
viết về lao tù" (1973), "Hào khí quê ta" (1970), "Miên ca
hòa bình" (1971), "Tình yêu đẹp như bài thơ" (1996), "Gió
đưa khói bếp lên trời" (2004), "Trầm tư với lá" (2006),
"Trên chặng đường thánh giá" (2006), "Lục bát Trần Vạn Giã"
(2007), "Lục bát nhà quê" (2008)...
Nhà thơ-nhà văn Khải Triều (1936) tên
thật là Nguyễn Văn Tùy, là một tín hữu Công giáo. Tác phẩm đã xuất bản bao gồm
một số tập thơ, truyện ngắn, truyện ký, biên khảo, tiểu luận...
(https://vietvanmoi.fr/KHAITRIEU-saigon.html).
Nhà thơ Bùi Đức Dung (1942-2021), sáng
tác với bút danh Bùi Kim Phượng, Bùi Thụy. Là một tín hữu Công giáo. Ông đã
xuất bản một số tập thơ và sáng tác nhạc.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
Nhà thơ Dzuy Sơn Tuyền (1946-2021) tên
thật là Đinh Thế Tuyền, là một tín hữu Công giáo. Ông đã xuất bản một thi tập
và bài nói chuyện về đề tài Thi ca và Cầu nguyện.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
Nhà thơ Hàn Lệ Thu (1940-2007) tên
thật là Nguyễn Thị Thu Cúc, là một tín hữu Công giáo. Bà có một số bài thơ in
trong cuốn "Góp nhặt thơ Công giáo Việt Nam" (Nxb. Thuận Hóa, Huế,
1999) và trong cuốn "Những bài thơ Việt Nam hay lạ xưa nay" (Nxb Văn
Nghệ, 2009). (https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
Nhà thơ Ngọc Tự (bút danh khác: Ninh
Văn, Trần Ninh Bình), sinh 1948, tên thật là Trần Ngọc Tự, là một tín hữu Công
giáo. Đã xuất bản một số thi tập.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)
Nhà thơ Thanh Chương (bút danh khác:
Thạch Ngữ, Hoài Nhân, Châu Huy Quang... 1939-2021) tên thật là Trần Quang Tịnh,
là một tín hữu Công giáo. Đã xuất bản một số thi tập.
(https://cdn.t-van.net/2023/01/NHUNG-NHA-THO-CONG-GIAO-VIET-NAM-HIEN-NAY.pdf)