Bài luận
của Vương Tú Uyên về bài thơ “Cuối xuân đầu hè”
Cháu Vương
Tú Uyên - Học sinh
lớp 12, trường THPT Lê Quý Đôn, Hà Nội
ĐỀ BÀI: (rút
từ "Cẩm nang dạy - học - ôn thi Ngữ văn 12"
của hai cô giáo Đinh Thanh Huyền & Phan Thị Hằng)
Viết
bài luận trình bày cảm nhận về bài thơ “Cuối xuân đầu hè” của Mai Văn Phấn.
Cuối xuân đầu hè
Em nhòa nắng mới ngây thơ
Ấm ran khắp tầng vũ trụ
Anh thành bông cúc thẫn thờ
Cuối mùa vàng lên vội vã.
Rồi nắng tràn ngoài tán lá
Nhòa tan cả sắc cúc vàng
Nắng thơm từng miếng bên thềm
Tưởng có thể cầm lên được.
Có một đám tang hoa cúc
Đưa qua bên kia sắc vàng
Anh cũng như từ bên ấy
Mới vừa về đến đây xong.
(Thơ tuyển Mai Văn Phấn, NXB Hội Nhà văn, 2011, trang 62)
BÀI LÀM:
Mai Văn
Phấn là nhà thơ nổi tiếng với những đề tài có tính triết lí sâu xa dù là những suy ngẫm về thời gian, không
gian, về lẽ sống hay những
điều nhỏ nhặt thường ngày. Trong bài thơ “Cuối
xuân đầu hè”, Mai Văn Phấn cũng vẫn thật tài
tình trong việc phát hiện những triết
lí sâu sắc về tình yêu đôi lứa.
Nhân vật trữ tình “em” xuất hiện ngay trong câu thơ mở đầu.
“Em” được so sánh với “nắng mới”, tính từ “ngây thơ” thể hiện “em” là
một nguồn năng lượng trong sáng, mới mẻ. Thế nhưng, trong câu thơ thứ hai, ta
được thấy nguồn sức mạnh phi thường, mạnh mẽ của “em” khi nguồn năng lượng “Ấm
ran khắp tầng vũ trụ”. Dù có vẻ như mới được tạo ra, em lại không hề nhỏ
bé, không chút e dè mà tỏa ra nguồn uy lực của mình. Ở câu thơ thứ ba, nhân vật
“anh” được so sánh với “bông cúc”, đột nhiên, nhân vật “anh” trông thật nhỏ bé,
yếu đuối khi được so sánh với “em”. Qua câu thơ “Cuối mùa vàng lên vội vã”
nhân vật “anh” có lẽ thật chật vật, cố gắng để theo kịp “em”. Với hình tượng “em”
và “anh” như vậy, khổ thơ này thật kì lạ khi phá vỡ quy chuẩn rằng người con
trai phải mạnh mẽ, lớn lao còn người con gái phải yếu đuối, e dè. Người con
trai trong khổ thơ này sẵn sàng hạ mình để nhỏ bé, yếu đuối, nâng người con gái
lên thật lớn lao, vĩ đại. Điều này cho thấy một sự ngưỡng mộ, tôn thờ của “anh”
dành cho “em”.
So với khổ thơ thứ
nhất, ánh sáng, năng lượng của “em” ở khổ hai lại càng bừng sáng, mạnh mẽ hơn,
tràn ra cả tán lá, khiến sắc vàng của bông cúc – “anh” nhòa đi, hòa tan vào
“em”. Đến câu thứ ba, qua biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, nắng trở
nên hữu hình, “Nắng thơm từng miếng bên thềm/ Tưởng có thể cầm lên được”.
Nắng giờ như một vật hiện hữu, có thể chạm, sờ vào. Việc hữu hình hóa nắng cho
thấy tình yêu của nhân vật “anh” đã sâu sắc, mạnh mẽ, trở thành khát khao có
được “em”. Vẻ đẹp của hai câu thơ này cũng thật quyến rũ, hấp dẫn.
Đến khổ ba, ta thấy
được sự đối lập giữa “em” và “anh” đạt đến đỉnh điểm. Trong khi “em” đang tỏa
sáng, ngày càng mạnh mẽ, uy lực thì “anh” kết thúc bằng “đám tang hoa cúc”.
Cái chết của “anh”chính là sự đầu hàng, quy thuận tuyệt đối trước em. Có lẽ,
anh không thể hấp dẫn sự quan tâm của em dù chỉ một lần. Dù vậy, hai câu thơ
cuối như một sự tái sinh cho “anh”, dù không có “em, anh vẫn trở lại dưới một
hình hài mới, tươi tắn hơn, mạnh mẽ hơn. Cuộc tình của “anh” và “em” được coi
là một cuộc tình có cái kết buồn, nhưng việc nhân vật “anh” được tái sinh lại
không làm cho chúng ta cảm thấy bi lụy.
Được viết theo thể
thơ sáu chữ, bài thơ có cho mình một sự đồng nhất về kết cấu. Ngôn ngữ trong
bài cũng được chắt lọc, súc tích. Dù những từ ngữ trong bài có một số từ không
theo trật tự thông thường, nhưng điều này làm cho bài thơ trở nên thật mới lạ,
thu hút. Từ bài thơ Mai Văn Phẩn đã xuất sắc tạo nên một không gian hồn nhiên,
trong sáng, có buồn nhưng không bi lụy diễn tả một khía cạnh khác của tình yêu
đôi lứa.
Hà Nội, 9/2024
V.T.U