Dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Đoàn Thị Linh Giang
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
Đoàn Thị Linh Giang
Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Liên Giang
Học viên cao học Đoàn Thị Linh Giang & TS. Mai Thị Liên Giang (phải)
DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG
Huế, 2023
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Lí thuyết tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của luận văn
6. Cấu trúc của luận văn
NỘI DUNG
Chương I. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
1.1.Khái lược về chủ nghĩa hiện sinh
1.1.1. Những dấu ấn ban đầu và nội dung của triết lý hiện sinh
1.1.2. Khái lược về dấu ấn hiện sinh trong văn học Việt Nam
1.2.1. Sáng tạo là phủ định bản ngã, là quá trình "vong thân"
1.2.2. Ý thức từ bỏ thế giới quen thuộc để vươn tới một thế giới khác
Chương 2. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
2.1. Cái tôi trữ tình “hòa tan” và cái tôi trữ tình “độc sáng”
2.2. Cái tôi “hoài nghi” các giá trị và “dự cảm” về tương lai
2.3. Cái tôi hành hương trong thế giới tâm linh
Chương 3. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
3.1. Ngôn ngữ tạo sinh
3.2. Đặc trưng đa giọng điệu
3.3. Không - thời gian phi tuyến tính
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề
tài
Từng gây náo động “lục địa già” châu Âu, chủ nghĩa hiện sinh đã bắt rễ,
vươn xa, vươn rộng tới phương Đông để khẳng định vị thế của mình trong mọi lĩnh
vực, đặc biệt phải kể đến văn học. Không nằm ngoài dự đoán, khi chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào Việt Nam đã mang đến một sức hút khó cưỡng đối với những người sáng tác văn học, kể cả người
tiếp nhận. Trong số đó có một số
tác giả văn xuôi nổi bật như: Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh, Nguyễn
Ngọc Tư… Tư tưởng về nhân vị, tự do, về cuộc sống bất an, sự âu lo của một kiếp người, sự hoài nghi về các giá trị hiện thực, nỗi ám ảnh về sự đổ vỡ
đã hiện diện trong những sáng tác nghệ
thuật cùng những đau khổ, sự giằng xé trong tâm hồn, sự lo âu trong cuộc kiếm tìm và lựa chọn tự do của con người.
Cái tên Mai Văn Phấn không còn xa lạ đối với bạn đọc của văn học Việt Nam hiện đại. Với hành trình sáng tạo không ngừng nghỉ, sự nỗ lực vượt thoát chính mình, Mai Văn Phấn đã tạo nên một
phong cách thơ vừa “riêng biệt” vừa “độc đáo”. Với tư cách là một nhà thơ, Mai Văn Phấn được coi là một hiện tượng “lạ”. Thế giới thơ Mai Văn Phấn là cuộc hành trình khám phá không mệt mỏi của người nghệ sĩ
chân chính. Là nhà thơ có tầm tư tưởng lớn, Mai Văn Phấn đã tiếp thu trực tiếp các tư tưởng triết lý có nguồn gốc
từ các nền văn hoá lớn. Bằng trải nghiệm của riêng mình, nhà thơ đã quan niệm nhất quán: “Đổi mới thi pháp trước hết là
từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những
mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách
tân là nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại” [38,
378]. Mai Văn Phấn luôn mang đến cho con người một thế giới thơ đa màu, đa vị,
mang tư tưởng hiện đại dung hợp nhiều nguồn văn học, triết học khác nhau. Mang
bên mình bao trăn trở về thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về cuộc sống, những trầm luân biến đổi, một cõi trùng
sinh di động luân hồi. Ở đó, dấu ấn chủ
nghĩa hiện sinh đã in đậm trong đời sống cũng như hành trình thơ của ông. Nó
làm nên một bản mệnh thơ rất riêng mang tên Mai Văn Phấn. Chọn đề tài “Dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn”,
chúng tôi muốn tìm ra những góc khuất, cảm quan riêng của nhà thơ khi khám phá
thế giới, xã hội và con người; thấy được
tầm tư tưởng và tính nhân văn trong thơ
ông. Từ đó có cái nhìn khám phá ở chiều sâu “bề rộng, bề xa” dấu ấn của chủ
nghĩa hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn, đồng thời góp phần minh chứng cho những
đóng góp của ông đối với thơ ca nói riêng
và tiến trình vận động văn học Việt Nam nói
chung.
2. Lịch sử vấn đề
nghiên cứu
Có thể thấy văn học hậu hiện đại ảnh hưởng nhiều bởi dấu ấn của
chủ nghĩa hiện sinh. Cái tôi trữ tình của mỗi tác giả với dấu ấn chủ nghĩa hiện
sinh "không trộn lẫn", ở đó là thế giới của tâm linh, cõi lặng, cuộc
sống thế tục, ... Bàn về thơ Mai văn Phấn đã có một số ý kiến đặt ra vấn đề
liên quan đến thơ ông như là một tác giả tiêu biểu của thơ hậu hiện đại Việt
Nam.
* Những ý kiến liên quan gián tiếp đến đề tài
Đánh giá về những cách tân, đổi mới
thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến trong bài viết Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ Hậu - hiện - đại đã nhấn
mạnh: “Nếu có một nhà thơ nào đó đang luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp
điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai
Văn Phấn. Từ trữ - tình - cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại
rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân” [25, 420]. Theo ông, mỗi bài thơ đều là một thể
nghiệm mới, một phát hiện mới mang lại những bất ngờ từ mỗi câu thơ mà ta không
thể đoán định nhà thơ sẽ viết tiếp những gì ở câu thơ kế tiếp. Tác giả Lê Hồ
Quang trong bài Đặc trưng thế giới nghệ
thuật trong thơ Mai Văn Phấn, nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một sự chuyển
động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là
nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định
giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới,
hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo” [71,
1]. Và “ thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở
tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn
sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [75, 3]. Tác giả Lê Hồ Quang đã chỉ rõ
“thơ Mai Văn Phấn là một chuyển động không ngừng và sự vận động ấy luôn đi theo
hướng đổi mới, hiện đại” [71].
Bên cạnh đó trong bài Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo
thơ, PGS.TS. Đào Duy Hiệp đi đến một kết luận: “Mai Văn Phấn đã cắm một cột
mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay
đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt.
Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [44, 75]. Còn Trần Thiện Khanh
lại đặc biệt đề cao vị trí tiên phong trong tinh thần cách tân thơ của Mai Văn
Phấn: “Có thể nói, Mai Văn Phấn thuộc số ít nhà thơ có tham vọng tạo dựng cho
thi ca một diện mạo mới từ và trong nhịp điệu đời sống hiện đại. Ông cổ súy cho
sự đa dạng về khuynh hướng sáng tác, cởi mở và chấp nhận mọi sự thể nghiệm chuyển
đổi” [44, 501]. Đặng Thân trong bài Mai
Văn Phấn và công nghệ cách tân thơ đã kết luận: “Thơ Mai Văn Phấn
chan chứa cả trời vô thức. Ngôn từ mà Mai Văn Phấn đã ghi lại ấy
xứng đáng được đi vào thơ ca Việt, vào văn học sử như một dòng thơ
cách tân mãnh liệt nhất. Ngôn ngữ thơ ấy chưa ai từng viết. Nó mới
lạ đến từng từ…” [75]. Cao Năm trong bài Nhà thơ Mai Văn Phấn - hiện thân của sự sáng tạo lại khẳng định:
“Khép lại vài ý kiến tản mạn của mình, tôi chỉ muốn nói rằng, 20 năm đọc thơ,
dõi theo con đường thơ Mai Văn Phấn, điều tôi nhận ra ở nhà thơ đầy năng động
này là một bản lĩnh sáng tạo luôn kiên định con đường mình đi, dù biết trước là
đầy chông gai, đau đớn và cả tai tiếng, nhưng đấy đích thực là con đường của
riêng mình, khoảng trời của riêng mình, để từ đấy có thể góp được cái gì đó vào
bầu trời cao xanh vời vợi của muôn loài…” [61]. Nguyễn Quang Hà trong luận
văn Một số cách tân nghệ thuật trong
thơ Mai Văn Phấn đã khẳng định: “Với những tìm tòi và cách tân về
cấu trúc thơ, hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ thơ, tạo cho mình một
giọng điệu thơ riêng, Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ mới
có thể chuyển tải được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng
với nhiều cung bậc tình cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức trách nhiệm với
con người và cuộc sống, phù hợp với xu hướng phát triển chung của xã
hội. Con đường cách tân thơ của nhà thơ Mai Văn Phấn đã bước đầu được
đón nhận và đã tạo ra được những ảnh hưởng nhất định tới hành
trình cách tân thơ Việt hôm nay và sau này…” [15].
* Những ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài
Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn là một
thế giới khó nắm bắt. Nhà nghiên cứu Văn Giá trong bài viết Thơ sinh ra để nói về niềm hi vọng của con
người đã khẳng định: “Trong tính toàn thể nhất quán, thơ Mai Văn Phấn đã cất
lên niềm hi vọng mãnh liệt và cảm động của con người, hy vọng làm nên sự sống,
thăng hoa sự sống. Tắt hy vọng nghĩa là sự sống cũng lụi tàn. Và hy vọng cũng
chính là sự sống. Biểu hiện thì đa dạng nhưng đích đến quy chụm. Mai Văn Phấn
đã thi triển tư tưởng này một cách nhất quán, nồng nhiệt, càng về sau càng sáng
tỏ… Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng nên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất
định… Với người nghệ sĩ này, một xác tín hiệu hiện lên thật nhất quán: còn sự sống
là còn phồn sinh và hóa sinh bất định, là còn khiến con người ta có quyền hy vọng
vào những gì đẹp đẽ và nhân bản nhất. Thơ Mai Văn Phấn hát ca niềm hy vọng
không bao giờ ngơi nghỉ nơi con người” [18, 529].
PGS.TS Hồ Thế Hà, trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn đã phân tích thơ của Mai Văn Phấn trên hai bình diện:
thế giới hình tượng và khả năng tạo sinh nghĩa; bản thể chữ và khả năng tạo
sinh nghĩa để làm rõ quan điểm của mình. Ông nhấn mạnh: “Mai Văn Phấn là một hiện
tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam - mà là một hiện tượng riêng, liên tục
lấp lánh và mới lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác
bé nhỏ của chính người thơ mà anh tự gọi là “vong thân” tức phủ định bản
ngã thi sĩ trước đó của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn
luôn mới và trong một trạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác - nghĩa là luôn luôn tạo
sinh nghĩa - đã làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động…” [55]. Bên
cạnh đó, nhà thơ Nguyễn Hoàng Đức đã
từng nhận định: “Tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn không đơn giản là chiếc giường
hoan lạc. Mà đó là một quá trình như nụ ra hoa, rồi hoa ra quả. Những nụ hôn có
thể hiện lên như khao khát của hiện tại, những khao khát đó bắt nguồn từ hang
thẳm cô đơn, đòi sống, đòi yêu và đòi gieo hạt. Rồi cuối cùng đòi được giang
tay đón hài nhi chào đời từ giữa cơn đau tràn đầy hạnh phúc. Một cơn đau vĩ đại
như sự trở dạ của Càn - Khôn muốn làm nên một cuộc sinh thành khai thiên lập địa”
[25, 360]. Hay TS Mai Thị Liên Giang khi phân tích yếu
tố cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn đã nhận định: “Sự chuyển hóa này
khiến con người thoát ly sinh tử, không sợ hãi trước chân trời của cái chết mà
tìm cách sống có nghĩa như là một phương pháp kéo dài thời gian sống; xem cái
chết cũng như là một nghệ thuật sống khác. Thời gian của sáng tạo nghệ thuật
trong thơ Mai Văn Phấn vì thế trở thành thời gian vĩnh hằng của tự do vô giới hạn,
do tâm thức đạt đạo vận hành trong ý thức, không ai kiểm soát được” [9]. Mặc dù
bài viết không trực tiếp nghiên cứu về hiện sinh, nhưng những ý kiến về quan niệm
thời gian, sống chết, con người, của vũ trụ, về vòng cung thời gian, tĩnh lặng
trong bài viết có liên quan mật thiết đến biểu hiện của dấu ấn hiện sinh trong
thơ Mai Văn Phấn như: phương pháp kéo dài thời gian sống, thời gian vĩnh hằng của
tự do vô giới hạn, xem cái chết cũng như một cách sống khác.
Như vậy đã có
rất nhiều công trình, bài viết bàn về thơ Mai Văn Phấn từ nhiều góc nhìn khác
nhau, song chưa có công trình nào trực tiếp đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, khoa
học, hệ thống về thơ Mai Văn Phấn dưới góc nhìn hiện sinh. Chỉ có
một số bài viết trên báo, tạp chí, các buổi hội thảo đề cập tới một vài khía
cạnh của vấn đề này trong một vài bài thơ hay tập thơ riêng lẻ. Trên cơ sở tiếp thu
và ghi nhận những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn tiếp tục
nghiên cứu một cách hệ thống chuyên sâu về dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn. Từ đó nhận diện phong cách thơ Mai Văn Phấn, đánh giá những nỗ lực cách tân thơ và vị trí của ông trong
nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong
quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi tập trung khảo sát những tập thơ sau
của nhà thơ Mai Văn Phấn:
- Giọt nắng (1992), NXB Hội Văn nghệ Hải Phòng
- Cầu nguyện ban mai (2003 ), NXB Hội
Nhà văn VN
- Hôm sau (2009), NXB Hội Nhà văn VN
- và đột nhiên gió thổi (2009), NXB Văn
học VN
- Bầu trời không mái che (2010), NXB Hội
Nhà văn VN
- hoa giấu mặt (2012), NXB Hội Nhà văn
VN
- Vừa sinh ra ở đó (2013), NXB Văn học
VN
- thả (2015), NXB Hội Nhà văn VN
- Thời tái chế (2018), NXB Hội Nhà văn VN
(Tác giả Mai Văn Phấn
không viết hoa tiêu đề 3 tập thơ: và đột nhiên gió thổi, hoa
giấu mặt, thả).
Ngoài ra, chúng tôi có sử dụng một
số tập thơ của các nhà thơ khác cùng thế hệ với Mai Văn Phấn để so sánh, từ đó
chỉ ra đặc trưng riêng trong thơ ông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn trên một số
phương diện của cái tôi trữ tình và những phương thức biểu hiện.
4. Lí thuyết tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu
Hướng tiếp cận: Vận dụng, đối chiếu
lí thuyết văn học hiện sinh để từ đó chúng tôi sử dụng cộng hưởng các phương
pháp sau:
4.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương
pháp này chúng tôi sử dụng để thống kê tần suất xuất hiện về hình ảnh, biểu
tượng, ngôn ngữ… từ đó để phân loại và đánh giá sự ảnh hưởng của triết hiện
sinh trong thơ Mai Văn Phấn.
4.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Xem
xét cụ thể các vấn đề về nội dung và nghệ thuật để làm rõ dấu ấn hiện sinh trong
thơ Mai Văn Phấn. Đồng thời đưa ra những đánh giá, nhận xét khoa
học về giá trị nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn đối với thơ ca Việt Nam hiện đại.
4.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu
So sánh với các tác giả khác cùng thời, trước,
sau và trong chính các tác phẩm của Mai Văn Phấn để thấy được sự khác biệt của
các tác phẩm viết theo lối hiện sinh và đóng góp riêng của tác giả.
4.4. Phương pháp cấu trúc, hệ thống
Đặt
tác phẩm trong tính chỉnh thể toàn vẹn hệ thống của khuynh hướng hậu hiện đại
để đánh giá khái quát hiện tượng.
Ngoài các phương pháp chủ đạo trên, người viết
còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ như: phương pháp phân tích văn học,
phương pháp nghiên cứu tác giả, phương pháp nghiên cứu lịch sử…
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ mang lại những đóng góp nhất định
như:
Đánh giá chính xác, khách quan về ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.
Khẳng định giá trị nhân văn của thơ Mai Văn Phấn và những đóng góp của nhà thơ trong hành trình làm mới thi pháp thơ Việt.
Gợi mở hướng vận dụng lý thuyết chủ nghĩa hiện sinh trong quá trình hướng dẫn đọc hiểu một số tác phẩm văn học trong chương trình Trung học cơ sở.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội
dung luận văn được
triển khai gồm 3 chương:
Chương 1. Dấu ấn hiện sinh trong thơ
Mai Văn Phấn nhìn từ hành trình sáng tạo
Chương 2. Dấu ấn hiện
sinh trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ cái tôi trữ tình
Chương 3. Dấu ấn hiện
sinh trong thơ Mai Văn Phấn
nhìn từ phương diện nghệ thuật
NỘI DUNG
Chương 1. DẤU ẤN HIỆN
SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
1.1. Khái lược về chủ nghĩa hiện sinh
1.1.1. Những dấu ấn ban đầu và nội dung của triết lý hiện sinh
“Chủ
nghĩa hiện sinh” (Existentialism hay
còn gọi là Thuyết
Sinh tồn, Thuyết
hiện sinh, Triết hiện sinh, phong trào hiện sinh). Đó là một trào lưu triết học phi duy lý phát triển
với nhịp điệu chóng mặt ở châu Âu từ sau thế chiến thứ II. Khoảng hai mươi năm
sau 1945 là thời kỳ hoàng kim của triết thuyết này. Chủ nghĩa hiện sinh cắm rễ
và lan tỏa đến mọi ngõ ngách của đời sống, thấm sâu vào những lĩnh vực khó biểu
hiện nhất như âm nhạc. “Hiện sinh trở thành tôn chỉ cho phong cách sống của những
người dám là chính mình và sống cho chính mình” [4, 69]. Có thể thấy triết học
này gắn liền với những mâu thuẫn xã hội và khủng hoảng chế độ tư bản chủ nghĩa
với sự tha hóa nghiêm trọng của nó, là triết học phản ứng lại triết học truyền
thống từ Platon, Aristote, Descartes, Kant và Hegel, vốn là triết học phóng thể
bỏ quên con người. Thân phận con người từ lâu đã là vấn đề nằm trong thao thức
con người thời cổ đại, tiêu biểu là khi con người có sự phân chia giai cấp.
Khuynh hướng triết học hiện sinh tập hợp bởi nhiều nhà tư tưởng. Mỗi triết gia
hiện sinh lý giải tư tưởng của mình theo một cách riêng. Có bao nhiêu nhà hiện
sinh thì có bấy nhiêu quan điểm hiện sinh. Song người ta tạm chấp nhận có hai
phái hiện sinh cơ bản: Phái hữu thần và vô thần. Phái hữu
thần gồm hai nhà văn tiêu biểu: Gabriel Marcel và Jacques Maritain). Phái vô
thần: Jean-Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… Dù theo vô thần hay hữu
thần, chủ nghĩa hiện sinh luôn nhấn mạnh rằng: Đời sống nhân loại chỉ có
thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông qua kinh nghiệm
riêng biệt của anh ta về cuộc đời. Nó “phá vỡ tính logic của sự kiện thời gian
- con người hoàn toàn mù lẫn trong thời gian, hoàn toàn mất phương hướng, lạc
loài, vô vọng cả không gian và thời gian, trật tự tuyến tính của tất cả các sự
kiện không chỉ bị đảo lộn mà còn hoàn toàn bị phá vỡ” [39]; Qua các tác phẩm
văn học cho thấy, mỗi nhà văn có thể ít nhiều bị ảnh hưởng và có cách biểu
hiện riêng về chủ nghĩa hiện sinh cùng những thuyết giải về nó.
Là một trong những trào lưu chủ yếu của triết học phương Tây hiện đại,
chủ nghĩa hiện sinh phần nào đi ra từ khói lửa của hai cuộc chiến tranh thế giới,
từ sự bất lực về khoa học và cả sự bế tắc về tư tưởng của phương Tây thế kỷ
XIX. Những âm sắc đầu tiên của trào lưu hiện sinh dường như đã khởi đi từ những
kinh nghiệm sống mãnh liệt của châu Âu cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đó là
những tháng năm hoàng kim của một châu Âu phát triển không ngừng về mọi mặt
nhưng đồng thời cũng tiềm ẩn vô vàn bất an và hiểm họa. Với ngọn lửa của cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ ngay chính giữa lòng nước Đức, cường quốc số một
tại châu Âu về kinh tế và kỹ thuật, gây ra những chấn thương tinh thần sâu sắc
không thể cứu vãn: “Hòa ước Versailles là một tờ giấy vô nghĩa kết thúc bốn năm máu chảy thịt rơi của hàng triệu
con người hi sinh cho tử thần và không cho một chính nghĩa nào cả. Nhưng điều
làm cho chiến sĩ đau lòng hơn cả là trong hoàn cảnh chiến tranh như Đệ nhất thế
chiến, con người cơ hồ thấy mình biến thành con số vô danh hay những tấm thẻ vô
hồn trong guồng máy chiến tranh. Thú tính hoặc cơ tính đã thay thế cho nhân
tính” [51]. Có lẽ dân tộc Đức đã đi qua cuộc chiến tranh với những vết thương
trên cơ thể và cả trong tâm hồn, đã tìm đến chủ nghĩa hiện sinh như tìm đến một thần dược để thích ứng với những
bi kịch tinh thần mà họ đang gánh chịu. Cứ như thế, chủ nghĩa hiện sinh đã hình
thành chính thức ở Đức sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, làn sóng mới của chủ nghĩa hiện sinh lần nữa
được thổi bùng lên ở Pháp khi hoàn cảnh cũ lại tái hiện. Con người tiếp tục phải
vừa vá víu những vết thương tâm hồn, vừa phải cố gắng phản kháng mãnh liệt để bảo
tồn những giá trị con người. Chưa bao giờ như bấy giờ con người đứng trước nỗi
âu lo choán ngợp tâm hồn khi phải chứng kiến sự đổ vỡ không thể cứu vãn của
hàng loạt giá trị hiện có. Quá khứ hoàn toàn bị xóa sạch, thay vào đó hiện thực
là nỗi đau, còn tương lai thì hoàn toàn trống rỗng. Giờ đây con người cảm thấy kinh hoàng, tuyệt vọng
và đau đớn bởi trước mắt mình cả một vùng trời châu Âu đã trở nên điêu tàn, vỡ
nát. Những cảm giác đó trở thành một thứ tâm lý dây chuyền nhanh chóng bao phủ
toàn bộ đời sống châu Âu đầu thế kỷ XX. Cái nghịch lý lớn nhất ở đây là những
thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến, nó tượng trưng cho khát vọng văn minh, tiến
bộ và nhân bản được đem ra sử dụng để tàn sát và hủy diệt. Trong thảm họa và
nghịch lý ấy, cái không thể đong đếm được là nỗi thống khổ và sự băng hoại đến tận
cùng của tâm lý con người, kẻ sáng tạo và cũng chính là tội đồ của lịch sử. Họ
là những con người đã đi từ hoang
mang, suy sụp lòng tin đến chán nản, buồn nôn, phi lý... Vậy nên, chủ nghĩa hiện sinh thực sự
là triết học của sự khủng hoảng, nảy sinh trong thời kỳ của những chấn động và
tai biến xã hội - những cuộc khủng hoảng diễn ra không phải chỉ trên lĩnh vực
kinh tế, chính trị mà trên cả lĩnh vực tinh thần. Tuy nhiên, hoàn cảnh tàn khốc,
bi ai của chiến tranh dẫu sao vẫn chỉ là những tác nhân bên ngoài, còn nguồn gốc
sâu xa có ảnh hưởng gần như quyết định đối với sự ra đời của chủ nghĩa hiện
sinh chính là những dư chấn tinh thần mà chủ nghĩa duy lý đã tạo ra trong lòng
xã hội phương Tây hiện đại.
Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
được đánh dấu bằng thuyết tương đối của Einstein, bộ mặt cũ kỹ suốt hàng mấy thế kỷ qua của phương
Tây đã hoàn toàn thay đổi. Khoa học được kì vọng sẽ là đấng sáng thế mới trong
việc tái tạo một tân thế giới tiến bộ và huy hoàng. Thế nhưng lịch sử với những
cuộc đụng độ không khoan nhượng, những tranh chấp nóng, lạnh giữa các quốc gia
hoặc tầng lớp xã hội, cộng với những suy đồi về đạo đức, tinh thần khác đã
chứng minh điều ngược lại. Nền văn minh vật chất do con người tạo ra giờ đây đã
phản bội con người và lý trí khoa học không toàn năng như người ta hằng tưởng.
Xã hội tư bản hiện đại, hiện thân sinh động nhất của chủ nghĩa duy lý giờ đây
đã lộ nguyên hình là một xã hội bất công và bóc lột. Chính trong hoàn cảnh đó,
con người tìm đến phi duy lý như tìm đến một đối trọng của tinh thần duy lý
thực nghiệm (phi duy lý ở đây được hiểu là tìm đến những điều mà khoa học còn
“để trong bóng tối”, gạt bỏ lý trí, lấy trực giác, tâm linh làm điểm tựa cho sự
sáng tạo). Hơn nữa chủ nghĩa hiện sinh - với tư cách là một khuynh hướng phi
duy lý tiêu biểu - là sự phản ứng của con người trước hoàn cảnh tàn khốc, bi ai
của cuộc chiến tranh; là sự cứu rỗi về tâm linh đối với thân phận con người bị
bỏ quên trong một xã hội đầy duy lý; là sự phản ứng lại tính tuyệt đối của khoa
học kỹ thuật. Chính vì lẽ đó, J. P. Sartre
đã quả quyết: “Hiện sinh là một chủ nghĩa
nhân bản (Existentialism is Humanism)”. Học thuyết này đã nhanh chóng trở
thành dòng tư tưởng năng động nhất trong việc biểu hiện đời sống tinh thần của
người phương Tây khi bội thực về công nghệ, đồng thời nhanh chóng lan tỏa trên
khắp thế giới với một nhịp điệu chóng mặt. Tiếp sau đó, chủ nghĩa hiện sinh di
chuyển sang Pháp và trở thành một thứ triết lý thời thượng gắn liền với tâm
trạng bi quan, chán chường của xã hội Pháp trong thế chiến thứ II. Đến những
năm 60 của thế kỉ XX, chủ nghĩa hiện sinh được thay thế bởi hai trường phái
triết học mới là Chủ nghĩa cấu trúc và Chủ nghĩa hậu cấu trúc. Ngoài các nước Đức,
Pháp, chủ nghĩa hiện sinh cũng được lan truyền sang các nước châu Âu và Mỹ.
Về nội hàm chủ nghĩa hiện sinh, có thể khẳng định:
“Sở dĩ được gọi là chủ nghĩa hiện sinh là vì chủ nghĩa này nhấn mạnh rằng đời sống
nhân loại chỉ có thể hiểu được thông qua sự hiện sinh của cá nhân, tức là thông
qua kinh nghiệm riêng biệt của anh ta về cuộc đời… nhấn mạnh đến chủ thể tính,
tức nhân vị, hơn là đến khách thể tính, tức sự vật. Nhìn bên ngoài, con người
chỉ là một sinh linh như mọi sinh linh khác; nhưng nhìn từ bên trong, anh ta là
cả một vũ trụ, là trung tâm của cái vô cùng. Các nhà hiện sinh đề cao quan điểm
chủ thể tính, và tất cả những đặc tính còn lại của chủ nghĩa hiện sinh đều phát
triển từ quan điểm này.” [60] Có thể khẳng định rằng, triết học hiện sinh là
triết học của sự bừng tỉnh. Nó đánh thức con người tự biết mình đang tồn tại ngẫu
nhiên như thế nào? Cần phải vượt thoát ra sao để vươn lên như một nhân vị độc
đáo. Vậy nên, con người đã trở thành đối tượng trung tâm của triết học hiện
sinh. Chủ nghĩa hiện sinh gắn liền với đời sống tinh thần thiết thực của con
người, quan tâm đến mọi vấn đề liên quan đến thân phận con người từ việc nhận
thức về số phận bi đát của con người đến những lo âu, chọn lựa và hành động để
hoạt tồn. Đây cũng là mối quan tâm chủ đạo của văn học. Triết học hiện sinh đã
đi sâu vào đời sống tinh thần của nhân loại chính bằng văn học, đồng thời đem lại
cho văn học sức sống bền bỉ từ những tư tưởng nhân sinh, nhân bản, tạo ra một
trào lưu văn học lớn - văn học hiện sinh. Khi triết học Kinh viện định nghĩa:
Triết học là khoa học về vạn vật, lấy những nguyên nhân tối cao để lý giải nó,
nghĩa là con người không có chỗ đứng riêng, vũ trụ to quá, át tất cả và con người
bị bỏ quên, thì Emmanuel Mounier đã nêu cao lập trường chủ nghĩa hiện sinh như
sau: “Bất cứ khuynh hướng nào trong triết học hiện sinh đều là triết học về con
người, trước khi là triết học về vũ trụ”. Nếu triết học cổ điển coi trọng tìm
hiểu về tự nhiên, về vũ trụ, còn con người không được quan tâm, thì triết học
hiện sinh tuyên bố con người là trung tâm, quan tâm đến con người, lấy thân phận
con người làm cứu cánh. Nhưng không phải con người phổ quát, cũng không phải
con người cá nhân như trong triết học truyền thống mà là con người lấy hiện
sinh, mặt cơ bản của hiện hữu là một kinh nghiệm làm thành nhân vị của mình.
Khi lý giải nguyên nhân dẫn đến triết học hiện sinh hấp dẫn và được đón chào nồng
nhiệt ngay từ giây phút đầu tiên, đặc biệt là lớp thanh niên đầy ưu tư về thân
phận của mình, Trần Thái Đỉnh cho rằng: “Bên cạnh lý do triết học hiện sinh
không dùng lối danh từ chuyên môn trừu tượng, nhưng dùng lối văn bình dị của mọi
người thì triết học hiện sinh không nói đến những nguyên nhân xa xôi, nhưng nói
đến con người sinh hoạt trong xã hội loài người. Nghĩa là những gì thuộc về con
người đều không xa lạ với các nhà hiện sinh”.
Hiện sinh là triết học về thân phận con người. Các
nhà hiện sinh đề cao nhân vị. Hiện sinh chỉ xuất hiện khi con người ý thức được
bản thể, ý thức được mình là một chủ thể. Nếu triết học cổ điển khuyến khích
con người ta nên quên mình để mải miết tìm hiểu những điều bí ẩn huyền diệu của
tạo hóa thì triết học hiện sinh từ bỏ con đường cũ của triết học cổ truyền, chú
trọng đến thân phận con người, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống và cái chết. Hiện
sinh là triết học chủ yếu đã đưa con người trở lại với con người. Đề tài duy nhất
của triết học hiện sinh là con người tại thế, con người với những điều kiện
sinh hoạt tự nhiên và định mệnh độc đáo của con người. Tinh thần nhân bản của học
thuyết hiện sinh biểu hiện tập trung ở cách nêu và trả lời câu hỏi về bản thể:
“Con người, bạn là ai? Con người sống thế nào? Con người đi về đâu? Con người sẽ
như thế nào? Vì sao qua quá trình vất vả để sống thì kết cục là cái chết đợi ta
ở cuối con đường? ... Các nhà hiện sinh khẳng định: “Con người là một thực thể
hiện sinh, nó tự biết mình là ai, đang ở đâu, cần và sẽ làm gì”. Triết học hiện
sinh là triết học dạy chúng ta suy nghĩ về thân phận làm người. Văn phong biểu
đạt của triết học hiện sinh là văn trần thuật, tả chân, gần với ngôn ngữ sinh
hoạt, giao tiếp trong đời sống hàng ngày. Bằng cách ấy, nó cho ta thấy vẻ buồn
nôn của con người tầm thường, nhằm thức tỉnh con người trỗi dậy, bỏ cách sống của
sự vật để khai mạc một đời sống nhân vị, nhân vị cao cả của con người tự do. Vì
thế, nó đã khơi hứng cho nhiều thanh niên biết suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, đừng
“sống thừa”, sống không lí tưởng, sống tầm thường... Người ta thường phê phán
chủ nghĩa hiện sinh là thứ triết học “mời gọi con người cứ ở lì trong lo âu, vô
vọng vì mọi lối thoát trên đời đều bế tắc” và coi nó là một thứ triết học đầy
lo âu và tuyệt vọng, vô bổ, chỉ biết nhấn mạnh đến tình trạng ô nhục của con
người. Có người coi thuyết hiện sinh là cái chỉ dẫn đến một thứ triết học mang
tính tư sản. Những người công giáo thì chỉ trích triết học hiện sinh đã “bỏ
quên mất nụ cười trẻ thơ”... Nhưng, theo Jean-Paul Sartre (1905 - 1980), “Thuyết hiện
sinh là một thuyết nhân bản (Humanisme)” [60, 23]. Trong quan niệm của ông,
nhân bản này không phải lý thuyết đề cao lòng thương người, mà là một học thuyết
về con người - một triết học về sự tồn tại của thực thể người trong thế giới.
Ông khẳng định: “Thuyết hiện sinh là một học thuyết làm cho đời sống con người
trở nên khả hữu” [60, 24]. Nhắc đến con người, triết học hiện
sinh quan tâm đến chủ thể tính và tự do tính. Hiện sinh chỉ có ở nơi con người
chứ không có ở bất cứ nơi nào. Hiện sinh nên đi trước bản chất, hiện sinh trở thành bản chất nhưng đó
là bản chất cụ thể. Hiện sinh là cuộc sống nội tâm, cuộc sống của tâm linh mang
tính thứ nhất, tính ưu tiên. Con người cảm nghĩ bằng thân xác. Chính những sống
động sâu sắc trong tâm thức làm cho con người khác nhau, độc đáo trở thành một
nhân vị: con người nhận thức về mình, tự tạo nên mình, làm cho mình trở thành
mình. Đó là tính chủ thể của con người. Tính chủ thể biểu hiện tự do của con
người. Tự do không có bản chất nào cả. Con người tự phát hiện về mình, về tự do
của mình như một ngọn nguồn mang ý nghĩa của mọi giá trị và chính con người
không quyết định được. Không có bản chất nhưng tự do lại là nền tảng của mọi bản
chất mà hiện sinh đi tới, tự do là vô bằng, nó là nguyên nhân của nó. Triết học
hiện sinh cho rằng bản tính chỉ là điểm ban đầu. Tự do vươn lên khỏi bản tính để
con người trở thành hiện sinh trung thực. Tự do lựa chọn của con người là khôn
cùng. Con người dù sống trong hoàn cảnh bị ngoại giới trói buộc vẫn có tự do ở
chỗ đảm nhận nó. Vì hữu thể là phi lý thế nên nó đáng buồn nôn. Đây là trầm tư
của con người trước cái phi lý của thế giới, của hữu thể. Nhưng buồn nôn đó lại
là động lực để phát hiện cái cơ bản của hiện hữu - hiện sinh của con người, nó
mang đầy màu sắc giúp ta không chấp nhận được cái thế giới đứng im, trống rỗng,
trừu tượng. Một khi con người không buồn nôn với cái phi lý của cuộc đời thì
con người sẽ bị tha hóa, đã đánh mất mình, đã trở thành người khác, ăn bám vào
người khác. Tha hóa cho nên cũng cô đơn, một mình đi tìm tự do mà không bao giờ
vươn tới khái niệm tự do tuyệt đối cho nên cuộc đời đau khổ, đó là một thảm kịch
không thể nào tránh được, vậy nên con người cũng phải “đảm nhận” cô đơn để có
thể chấp nhận trong thất bại. Sự cô đơn đi liền với cái chết, bởi cái thế giới
mà con người bị ném vào đó sẽ kết thúc bằng cái chết. Con người là “hữu thể -
cho cái chết” (Heidegger). Cái chết gắn với chân vị. Nếu cái sống của riêng tôi
thì cái chết cũng mang tính độc đáo của riêng tôi. Cái chết chấm dứt quá trình
hư vô hóa liên miên hữu thể. “Tôi chỉ hiện sinh khi tôi không còn hiện sinh nữa”
(Sartre). Cái chết cũng là nguồn gốc của lo âu. Lo âu có nguồn gốc ở tự do. Lo
âu là tâm tính đầy đam mê mở ra sự sáng tạo. Người ta khước từ tự do thì chẳng
còn gì lo âu bởi vì họ chỉ lấy những giá trị phổ biến và đã trở thành chuẩn mực
phổ biến cho cuộc sống. Biết rằng lo âu vì tự do, nhưng tự do là vô bằng, là
không nhất thiết cho nên con người luôn luôn bên bờ vự thẳm của sự liều, sự rủi
ro. Phải mạo hiểm xông pha với những bước nhảy nguy hiểm để vượt qua cái logic,
cái trật tự đã được sắp đặt sẵn. Bản chất của lo âu là xao xuyến. Giải tỏa xao
xuyến là sự thăng hoa là vượt thoát. Thế nhưng, sống là phải vươn lên, vươn lên
mãi, bởi dừng lại là tự đặt mình vào cảnh chết của tinh thần. Mặt khác, cuộc đời
là một cuộc chơi, một thử thách, đòi hỏi ta phải sáng suốt để tự quyết định cuộc
đời chính mình. Trong tất thảy những hành động đó, ta không thể dựa vào người
bên cạnh, lấy họ làm gương mẫu bởi vì ta là một nhân vị độc đáo. Vì thế con người
cảm thấy cô đơn, nỗi cô đơn bản thể, tự gánh vác định mệnh của mình mà không ai
thay thế, không ai sống thay và chết thay ta được. Và khi ta đã ý thức sâu sắc
như thế, ta mới bước vào giai đoạn sống như một nhân vị tự do và tự đảm đương số
phận của mình.
Mỗi triết gia hiện sinh lựa chọn cho mình các phạm
trù khác nhau. Tuy nhiên, có một số đặc tính được tất cả các triết gia hiện
sinh đề cập, đó cũng là những trạng thái nhân bản của con người trong sinh hoạt
như: Buồn nôn, phóng thể, tha hóa, cô đơn, lo âu, xao xuyến, tự quyết,... Các
nhà hiện sinh sử dụng các phạm trù cơ bản đó để miêu tả tâm thức, cuộc sống nội
tâm của con người. Chủ nghĩa hiện sinh gọi đó là hữu thể học (bản thể học) tức
nghiên cứu, xem xét về hữu thể của con người. Cũng chính vì thế, nó là một triết
học rất nhân bản.
1.1.2. Khái lược về dấu ấn hiện sinh trong
văn học Việt Nam
Từ phương Tây xa xôi, tư tưởng hiện sinh đã vươn những
nhánh mạnh mẽ về phương Đông, tìm được tiếng đồng vọng của mình ở nhiều quốc
gia châu Á, trong đó đáng chú ý là Việt Nam. Những hằng số chung của thân phận
con người trong từng hoàn cảnh riêng biệt là lý do khiến cho Đông và Tây tuy
khác nhau về văn hóa vẫn có thể “chạm” đến những điểm tương đồng ở bề sâu. Cứ
như vậy, chủ nghĩa hiện sinh chính thức xuất hiện ở miền Nam Việt Nam vào những
năm 50, 60 của thế kỉ trước. Trần Thái Đỉnh trong lời tựa cuốn Triết học hiện sinh có viết: “Triết học
hiện sinh đã ghi dấu ấn đậm trong lịch sử triết học. Nói gì thì nói, nó là thứ
triết học nổi tiếng bậc nhất của thế kỉ XX (…). Triết học hiện sinh đã xuất hiện
rầm rộ, gần như một tiếng sấm vang động cả đất trời, lay động cả xã hội Tây
phương một cách mạnh mẽ như chưa từng thấy trong lịch sử” [7, 7]. Con người đã
tìm đến với chủ nghĩa hiện sinh như những tín đồ đến với đức tin của mình. Văn
học hiện sinh dần được định hình, tập trung vào những phạm trù cơ bản của triết
học hiện sinh như vong thân, tha hóa, buồn nôn, phi lý, dấn thân, nổi loạn, cô
đơn, hư vô... Tuy nhiên, tinh thần hiện sinh có lúc đã bị hiểu chệch đi hoặc bị
phóng đại quá mức. Nói một cách hình tượng, “chiếc áo khoác hiện sinh” trở
thành vỏ bọc xem như là an toàn cho sự giải phóng con người ở nhiều mặt, cho lối
sống nhiều khi suy đồi, trụy lạc, thiếu trách nhiệm. Điều này lý giải vì sao
các nhà phê bình vừa khen ngợi nhưng cũng lại vừa chỉ trích những tác phẩm mang
hơi hướng hiện sinh, thậm chí quy kết đó là một khuynh hướng văn học tiêu cực.
Sau 1975, mạch ngầm hiện sinh lại bùng lên mạnh mẽ. Khoảng thời gian hơn 30 năm
đủ để xóa nhòa, thay thế và sinh tạo nhiều giá trị, nhiều chuẩn mực mới. Người
ta hẳn nhiên đã có một cái nhìn khách quan hơn về hiện sinh và văn học hiện
sinh.
Trong công trình Đến hiện đại từ truyền thống của giáo sư Trần Đình Hượu khi nói về
tinh thần của người Việt Nam trong giao lưu văn hóa: “Đối với cái dị kỉ, cái mới,
không dễ hòa hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng, chấp nhận cái gì vừa phải,
hợp với mình nhưng cũng chần chừ dè dặt, giữ mình” [24, 195]. Vì thế việc tiếp
nhận chủ nghĩa hiện sinh cũng như thế. Với công trình Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp [19], Lê Thị Hiền khảo sát các kiểu con người
mang cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn của nhà văn này: Con người tự do, con
người cô đơn và con người thực dụng, nhu nhược. Tác giả chỉ ra những tiền đề lịch
sử, xã hội cũng như những điều kiện tâm lí khiến cho tâm thức hiện sinh trỗi dậy
qua những dạng thức khác nhau. Đó có thể là quá trình trải nghiệm dấn thân, là
quyết tâm chống trả đến tận cùng cái phi lí, là sự cô đơn của từng cá thể người
khi lối sống thực dụng đang như một cơn gió lốc tràn vào từng ngóc ngách của cuộc
sống. Triết học hiện sinh đã được tiếp cận từ nhiều góc nhìn khác nhau, với những
điểm nhấn khác nhau ở từng tác giả và trong từng công trình. Bàn về khái niệm
hiện sinh, Trần Thiện Đạo trong công trình Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc đã viết: “Chủ nghĩa hiện sinh trình
bày sự hiện sinh (l’existence) như một hiện tượng đối lập với bản chất (l’essence) và hết sức mù mờ, thay đổi
không ngừng; sự hiện sinh do ngẫu sinh (contingence)
mà ra, nghĩa là có đó vậy
thôi, có đó một cách vô cớ, không bao hàm một ý nghĩa tiên nghiệm nào và không
được biện minh bởi một bản chất có sẵn nào” [6, 30]. Khái quát hơn, Nguyễn Thị
Bình trong bài “Một vài nhận xét về quan
niệm hiện thực trong văn xuôi nước ta từ sau 1975” khẳng định: “Với những đặc
điểm của tư tưởng hiện sinh từ Nguyễn Huy Thiệp trở đi, hiện thực về con người
mới thật sự trở nên phong phú nhiều chiều. Bên cạnh mẫu người tạo ra từ cảm
quan về tính hợp lý tất yếu của đời sống, còn có mẫu người như sản phẩm của một
trạng thái hoài nghi, bên cạnh “con người ý thức” còn có “con người vô thức”,
bên cạnh “con người tự nhiên” có “con người tâm linh”, có người “lớn hơn thân
phận mình” lại có người “bé nhỏ hơn tính người của mình” [1, 22]. Với bài viết
mang tính tổng kết Con người hiện sinh
trong tiểu thuyết Việt Nam mười năm đầu thế kỷ XXI, tác giả Thái Phan Vàng
Anh quan tâm đến con người hiện sinh ở bốn biểu hiện cơ bản: nổi loạn và hành
trình kiếm tìm tự do, nỗi cô đơn bản thể, kiểu nhân vật chấn thương - cái chết
tượng trưng, hiện sinh tính dục. Những sắc thái hiện sinh, đặc biệt là nỗi cô
đơn, sự phản kháng, dự cảm về cái chết, về sự hủy diệt cũng được Bùi Bích Hạnh
vận dụng trong quá trình phục dựng khuôn mặt cái tôi trữ tình trong thơ Việt
Nam giai đoạn 1965 - 1975 qua công trình Thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975 khuôn mặt cái
tôi trữ tình. Tác
giả nhận định: “Chủ nghĩa hiện sinh xâm lấn vào đời sống đô thị miền Nam những
thập niên 50 - 60 tạo nên trào lưu sáng tác lây nhiễm tinh thần hiện sinh, đặc
biệt là những cây bút bất an trước một thực tại hoài nghi, đổ vỡ. Như một lối rẽ
ngược dòng so với tiếng nói trữ tình của cái tôi công dân đau đáu với vận mệnh
quê hương, cái tôi trong những bút thơ đầy suy tư hiện sinh dường như luôn giằng
xé trong những nhu cầu tự do/ tự do tuyệt đối; luôn đắm chìm trong cảm giác cô
độc và muốn khẳng định tôi không còn cô độc; là cái tôi dự phóng để chứng thực
sự hiện tồn của hữu thể với tha nhân/ thời tính” [17, 175]. Trong phân mục Cái tôi trữ tình mang tâm thức hiện sinh, Bùi Bích Hạnh viết nhiều
về nỗi cô đơn, mặc cảm bị ruồng bỏ, tâm trạng âu lo cũng như những ám ảnh của
con người trong và sau chiến tranh. Theo người viết, những sắc thái này “là điểm
nhấn, là sự hoàn thiện khuôn mặt cái tôi trữ tình trong thơ trẻ 1965 - 1975” [17, 175]. Có thể thấy đây
là một nhận định khá khách quan và đánh giá đúng về vị trí của dòng suy tư hiện
sinh trong văn học Việt Nam giai đoạn này.
Cho đến nay, công trình Triết học hiện sinh của tác giả Trần Thái Đỉnh ra mắt
độc giả vào những năm 60 của thế kỷ trước vẫn được xem là một công trình chuẩn
mực, đầy đủ và gần như bao quát nhất về triết học hiện sinh. Công trình này
cung cấp cho người đọc góc nhìn toàn cảnh về bản chất, sự thành hình và những
chặng đường của triết học hiện sinh qua 7 triết gia hiện sinh lớn là S. Kierkegaard, F. Nietzsche, Husserl, K. Jaspers, G. Marcel, J. P. Sartre và M. Heidegger. Bên cạnh đó, công trình Mấy trào lưu triết học phương
Tây, Phạm Minh Lăng có ý
thức đặt chủ nghĩa hiện sinh trong tương quan so sánh với chủ nghĩa duy linh -
nhân vị và chủ nghĩa thực dụng để đi đến khẳng định sự ra đời của triết học
hiện sinh hiện đại chính là một bước hoàn chỉnh những quan điểm hiện sinh đã có
trong lịch sử. Tác giả cho rằng, mặc dù triết lý hiện sinh đến với miền Nam
Việt Nam khá muộn nhưng không khí hiện sinh có lúc còn nồng nhiệt hơn nhiều
nước phương Tây. Nếu xét đến thực tế xã hội miền Nam lúc bấy giờ, ý kiến trên
của Phạm Minh Lăng là hoàn toàn có cơ sở. Xã hội miền Nam những năm 50, 60 của
thế kỉ trước tồn tại nhiều bất ổn, đầy khủng hoảng và mâu thuẫn. Đó chính là
nguyên nhân để cho cả một thế hệ trẻ miền Nam lúc bấy giờ mê mải lao vào những
triết lý của chủ nghĩa hiện sinh, tự nhận mình là những chủ thể hiện sinh đích
thực ngay cả khi nhiều người trong số họ vẫn đang mù mờ chưa hiểu rõ hiện sinh
đích thực là gì. Trong công trình Phê phán văn học hiện sinh, tác giả Đỗ Đức Hiểu từ cái nhìn khắt khe và giới hạn của
thời điểm chưa đổi mới văn học đã bàn sâu về cội nguồn của thứ cảm giác cô độc,
bất an mà ông xem là mã tâm lý bản chất của triết thuyết này: “Triết học hiện
sinh đã phát triển một cách mạnh mẽ trên điêu tàn của một Châu Âu bị tàn phá
một cách khủng khiếp trong Đại chiến thứ hai, trong xã hội mà một nền văn minh
vừa bị chủ nghĩa phát xít chôn vùi. Cuộc sống, loài người, lí tưởng khoa học.
những cái ấy không còn ý nghĩa, trở thành con số không. Người ta ngạc nhiên và
hoài nghi tất cả, xung quanh là đổ vỡ, bên trong là cô độc, người ta bi quan và
khiếp sợ. Một triết học đầy lo âu và tuyệt vọng được khai thác và phát triển,
một thứ văn học của sự hoang vu và tan rã ra đời một cách rầm rộ, đã đáp ứng,
khuếch trương và khuyến khích những tâm trạng cô đơn, bị giày vò ấy” [20, 11].
Nhà nghiên cứu cho rằng: “Quẩn quanh với một thế giới đóng kín, văn học hiện
sinh chủ nghĩa chỉ sản sinh ra được hình tượng những con người khắc khoải, dở
sống dở chết, những con người bừng bừng thức dậy với những cơn mê sảng dữ dội,
những kí ức huyễn hoặc, những ám ảnh khủng khiếp, những hình bóng mơ hồ mà nó
gọi là “thế giới thứ hai”, “xao xuyến náo động làm chấn động con người và vũ
trụ” [20, 14]. Ông chỉ trích khá gay gắt: “Sự thật, triết học hiện sinh và văn
học hiện sinh chủ nghĩa coi rẻ và giày đạp con người, ở đấy con người không
phải là một chủ thể tích cực, tác động đến thế giới và cấu tạo thế giới mà là
một hữu thể tiêu cực “sợ hãi và run rẩy”, cô đơn và bất lực, phiêu lưu và vô
vọng, hữu hạn và phi lý” [20, 13]. Thậm chí, ông khẳng định “vấn đề cần kết
luận ở đây là phải khẳng định tính chất phản động của bộ phận văn học tự nhận
là hiện sinh này...” [20, 258].
Hẳn nhiên, triết học hiện sinh là
thứ triết học bắt nguồn từ những tình huống tâm lí của con người cô độc, bơ vơ
vì bị bỏ rơi. Là triết học của những mảnh vỡ cá nhân không có cơ hội gắn kết,
tái tạo. Nhưng không phải vì thế mà triết hiện sinh chỉ mang một sắc màu lo âu,
tuyệt vọng hay bi quan, chán nản. Theo quan điểm của chúng tôi, từ góc độ những
tài liệu đã bao quát được, chủ nghĩa hiện sinh và những phạm trù bản chất của
nó phần nhiều được nhìn nhận từ góc nhìn mang màu sắc chính trị nên đôi lúc
thiếu khách quan. Mặt khác, đôi khi người ta cũng vô tình làm công việc dựa vào hiện tượng để quy kết bản
chất, trong khi không phải hiện tượng nào cũng phản ánh đúng bản chất, thậm chí
một số hiện tượng còn có thể xuyên tạc, bóp méo bản chất. Triết học hiện sinh
với tất cả những vấn đề thuộc về nó hẳn vẫn sẽ là chủ đề cho những cuộc tranh
luận bất tận, vì lẽ tư tưởng hiện sinh thực chất đã được ươm mầm từ những quan
điểm nhân sinh từng được tích trữ lâu dài và bền bỉ qua thời gian, để rồi sẽ
lại tiếp tục âm thầm chảy mãi đến tương lai, đến chừng nào mà con người còn chưa
tìm được sự cân bằng cho chính mình. Hiện sinh tất nhiên không phải là tôn giáo
nhưng nó lại mang trong mình sức mạnh cải hóa, lôi cuốn, khích lệ con người, nó
đầy những nghịch lý và người ta vì đi theo nó mà cùng một lúc vừa buồn, vui,
ngạo nghễ lại vừa bối rối, lo sợ và đớn đau. Nên chẳng thể trách một ai đó khi
họ cho rằng có bao nhiêu nhà hiện sinh thì có bấy nhiêu quan điểm hiện sinh,
tựa như khi người ta quan sát vật thể qua lăng kính vạn hoa nhiều màu sắc. Quá
khứ là lịch sử và lịch sử không trở lại nhưng cũng không phải là cái phôi phai
mà là một phần của hiện tại, thậm chí có thể soi sáng cho hiện tại nhờ những
giá trị được rút ra từ chính kho dữ liệu đã qua. Điều này cũng có nghĩa là dẫu
trong quá khứ, tư tưởng hiện sinh từng bị phê phán, thì từ những thăng trầm của
dòng tư tưởng này, chúng ta vẫn hoàn toàn có thể lọc ra những giá trị tối ưu để
tiếp cận mạch nguồn hiện sinh trong bối cảnh mới. Có thể khẳng định một điều rằng,
chủ nghĩa hiện sinh ngày càng đi vào những góc khuất với những bản thể trừu
tượng mang tính triết lý. Nhà văn Mai Văn Phấn cũng không ngoại lệ, ở ông cũng
mang đậm dấu ấn hiện sinh.
1.2. Dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ hành trình sáng tạo
1.2.1.Sáng tạo là phủ định bản ngã, là quá trình "vong thân"
Mai Văn Phấn là nhà thơ có vị trí vững vàng trên
thi đàn thơ Việt Nam hiện đại. Ông luôn luôn có xu hướng đổi mới trong hành
trình sáng tạo. Có thể thấy ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn độc đáo và vô cùng mới lạ.
Ông đã dành 16 năm cho việc tự đào tạo và bổ khuyết những gì mình cần, 16 năm ẩn
mình tích lũy và thu nạp để chuẩn bị cho hành trình “vượt thoát”. 16 năm im lặng,
con bướm ngài thu trong kén để tự lớn và rồi đến một ngày nó tung cánh đến trời
xanh trong sự ngỡ ngàng. Có thể
thấy “Mai Văn Phấn bắt đầu làm thơ ở cái tuổi mà
sự chín chắn trong kinh nghiệm sống đã cho phép lí trí của anh tìm
ra một lối đi, một cách nhìn cuộc sống đủ lớn để xác định cho mình
một thế giới nghệ thuật riêng biệt” [10, 103]. Mỗi đứa con tinh thần của
ông ra đời đều là một sự khẳng định mạnh mẽ những
quan niệm nghệ thuật, thể hiện sự cách tân táo bạo trong những bước
tiến của thi ca. Những quan niệm về nghệ thuật được Mai Văn Phấn thể
hiện trực tiếp qua các bài tiểu luận văn học, trả lời phỏng vấn
hoặc qua các sáng tác thơ. Nhà phê
bình Trần Thiện Khanh đã viết: “Về phương diện lí thuyết, có bao
nhiêu người sáng tạo thì có bấy nhiêu quan niệm về thi ca. Suy cho
cùng, mọi quan niệm đều minh chứng cho các cấp độ tư duy, các trình
độ nhận thức khác nhau của người cầm bút về văn học” [32, 507]. Chính vì lẽ đó nên có
bao nhiêu nhà thơ là có bấy
nhiêu con đường sáng tạo đến với thi ca.
Khi
bàn luận về một bài thơ hay, Mai Văn Phấn cho rằng: “Thơ hay thường
bất ngờ, chăm chú đi tìm không dễ thấy. Cái đọng lại trước hết khi
đọc một bài thơ là cốt cách thi sĩ. Theo tôi, việc luyện cốt quan
trọng hơn luyện chữ. Ở những nhà thơ lớn, cốt cách hiện lên rõ ngay ở
những vấn đề tưởng như không đáng nói, như không có gì để nói. Những
nhà thơ lớn ấy, tuy sống và viết ở những thời gian, không gian hay
chính thể khác biệt nhưng họ vẫn gặp nhau trong cách lý giải
những vấn đề lớn, khá đồng nhất và cụ thể” [38, 440]. Mỗi bài thơ hay
đều có khả năng khiến cho người đọc thông tuệ và cao thượng hơn. Chức
năng của văn học nói chung và thơ ca nói riêng là hướng con người đến
cái đẹp. Ngoài mục đích tuyên truyền, mô phỏng hay diễn tả hiện thực
cuộc sống, thơ còn tìm cách đặt tên lại sự vật và định hình lại
thế giới. “Văn chương là hành trình đơn độc đi tìm cái đẹp. Tác phẩm
văn học trước hết quay lại hoàn thiện nhân cách, quan niệm thẩm mỹ
và định hướng cho chính nhà văn ấy” [38, 448].
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã từng nhận xét: “Thơ ca, đối với Mai Văn
Phấn, là cách thức huyền diệu nhất để đặt đời sống lên con đường
vĩnh cửu của nó, (…) là sự xác lập anh với thiên nhiên, với xã hội,
với những giấc mơ huyền diệu và đỉnh cao của nó là xác lập con
người trần tục của nhà thơ với con người sáng tạo ra anh ta” [3, 15]. Vậy nên, thơ
ca luôn hướng con người đến với cái đẹp, nó mang trong mình sứ mệnh
cao cả là cứu rỗi con người và thế giới. Đối với nhà thơ, thơ ca
càng sáng tạo, càng biến ảo bao nhiêu lại càng đem lại sự chân thực
bấy nhiêu. “Hiện thực trong thơ được hiện hữu trên một mặt phẳng cong.
Không gian ấy giúp người viết đồng hành được với quá khứ, hiện tại
và tương lai đa chiều và đa tầng. Nhà thơ khi viết, không nên bận tâm
viết cho ai mà chỉ nghe trái tim mình run rẩy với cảm xúc chân thành
theo một quan niệm riêng” [38, 339]. Sáng
tạo thơ ca là quá trình vượt thoát khỏi cá tính, hay nhà thơ thường
gọi là những cuộc “vong thân”. Đó là một cuộc vượt thoát chính bản
thân mình, tự phủ định những cái đã làm, phải coi cái mình đã viết
là cái đã cũ thì mới mong đạt đến đỉnh cao trong nghệ thuật. “Thật
kinh hãi khi phải ngắm nhìn một người nghệ sĩ cứ đứng mãi một chỗ
mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục gần như vô cảm, nói cách
khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên một mảnh đất đã
cỗi cằn” [38, 339].
Mai Văn Phấn cho rằng nhà thơ phải khác với một người nghệ nhân hay
thợ thủ công, muốn tiếp tục tồn tại trên địa hạt của thi ca thì
phải luôn tái sinh trong những bài thơ mới. Từ
đó, nhà thơ kêu gọi khả năng đồng sáng tạo của độc
giả. Mỗi người đọc đến với thơ đều tự xây dựng cho mình một thế
giới nghệ thuật riêng, mang tính cá nhân độc đáo. Bài thơ được hoàn
thành đồng nghĩa với việc nó cần phải thuộc về số đông độc giả
tiếp nhận, “với bài thơ này, nhà thơ đã hoàn thành sứ mệnh, xin hãy
coi như anh ta đã chết”. Như vậy, mỗi tác phẩm văn học khi ra đời đều
tồn tại độc lập với người nghệ sĩ. Qua phát ngôn này, thi sỹ đang gián tiếp kêu gọi bạn
đọc đồng sáng tạo, kêu gọi hình thành liên văn bản cho tác phẩm. Quan niệm này
của Mai Văn Phấn có điểm gặp gỡ với quan điểm của một số nhà lý luận, phê bình
văn học thế giới và cả Việt Nam. Roman Ingarden cho rằng: “Mọi tác phẩm văn học
đều dang dở, luôn đòi hỏi sự bổ sung mà không bao giờ ta đạt tới giới hạn cuối
cùng bằng văn bản” [5, 43]. Còn nhà
lý luận và phê bình văn học Trương Đăng Dung cũng đã từng khẳng định: “sự tiếp
nhận có nghĩa là quá trình thỏa thuận giữa văn chương và sự tái sáng tạo bản sắc
riêng của người đọc” [5, 58]. Không
chỉ dừng lại ở đó, Mai Văn Phấn còn xem vấn đề cách tân là vấn đề trung tâm
trong quan niệm thơ của mình. Ông dùng từ “vong thân” để nói đến quá trình vượt
thoát khỏi cá tính của người nghệ sĩ. Với Mai Văn Phấn: “Đổi mới thi pháp trước
hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ
khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca
của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện
đại” [38, 378]. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã từng
chia sẻ: “Từ tập thơ đầu tay Giọt nắng đến những bài thơ mới viết là cách tôi
đi từ thói quen truyền thống đến hiện đại. Nói rằng “thói quen”, vì chính những
giá trị nghệ thuật mới lạ hôm nay đang dần trầm tích thành truyền thống. Sáng tạo
chính là cuộc vong thân, là quá trình phủ định bản ngã. Tôi không có thói quen
chiêm bái những con đường cũ của mình. Nỗi ám ảnh tôi ghê gớm nhất là lúc nào
đó không còn đủ ý chí và nghị lực để tự phủ định. Với tôi, phong cách của nhà
thơ không được đơn điệu, nó giống như cái Ru-bích, một trò chơi của trẻ con,
anh muốn xem màu gì xin hãy quay. Nhưng chắc chắn quay chiều nào, cách nào anh
vẫn nhận ra diện mạo tinh thần của thi sĩ. Anh hỏi cách đọc thơ tôi? Xin anh
vui lòng bỏ lại những quan niệm và mọi thói quen thẩm mỹ trước khi đọc, giống như động
tác cởi bỏ giày dép trước khi bước vào nhà” [84].
Nói
đến cuộc sống, Mai Văn Phấn cho rằng: “Hiện thực trong thơ là luồng
phát sáng ra từ bài thơ, để ta cảm nhận được bản chất và sự tế vi
của đời sống thực” [38, 454]. Còn
mỗi bài thơ là “một dự phóng, một kinh nghiệm riêng biệt. Ví như
hình ảnh cụ thể của bông hoa, con sóng, bước chân… chỉ mang đến cho
bài thơ một kinh nghiệm cụ thể rồi vĩnh viễn biến mất. Không cần
chuẩn bị bởi không mang theo thứ gì trong hành trình sáng tạo” [38, 454]. Có thể thấy đời với thơ là một, trùng khớp
với nhau mà nói như nhà phê bình Ngô Hương Giang thì thơ là đời của
một cõi tinh lọc còn đời là một bài thơ chưa được gọt dũa. Cuộc
sống luôn vận động và biến thiên, lòng người ngày càng đa đoan và phức
tạp nên đòi hỏi thơ cũng cần phải được đổi mới và sáng
tạo. Hiện thực trong tác phẩm văn học phải là một siêu hiện thực,
không còn là hiện thực khách quan mà đã được khúc xạ qua lăng kính
chủ quan của nhà thơ, tùy thuộc chặt chẽ vào sự trải nghiệm, vốn
sống và nền tảng văn hóa. Mỗi nhà thơ là một nhà văn hóa, vì
thế hãy tự trang bị cho mình kiến thức tổng hợp ở mọi
lĩnh vực. Đổi mới thi pháp luôn là
con đường đầy khó khăn và hiểm trở. Nó đòi hỏi ở người làm thơ một bản lĩnh, một
nghị lực, một sự quyết tâm cao độ và hơn thế là một tài năng thực sự. Nhưng điều
đáng trân trọng ở Mai Văn Phấn là quan niệm nghệ thuật của ông luôn đồng nhất với
quá trình sáng tạo. Hơn ai hết, là một tín đồ Thiên Chúa giáo, Mai Văn Phấn hiểu
rằng: Đức tin không có việc làm là đức tin chết. Vì thế, Mai Văn Phấn luôn tâm
niệm: “Các khuynh hướng sáng tác đều rất cần và làm phong phú thêm cho nền thi
ca của chúng ta. Hiện chúng ta vẫn còn hoài nghi vì còn quá ít tài năng cho những “thể nghiệm” được thuyết phục” [38, 439]. Bàn về vấn đề đổi mới thi pháp,
nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng
lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm
thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ - tình - cổ - điển,
anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy
ấn tượng của thơ - cách - tân” [25, 420]. Tuy nhiên, Mai Văn Phấn thường tâm niệm: dù có cách
tân thi ca đến đâu thì vẫn phải hướng con người vươn tới cái đẹp. Ông đặt niềm
tin tưởng mạnh mẽ vào một nền thơ Việt trong tương lai với kỳ vọng rất lớn vào
sự nỗ lực không ngừng của thế hệ cầm bút trẻ hôm nay và cả mai sau.
Mai
Văn Phấn luôn coi quá trình sáng
tạo nghệ thuật là một cuộc “vong thân”, một cuộc vượt thoát chính bản thân
mình. Chính vì thế, cho đến nay ông luôn luôn đổi mới, khẳng định vị thế của
mình theo một “cách riêng”. Trong những năm tháng cầm bút, Mai Văn Phấn sáng
tác một số lượng tác phẩm thơ đáng trân trọng. Ông đã từng phát biểu rằng, “sáng
tạo chính là cuộc vong thân, là quá trình phủ định bản ngã” và “bài
thơ tôi vừa viết xong là bài thơ cũ”. Với quan niệm ấy, Mai Văn Phấn luôn
luôn có xu hướng đổi mới trong hành trình sáng tạo thi ca của mình. Nhìn lại chặng
đường sáng tác, thơ ông có một quá trình vận động mạnh mẽ, quyết liệt, đổi mới
cả về nội dung và hình thức. Đó là quá trình vận động, phát triển cùng với xu
hướng cách tân của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
1.2.2.Ý thức từ bỏ thế giới quen thuộc để vươn tới một thế giới khác
Ngay từ thời còn ngồi trên ghế nhà trường, Mai Văn
Phấn đã nổi tiếng là cậu học trò giỏi văn. Ông
sinh năm 1955 tại Ninh Bình, hiện sống và làm việc tại thành phố cảng Hải
Phòng. Nhắc đến vùng đất Ninh Bình, vùng đất với nhiều truyền thống, nét đẹp
văn hóa dân tộc. Mảnh đất quê hương với chiều sâu truyền thống và đặc thù văn
hóa ấy đã in đậm vào tâm khảm thi nhân, tạo nên những trang viết giàu nội lực
và ám ảnh. Là người yêu thơ văn và
bắt đầu làm thơ từ những năm 17 tuổi. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, Mai Văn
Phấn lên đường nhập ngũ. Thời ở trong quân ngũ, lần đầu tiên gửi thơ đăng báo, bài Hoa xoan gửi báo Phụ nữ Việt Nam đã
được đăng ngay. Cứ ngỡ đó sẽ là hành trình để chàng trai đam mê
văn chương hào hứng dấn bước vào con đường văn chương nghệ thuật. Nhưng dường
như khát vọng của chàng trai đam mê thơ kia lớn hơn người ta tưởng. Sau khi
hoàn thành nghĩa vụ quân sự, anh bước vào giảng đường đại học và tu nghiệp ở một
chuyên ngành liên quan đến: ngoại ngữ, ngôn ngữ và văn hóa. Tiếp đó, lại sang trời Tây du học để mở mang tầm
mắt… Những năm tháng du học, với tinh thần ham học hỏi, chàng
trai trẻ đã tiếp thu được tinh hoa văn hóa của nhiều nền văn hóa, văn học lớn
trên thế giới. Đó là những kiến thức làm nền tảng cho hành trình sáng tạo của
nhà thơ về sau. Xuất thân trong gia đình theo đạo Thiên chúa nhưng Mai
Văn Phấn lại phải duyên với một cô gái theo Đạo Phật. Ông đã từng tâm sự: “Tôi đã
đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng người tôi yêu nữa. Khi
nghiên cứu các giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới, tôi nhận ra rằng:
Thượng Đế chỉ có một. Chắc chắn chúng ta được sinh ra và bị chi phối bởi một
Đấng - Toàn - Năng. Đấng - Toàn - Năng cho con người biết được gần đúng khuôn
mặt và tinh thần của Ngài thông qua các hình thức tôn giáo mà thôi”. Qua lời
tâm sự này, chúng ta cũng phần nào thấy được ảnh hưởng của các tôn giáo và các
nền văn hóa thế giới trong thơ ông. Khi bàn về những tôn giáo ảnh hưởng đến Mai
Văn Phấn, Đỗ Lai Thúy đã từng viết: "Khởi nguồn của văn hóa bao giờ cũng từ những niềm tin tôn
giáo. Trong không gian văn hóa Mai Văn Phấn, tôi thấy có ba trụ lớn
là tam giáo của riêng anh: hồn linh giáo, Phật giáo và Kitô
giáo. Thuyết hồn linh là thế giới quan đầu tiên, phổ quát của nhân loại. Nó
làm cho con người hòa đồng với con người và hòa đồng với vũ trụ. Bởi, con
người, con vật, cái cây, hòn đá, quả núi, dòng sông, tuy khác nhau về thực thể,
nhưng đều có chung một thứ quan trọng hơn là linh hồn. Nhưng
rồi các tôn giáo lớn và duy lý xuất hiện, nhiều dân tộc, quốc gia trên thế giới
đã đánh mất hoặc đánh vỡ hồn linh giáo. Riêng ở Việt Nam, một nước thuần
nông, thuyết hồn linh còn tồn tại, thậm chí tồn tại mãnh liệt, đủ sức
chi phối cả những tôn giáo lớn đến sau nó như Phật giáo và Kitô giáo. Với
thế giới quan hồn linh luận, Mai Văn Phấn đã đưa thơ mình trở lại tinh thần
“hòa đồng nguyên thủy”, xóa nhòa ranh giới giữa tôi và phi tôi, giữa tôi
và thế giới” [79].
Bên
cạnh đó yếu tố thời đại cũng góp phần tạo nên một Mai Văn Phấn khác người. Thế
kỉ XX, XXI với sự phát triển bùng nổ của khoa học công nghệ, xã hội phát
triển, tư duy của con người cũng đổi khác. Tương ứng với sự biến đổi của đời
sống vật chất và đời sống tinh thần của con người, thơ ca cũng đang có những
thay đổi với nhiều hướng tìm tòi mạnh mẽ và khác biệt. Nhận thức được điều này,
nhà thơ tìm đến thơ ca để phản ánh hiện thực theo cách riêng, nhằm hướng về
những nét đẹp truyền thống thông qua lăng kính của con người hiện đại. Mai Văn
Phấn trong một bài trả lời phỏng vấn khi được hỏi: Trong tinh thần thi ca của ông, đổi mới, cách tân là câu chuyện sống
còn. Nếu quan niệm thi ca bắt nguồn từ cảm xúc thì tại sao lại phải đặt vấn đề
cách tân, và cách tân thì đi đến đâu? Nhà thơ đã từng chia sẻ: “Giống
như nhiều nhà thơ khác ở Việt Nam, tôi cũng sinh ra từ làng quê, chịu ảnh hưởng
sâu sắc bởi văn hóa làng, những cái đã ổn định, quen thuộc, thành truyền thống.
Tôi được số phận dắt đến với thơ, đến mức độ mình không thể không cầm bút.
Những tác phẩm đầu tiên tôi hoàn toàn do bản năng dẫn dắt. Nhưng sau khi đọc
rộng, nghiên cứu về thơ ca thế giới tôi có một nhận thức là mình phải trở thành
một người sáng tạo chuyên nghiệp. Mình phải trả lời các câu hỏi, thơ thế giới
chuyển động như thế nào? Thơ Việt đang ở đâu ? Cá nhân mình
đang ở đâu? Tôi quan niệm thơ tôi như một cách đồng Việt, nếu không có những
dòng chảy nó sẽ khô kiệt. Những kiến thức tôi đọc, tôi hiểu biết về thi ca
giống như những dòng chảy, chảy qua rồi để lại phù sa và tôi gieo xuống đó một
tâm hồn Việt, thì đương nhiên nó sẽ cho ra những hoa trái Việt. Cách tân nghĩa
là phải tự mở mang cá nhân mình, không bao giờ bước lại con đường cũ. Không bao
giờ dậm chân tại chỗ”. Có thể thấy, yếu tố quê hương, gia
đình, thời đại đã ảnh hưởng, chi phối
mạnh mẽ tới nhiều phương diện nghệ thuật trong thơ
ông. Thơ Mai Văn Phấn thể
hiện tiếng nói tri ân đối với quê nhà, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước,
sự gắn bó với những điều bình
dị của đất đai, làng mạc và khát vọng tìm kiếm, hướng về một tiếng thơ lý tưởng
"thuần Việt". Với ý chí,
nghị lực, sự kiên trì và không ngừng sáng tạo đã giúp ông có một phông văn hóa
rộng và giàu kinh nghiệm trong cuộc sống. Sau một thời gian dài tích lũy kiến
thức, ông đã cho ra mắt bạn đọc hàng loạt ấn phẩm khẳng định sức sáng tạo
dồi dào và tài năng nghệ thuật của bản thân.
Trong
bài Mai Văn Phấn: hiện thân của sự sáng tạo, nhà văn Cao Năm
viết: ‘‘Mai Văn Phấn dường như sinh ra là để năng động và sáng tạo, sáng tạo
không ngừng, con người hiện thân của sự sáng tao’’[32, 33].
Ngoài tài hoa, đam mê, tri thức, ông còn là người dũng cảm và giàu bản lĩnh
trong sáng tạo. Nhà văn Đình Kính đã từng nói : ‘‘Anh làm thơ
như nghệ sĩ tự tin đi trên sợi mảnh, bên dưới là vực sâu hiểm trở, nhưng
vẫn luôn tự tin rằng mình sẽ đến được đích’’[32, 10]. Mai Văn Phấn
- con người luôn mạo hiểm để chinh phục đỉnh cao nghệ thuật. Tự đổi mới và
tự tái tạo không ngừng chính là phẩm chất nổi bật của ông trong sáng tạo. Với
sức sáng tạo say mê, nhiệt huyết, dồi dào, Mai Văn Phấn đã xuất bản 11 tập thơ
và trường ca: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi xanh (thơ,
1995); Cầu nguyện ban mai (thơ, 1997); Nghi lễ nhận
tên (thơ, 1999); Người cùng thời (trường ca,
1999); Vách nước (thơ, 2003); Hôm sau (thơ,
2009); và đột nhiên gió thổi (thơ, 2009); Bầu trời
không mái che (thơ, 2010); hoa giấu mặt (thơ, 2011); Vừa
sinh ra ở đó (thơ, 2013)… Ông
cũng gặt hái được nhiều giải thưởng: Giải thưởng cuộc thi thơ tuần
báo Người Hà Nội (1994), giải thưởng cuộc thi thơ tuần
báo Văn Nghệ (1995), giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh
Khiêm (Hải Phòng) các năm 1991, 1993, 1994, 1995 và giải thưởng Hội
Nhà văn Việt Nam năm 2010 cho tập thơ Bầu trời không mái che. Bởi
không ngừng đổi mới tư duy và
sáng tạo, thơ Mai Văn Phấn không chỉ được bạn bè trong nước quan tâm mà còn
được đông đảo bạn đọc thế giới đón nhận. Ngày 19 tháng 6 năm 2014, ba tập thơ
song ngữ của nhà thơ đất cảng Hải Phòng lọt vào top 10 tập thơ Châu Á bán chạy
nhất trên mạng AmaZon. Đó là hai tập thơ song ngữ Việt - Anh : Ra
vườn chùa xem cắt cỏ (Grass cutting in a temple garden), Những
hạt giống của đêm và ngày (Seeds of night and day) và tập thơ song
Việt - Pháp : Bầu trời không mái che (A ciel ouvert).
Từ trước 1995: Với những sáng tác đầu
tay, Mai Văn Phấn đã có ý thức muốn khác người. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân
Nguyên nhận xét: “Vẫn trong cái vẻ lục bát nhịp nhàng
muốn thành cổ điển, người thơ đặt vào đấy một sự cân
xứng trầm tĩnh khá là lạ nếu ta biết khi anh xuất hiện đang ở tuổi trẻ. Câu thơ
sáu tám trong cái sự chừng mực của khuôn hình nhưng chữ dùng và nhịp thơ của
người viết đã chất chứa một sự thăm dò để bung phá” [32, 8]. Giai đoạn này có 2
tập thơ: Giọt nắng (thơ, 1992); Gọi
xanh (thơ, 1995). Với những tác phẩm này, tên tuổi Mai Văn Phấn bước
đầu được khẳng định qua các giải thưởng: Giải nhất văn nghệ thành phố Hải Phòng
với bài thơ Thuốc đắng (1991), Giải nhì (không có giải nhất)
của hai tờ báo: năm 1994 của báo Người Hà Nội với bài Nghi
Tàm; năm 1995 của báo Văn nghệ với chùm hai bài Mười
nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc và Nhật ký đô thị hóa. Thơ Mai
Văn Phấn luôn hướng về những chủ đề thiên nhiên, tình yêu lứa đôi, tình cảm quê
hương, gia đình…, những chủ đề có tính truyền thống. Những tác phẩm tiêu biểu
của ông thời kì này có thể kể đến: Thuốc
đắng, Mười nén nhang ngã ba Đồng Lộc, Em gái đi lấy chồng, Kinh cầu ban mai,
Nhật kí đô thị... Ở đó, hiện thực đời sống hiện lên
với những đường nét quen thuộc và giản dị: Đưa dâu qua chiếc cầu tre/
lòng anh chạm lá chua me chạnh buồn (Em gái đi lấy chồng). Ngoài thơ lục bát, giai đoạn này Mai Văn
Phấn còn sử dụng thể thơ tự do và thơ văn xuôi. Với hình thức tự do, phóng
khoáng, thơ văn xuôi của ông đưa đến những cảm nhận mới về thế giới: Mùa
thu mang theo trận mưa giục chiếc lá chớm vàng rụng vội. Em dọn lại căn nhà,
còn anh mang chài lưới ra khơi (Ký sự mùa thu). Ở đó
nhà thơ thể hiện khát vọng tìm tòi, dâng hiến: Tôi thổi vào lòng
ống sáo tối đen địa ngục, để tìm ra bảy lối tới thiên đường: đồ rê mi fa son la
si” (Viết cho cây sáo). Có thể thấy thơ
Mai Văn Phấn giai đoạn trước 1995 xét về mặt thi pháp đã có nỗ lực tìm tòi
nhưng vẫn chưa thoát khỏi thi
pháp truyền thống.
Từ
1995 đến 2000, Mai Văn Phấn cho ra đời ba tập thơ: Cầu nguyện ban
mai (1997), Nghi lễ nhận tên (1999) và trường ca Người
cùng thời (1999). Nhà thơ bước đầu làm một cuộc lột xác về nội dung,
tư tưởng cũng như hình thức thể hiện. Về cảm hứng cũng như thi pháp thơ giai
đoạn này đã có nhiều điểm khác trước. Nếu giai đoạn trước, thi sĩ chủ yếu mới
chỉ dừng lại ở cái hiện thực cảm xúc bề mặt, dễ nhận biết của đời sống thì giai
đoạn này, nhà thơ chủ trương hướng về nhận thức chiều sâu nhân sinh. Do đó,
hiện thực được khắc họa với những nét gai góc, phức tạp: Lẽ phải vùi
chôn trong đơn thư mặc danh/ Đồng tiền lật ngược trang hồ sơ khởi tố/ Có mặt
quỷ sau mặt người lấp ló/ Quỷ thì run mà người thì buồn. Cuộc
sống hiện đại đang dần đổi thay: Sủi bọt. Rạn nổ. Vụn nát/ Hơi nóng bốc
cao ngùn ngụt giữa trời/ Nỗi khắc khoải không còn có ý nghĩa/ Sự đổi thay vượt
quá sức mình (Từ hạt mưa); Dấu chân không nhận ra nhau vô cảm
trơn lỳ/ Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ/ cỏ nát... (Khúc
dạo đầu). Ở đó, ý thức cá nhân và tinh thần trách nhiệm cộng đồng hòa nhập làm
một: Ta cúi xuống cuống cuồng thổi lửa/ Nhận ra mình là hòn than cháy
dở đêm qua. Ở đó, xuất hiện những nỗi đau mới và những niềm hy vọng
mới: Từ tưởng tượng/ và niềm hy vọng/ Tôi rút những mũi tên/ Ra đi tìm
đích cho ngày mai (Mũi tên bóng tối). Về thi
pháp, nhà thơ Lê Xuân Đố khẳng định thơ Mai Văn Phấn giai đoạn này “bứt phá
cách tân thi pháp với nhiều cách nói và mở rộng biên độ thơ biểu hiện nhiều vấn
đề của thời cuộc, bản tính con người hiện đại và phát hiện những nét đẹp tiềm
ẩn của tình yêu, đời sống” [32, 283]. Cùng với ý thức cách tân thi pháp, Mai Văn
Phấn khát khao nhận thức hiện thực ở “bề sâu, bề xa” của nó. Mang đậm dấu
ấn hiện đại chủ nghĩa, thơ ông giờ đây có khi chỉ là những “Dàn ý” hay “Bài
tập mùa xuân”, hoặc những ý tưởng bất chợt “đến trong ý nghĩ”. Những
câu chữ bề bộn, phá vỡ ranh giới thơ và văn xuôi, không hề có dấu câu, miên man
như “những ý nghĩa không sắp đặt”, “đảo lộn mọi quy ước phổ thông”. Điều
này được chứng minh qua các bài thơ tiêu biểu như: Mười bài tập mùa
xuân, Mail cho em, Những ý nghĩ không sắp đặt, Dừng lại, Di chứng, Niệm khúc số
18… Trong những tổ chức ngôn từ tưởng chừng như phi logic, nhà thơ đang đến
gần hơn với tiếng nói của trực giác, vô thức, tâm linh. Vì thế, Văn Giá đã
khẳng định: “Chặng thứ 2 là cả một nỗ lực bứt phá: giờ đây không trọng tự tình
nữa, mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở chặng này cũng đã xuất
hiện chất ảo như là sự manh nha, để rồi phát huy rõ rệt ở chặng 3” [62, 539].
Từ
2000 đến nay, Mai Văn Phấn cho ra đời hàng loạt tập thơ: Vách
nước (2003), Hôm sau (2009), và đột
nhiên gió thổi (2009), Bầu trời không mái che (2010), Vừa
sinh ra ở đó (2013)... thể hiện sức sáng tạo dồi dào của nhà thơ. Đây
được đánh giá là giai đoạn nở rộ tài năng của thi sỹ. Thi pháp thơ Mai Văn Phấn
tiếp tục cách tân với những hình ảnh, liên tưởng, ngôn từ lạ. Thay cho cái
nhìn mang tính “nhất phiến” trước đây là một cái nhìn “phân mảnh” đầy hoang
mang, “sản phẩm” của một thời đại đầy bất an và biến động. Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ, Không thể tin, Quay theo mái nhà, Anh tôi, Đúng vậy,
Chỉ là giấc mơ, Còn cậu hãy đứng đằng kia… phản chiếu một cái nhìn hài
hước, không kém phần tỉnh táo về một thế giới bị xô lệch, con người bị biến
dạng, trở nên méo mó, không khác gì những sản phẩm “chế tác từ đồ phế thải”.
Giai đoạn này, nhà thơ tiếp tục dung nạp những thủ pháp, kĩ thuật viết mới,
phức tạp theo hướng hiện đại và hậu hiện đại. Song bên cạnh đó, tư tưởng và nỗ
lực hướng đến một lối viết “tự nhiên/ như đi trên đất”, giản dị,
“thuần Việt”, ngày càng lộ rõ nét trong Những bông hoa mùa thu, Cửa
mẫu, Hình đám cỏ…, và gần đây nhất là những tác phẩm trong tập Vừa
sinh ra ở đó.
Ngày
nay thơ đương đại đang biến chuyển mạnh và khá đa dạng. Đó là tín hiệu đáng
mừng của đời sống văn học hôm nay. Người đọc cũng biến đổi theo nhiều khuynh
hướng đọc, tự do chọn lựa phong cách thơ yêu thích. Mai Văn Phấn là tác giả
khởi nguồn và ra đi từ thơ truyền thống, kết hợp những tinh hoa của các khuynh
hướng thơ khác, nhằm tìm đến một phong cách hiện đại mang đậm căn tính Việt.
Tuy nhiên những bài thơ mà Mai Văn Phấn viết theo khuynh hướng cách tân được
đông đảo bạn đọc lựa chọn nhiều hơn. Cũng như phần đông các tác giả cùng thế
hệ, Mai Văn Phấn từng chịu ảnh hưởng của dòng thơ hiện thực và lãng mạn, một hệ
hình thẩm mỹ vốn đã ổn định. Khuynh hướng này đã tạo được những đỉnh cao thơ
Việt trong quá khứ, nhưng vì nó ngự trị văn đàn quá lâu nên đã trở thành thử
thách lớn với những thế hệ thơ sau đó. Những tác phẩm ra đời kế tiếp theo
khuynh hướng này thường mang cho người đọc cảm giác quen thuộc, đơn điệu, trơ
mòn cảm xúc… Một số bài thơ của Mai Văn Phấn trong giai đoạn khởi đầu đã chịu
ảnh hưởng hiện thực và lãng mạn, nên khi dịch ra ngôn ngữ khác, đều có chung
một nhận xét từ bên ngoài: đơn tuyến, ít gợi mở, quen thuộc. Trong rất nhiều
những lần phỏng vấn, nhà thơ đã từng chia sẻ: “Tôi đã cố gắng bước qua cái ranh
giới vô hình trong quan niệm nghệ thuật cũ, nơi từ trong nhà trường mình được
học tập, từng chịu ảnh hưởng bầu không khí văn học khi còn ở tuổi đôi mươi để
đến với những hệ hình thẩm mỹ khác. Tôi hội nhập, và có lúc cũng bị xóa nhòa,
rồi sau đó thoát khỏi những trào lưu ấy. Đó là một hành trình giúp tôi có được
những tinh hoa của các khuynh hướng thơ khác, chủ yếu thịnh hành trong thế kỷ
vừa qua... Sự khác biệt giữa thơ tôi trước đây và bây giờ, như đã nói, chính là
cách thiết lập không gian và kết nối điểm nhìn. Có thể tạm ví giai đoạn khởi đầu
của thơ tôi là hình học phẳng, với những hình thể rõ nét, dễ xác định. Chúng
được mô phỏng, thậm chí sao chép lại các hiện tượng đời sống rồi kết nối các
thi ảnh bằng cảm xúc. Nhiều khi cảm xúc ấy chỉ tập trung vào các thán ngữ, thán
từ nên khi dịch sang ngôn ngữ khác, bài thơ đã không còn sức nặng, không còn
cái thần của nó như trong văn bản gốc. Giai đoạn gần đây tôi chú trọng tạo dựng
không gian đa chiều, đa điểm nhìn, mời gọi độc giả đồng sáng tạo với mình trong
một thế giới thơ riêng, tạo được thái độ bình đẳng, gợi mở, không áp đặt độc
giả khi tiếp nhận văn bản. Không gian đa chiều có khả năng kết nối, làm đồng
hiện các chiều không - thời - gian, phục hoạt quá khứ, khiến nó cật vấn hiện
tại, đối thoại với tương lai…”. Có
thể thấy không gian thơ đa chiều, đa điểm nhìn trong thơ Mai Văn Phấn cũng tạo
độ mở lớn cho người đọc khi tiếp cận tác phẩm. Mỗi người đọc thường đến với bài
thơ bằng kinh nghiệm, trải nghiệm riêng và có thể cho ra nhiều kết quả khác
biệt. Cách thiết lập không gian thơ của ông tương đối đồng điệu với không gian
thơ các tác giả đương đại ngoài nước. Tuy nhiên điều trăn trở nhất đối với Mai
Văn Phấn là làm sao để thể hiện đậm nét căn tính Việt trong tác phẩm của mình?
Ông đã từng khẳng định: “Theo tôi, căn tính Việt là bản đồ biên giới xác định
thơ của chúng ta có bản sắc khác với thơ các dân tộc khác. Nếu trong thơ thiếu
căn tính này, có nghĩa, các nhà thơ đã đánh mất danh tính, giá trị khác biệt
cần có”. Vậy thế nào là căn tính dân tộc trong tác phẩm thơ? Từ góc nhìn của
người sáng tác, nhà thơ quan niệm rằng: “Căn tính dân tộc là một thuộc tính mở
và luôn được tiếp biến từ thị hiếu, tâm lý tiếp nhận của người đọc đương thời.
Bởi, chính thị hiếu, tâm lý của mỗi người luôn được kết tinh và tiếp biến từ
nền tảng văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán dân tộc. Khi căn tính dân tộc
trong sáng tạo bắt đầu ổn định để kết tinh thành giá trị truyền thống, thì cũng
là lúc nó phải đi tìm những giá trị mới khác. Căn tính dân tộc làm nên cốt cách
văn hóa của mỗi con người trong dân tộc ấy. Tương tự như vậy, căn tính dân tộc
trong thơ đã làm nên diện mạo tinh thần của mỗi nhà thơ, là gương mặt tiêu biểu
được tạo dựng bằng ngôn ngữ thơ của dân tộc. Mối tương quan giữa nghệ sĩ và căn
tính dân tộc không chỉ đơn thuần là mối gắn kết như cây và cội, dòng sông và
đôi bờ…, mà chính là sự tương liên bình đẳng, làm cho nhau phong phú thêm, giàu
có thêm. Do vậy, có thể hiểu rằng căn tính dân tộc luôn được bồi đắp, mở rộng
bằng tác phẩm của nghệ sĩ, cũng như theo quá trình phát triển của quốc gia, dân
tộc” [46]. “Căn tính dân tộc
trong thơ không phải là thuộc tính truyền thống dân tộc Việt trong sự hoàn tất,
đó là một vẻ đẹp mới được cải biến từ bên trong, với những giá trị mang tính
nhân loại. Lúc này, hơn bao giờ hết, thế giới hỗn độn với những đứt gãy của nó
cần được hiển thị bằng một “tư duy thi ca” mới đủ sức nắm bắt cảm thức thời đại
mà không bị chính sự hỗn độn của thực tại nhấn chìm” [46]. Vậy
nên đổi mới thi pháp chính là một cuộc cách mạng giữa nội dung và
hình thức. “Nội dung phải là chất liệu đã mang một hình thức được
xác định và hình thức không bao giờ tồn tại độc lập với nội dung
của chính nó” [38, 456].
Hình thức được “chuyển hóa từ nội dung đó mới là đổi mới thực sự”
[38, 457]. Cách mạng thi ca cần phải gắn liền sáng tạo
những hình thức mới với một nội dung mới.
* * *
Từ đây
có thể khẳng định một lần nữa, căn tính dân tộc luôn thường trực trong mỗi cá
thể sáng tạo. “Nhà thơ biết thắp sáng nó để tự thân anh ta càng mạnh mẽ, thực
hiện thành công những cuộc ra đi. Hành trình của sáng tạo chính là liên tiếp
lên đường tìm đến những giá trị mới khác” [46]. Từ những phân tích trên có thể
thấy, Mai Văn Phấn là nhà thơ luôn có ý thức đổi mới thi ca, đổi mới phương
pháp sáng tác cũng `như tạo sự đa dạng trong thể tài. Những quan niệm về nghệ
thuật cũng như nhận thức sứ mệnh người nghệ sĩ đã phản ánh phần nào phẩm chất
cũng như phong cách riêng của nhà thơ trong dòng chảy thơ đương đại.
Chương
2. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ CÁI TÔI TRỮ TÌNH
Mai Văn Phấn là nhà thơ am tường văn hóa, triết học phương Đông và phương Tây,
cùng với năng lực sáng tạo mạnh mẽ và liên tục, ông đã mang đến nhiều tác phẩm
đồ sộ. Tư tưởng và quan niệm
thơ ca của Mai Văn Phấn là một sự giác ngộ sâu sắc về cuộc đời, về tri thức
nhân loại mà ông lĩnh hội được. Sự hòa điệu của các nguồn tư tưởng với các khuynh hướng nghệ thuật, đã giúp ông hình thành nhãn quan về con người, cuộc sống, thiên nhiên và vũ trụ. Đồng thời cũng chính là quá trình hình thành hệ
hình thẩm mỹ bản thể hiện sinh độc đáo trong thơ ông. Có lẽ rằng hướng về hiện
thực ở bề sâu luôn là khát khao cháy bỏng trong tâm thức của nhà thơ. Một thế
giới thơ với nhiều cung bậc cảm xúc và giàu tính nhân văn. Đến với thơ bằng sự
nhạy bén và tinh tế chảy từ con tim thi sĩ, Mai Văn Phấn đã cho người đọc tiếp
cận với hình tượng cái tôi trữ tình độc đáo, đầy ấn tượng. Cái tôi đó tồn tại
không hề có sự biệt lập với thế giới bên ngoài mà luôn trong tâm thế hòa hợp
cùng khách thể. Nhà thơ trải lòng mình với đất trời và vạn vật. Bởi thế, hình
tượng cái tôi trữ tình trong thơ hiện lên với nhiều dáng vẻ: Cái tôi trữ tình
“hòa tan” và cái tôi trữ tình “độc sáng”; Cái tôi “hoài nghi” các giá trị và “dự
cảm” về tương lai; Đặc biệt là một tấm lòng, một trái tim hết lòng sùng kính với
đấng tối cao bằng một đức tin thiêng liêng, màu nhiệm. Tất cả đã tạo nên những
nét đẹp riêng, đầy phong cách từ dáng vẻ đến tâm hồn của thi sĩ.
2.1. Cái tôi trữ tình “hòa tan” và
cái tôi trữ tình “độc sáng”
Có thể
khẳng định rằng, trong dòng chảy văn học Việt Nam, những nghệ sĩ tài năng đều
chọn cho mình một lối đi riêng, lối đi ấy được xem như một sự lựa chọn của họ
trước hiện hữu. Bởi, họ không bao giờ muốn mình trở thành một thứ “chim trong
lồng”, một “thứ búp bê trong tủ kính”. Người nghệ sĩ đích thực là biết đi đến
tận cùng của sự sáng tạo theo sự chọn lựa hiện sinh của chính mình. Mai Văn
Phấn là nghệ sĩ như thế. Ông không chỉ là nghệ sĩ đa tài mà còn là nghệ sĩ biết
chọn cho mình một cách sống, một cách hiện hữu cho dù phải trải qua những gian
truân. Vì vậy, có thể nói Mai Văn Phấn là một hiện tượng độc đáo của thơ ca
đương đại. Ông không nhìn hiện thực như nó phải có mà nhìn hiện thực như nó vốn
có. Và cái nhìn đầy cá tính này chính là biểu hiện rõ ràng nhất cho cảm thức
hiện sinh trong thơ ông. Đến với thơ ca, mỗi nghệ sĩ đều tìm cho mình một tâm thế nhất định. Điều đó
không chỉ là kim chỉ nam cho sáng tác của thi sĩ mà còn góp phần tạo nên sắc điệu
riêng trong sáng tác ở mỗi người. Trong quá trình sáng tác của mỗi nhà thơ,
chính là sự ghi dấu về nhân sinh quan và thế giới quan. Trong đó, mỗi cách nhìn
nhận và đánh giá của thi sĩ sẽ như một nốt nhạc của bản hòa tấu về con người và
cuộc đời.
Các nhà hiện sinh cho rằng, quá khứ
là lực cản trên hành trình sống của con người. Cũng là dĩ vãng của ta, nhưng có
thể có hai thái độ. Chiếm hữu hay hiện hữu. Nếu ta chiếm hữu thì sẽ biến dĩ
vãng thành một sự vật khô cứng và ứ đọng. Các triết gia hiện sinh quan niệm, dĩ
vãng là cái đã chết; Người sống luôn nhờ vào dĩ vãng là người chọn mình vào cõi
chết. Họ chết vì họ không sống trong hiện tại và không có dự tính để vươn mình
về tương lai nữa. Trái lại, nếu ta hiện hữu dĩ vãng của ta, nghĩa là nếu ta
không cho dĩ vãng đó là thành công của đời ta, khi đó dĩ vãng không còn là một
sở hữu ngoài ta và thuộc về ta nhưng là ta ngày nay. Nói dĩ vãng là ngày nay vì không có mục tiêu nào
khác ngoài sự dẫn ta tới chỗ thực hiện công việc của ngày nay. Dĩ vãng là một
bước để ta tiến đến hiện tại. Nhiều khi người ta đau khổ bởi sự ám ảnh của quá
khứ hoặc lo lắng dự trù cho tương lai. Người theo chủ nghĩa hiện sinh không như
vậy, mà tự nhắc nhở hiện tại là khung thời gian duy nhất ta thực sự được “ăn ở”,
vì vậy ta nên nỗ lực ở với nó một cách thân mật, nồng nhiệt, cũng như tránh
phán xét những gì xảy ra trong quá khứ. Con người hiện sinh phải đoạn tuyệt với
quá khứ để tiến lên. Nhưng với Mai Văn Phấn, văn hóa Việt và sự tri ân nguồn cội
vẫn đậm từ tâm thức. Chảy trong huyết quản của ông vẫn là dòng máu nồng ấm của
con Rồng cháu Tiên nên thái độ sống ấy hiện sinh nhưng mang đậm bản sắc dân tộc
Việt.
Đầu tiên có thể thấy ở Mai Văn Phấn là cái tôi trữ
tình "hoà tan". “Hòa tan” ở đây chúng ta có thể hiểu đó là cái tôi
hoà đồng với nhân gian, thiên nhiên và vũ trụ. Trong
tiểu luận Thơ, giá trị cần đến, Mai Văn Phấn khẳng định: “Hơi thở
Việt được hiểu như là một hệ thống sinh thái, tập hợp nhiều thực thể độc lập
nhưng liên quan với nhau, bắt nguồn từ cội rễ văn hóa và bản sắc dân tộc. Tạo
nên một nền thơ hiện đại, làm phong phú tính truyền thống là nhiệm vụ cốt tử
của mỗi nhà thơ” [38, 375]. Mặc dù luôn có
những đổi mới, cách tân, tìm ra những giá trị mới khác nhưng
nhà thơ luôn có ý thức tiếp thu những tinh
hoa văn hóa dân tộc. Trên con đường cách tân, tìm tòi những
thi pháp mới, nhà thơ luôn khao khát đưa cảm xúc về với cái bản thể
tự nhiên nhất của con người, hướng đến một lối viết
giản dị mà sâu sắc, uyên bác mà hồn nhiên “tự
nhiên như đi trên đất”. Bởi vậy mà sau khi băng qua những vùng “sa mạc” như
siêu thực, tượng trưng, hậu hiện đại,… nhà thơ lại tìm về với cội nguồn của thi
ca để cảm xúc được trôi chảy một cách hồn nhiên và trong trẻo nhất. Cái đẹp
trong thơ Mai Văn Phấn nằm ở chính sự trong trẻo của cảm xúc, ở đó nhà thơ như
được tìm về với cội nguồn dân tộc, hòa mình với vũ trụ, với thiên nhiên và đất
trời để từ đó cảm nhận được những vẻ đẹp thuần Việt. “Thuần Việt” là một thuật
ngữ mang tính quy ước nhiều hơn là một khái niệm hàn lâm, khoa học; thường được
nhà thơ nhắc đến trong nhiều bài phỏng vấn cũng như tiểu luận văn học. Tác giả
luôn có ý thức hướng đến những cái đẹp mang tính hồn cốt, bản sắc văn hóa của
dân tộc, những điều giản dị và thân quen trong cuộc sống. Trong tiểu luận Thơ
Việt Nam đương đại buổi ra đi và trở về, Mai Văn Phấn cho rằng: “Tôi hâm mộ
ai đó dám bước đi và biết quay về trên cội nguồn thơ Việt, với tâm thức của
thời đại, biết vận dụng linh hoạt thi pháp các trường phái mà không đánh mất
bản chất tâm hồn Việt, vốn trong sáng, chân thành, bao dung mà rất hiện sinh,
tinh tế trong cảm nhận, nhân bản hồn hậu trong nghĩ suy về phận người” [38, 385].
Với
quan niệm tìm về với cội nguồn dân tộc, hòa mình vào thiên nhiên và đất trời,
nhà thơ không có ý định xác lập lại một thế giới cũ kĩ, thay vào đó là những
không gian văn hóa mang vẻ đẹp bình dị, gần gũi và hiện đại. Bằng
cảm xúc hồn nhiên và trong trẻo nhất, Mai Văn Phấn đã kiến tạo một trường thẩm
mỹ lí tưởng mà ở đó người đọc dễ dàng nhận thấy một con người nặng lòng với
những giá trị văn hóa, hướng về đời sống tâm linh bằng cái tâm trong sáng, thanh
tịnh. Qua thơ Mai Văn Phấn, nhiều nét văn hóa cổ truyền của dân tộc được sống
lại như: không gian nghi lễ, hầu đồng, địa danh lịch sử... cũng được ghi dấu
trong thơ gợi nhắc một thời
quá khứ hào hùng của dân tộc. Thế giới tự nhiên trong thơ Mai Văn Phấn gần gũi, trong trẻo, giao hoà với
con người để từ đó con người nhận ra mình đích thực là một phần của tự nhiên,
được hoá thân vào thiên nhiên, học từ thiên nhiên những bài học lớn: Co quắp con ngủ trong gió lạnh/ Mơ thành bào
thai/ Cuống nhau nối với mặt trời (Cửa Mẫu) hay Anh nhào lộn giữa gió và nước/ tôm cá và mặt
trời/ rong rêu và mây trắng/ kí ức và mộng tưởng (Hình đám cỏ) hoặc Tôi lặng yên làm cát đá/ Ngây ngô trong mưa
nắng/ Bóng đêm trinh bạch (Tĩnh lặng); Nhắm mắt anh hình dung quả chín rụng vào cơ thể, nước quả óng vàng
loang chảy, ấp ủ anh thành hạt nhân bùi trong ruột mát thơm (Giấc mơ
cây). Trong thơ Mai Văn Phấn, thiên nhiên không còn là nền cảnh hay là đối tượng
nhân vật được nhân cách hoá để con người trò chuyện, đối thoại hoặc coi thiên
nhiên là chốn ẩn dật mà thiên nhiên đã hoà làm một với con người, không thể
tách rời. Mai Văn Phấn trả con người về đúng vị trí của nó. Những dòng thơ từ mạch
cảm hứng trào dâng với chiêm nghiệm đầy triết lý: con người được sinh ra từ
thiên nhiên, được tái sinh nhờ nó và ông mang đến thông điệp rằng: đừng nên huỷ
diệt nó bởi những tham vọng bá quyền của mình, mỗi sinh thể thiên nhiên cần được
con người đối xử bình đẳng và công bằng.
Thế
giới hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn còn cho chúng ta thấy nhiều
khi con người muốn hòa mình vào thiên nhiên, muốn mình không còn là mình “đơn
lẻ” nữa. Con người tìm đến thiên nhiên như một vị cứu cánh để giãi bày tâm sự.
Thông qua mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, Mai Văn Phấn muốn truyền
tải thông điệp của mình đến cho người đọc. Trong thơ Mai Văn Phấn thiên nhiên
không đơn thuần là những vật thể vô tri vô giác mà nó có hồn, có những
quyền lực riêng và có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực lên đời sống vật chất
và tinh thần của con người.
Trăng
tỏa mềm đất rộng. Mặt đất lặng thinh dưới sức mạnh trăng. Như những lằn roi
ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng anh. Gió.
Gió
tung bờm đột ngột
Tiếng
vó anh khua vào xa
tít
(Nhìn
anh)
Những
câu thơ hiện lên cho ta thấy rõ mối quan hệ giữa thiên nhiên, con người và vũ
trụ là sự gắn kết và tổng hòa, đa dạng và đồng nhất. Nhân vật “anh” trong khổ
thơ trên hòa mình vào trời đất và cảm nhận được mọi sự thay đổi tế vi nhất của
thiên nhiên. Những cơn gió mát lành trong đêm trăng sáng được nhân vật “anh”
cảm nhận như “những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng”. Đây là sự
liên tưởng rất mới lạ và độc đáo. Con người và thiên nhiên như hòa vào nhau,
quên đi những phiền muộn của cuộc sống xung quanh. Con người trong thơ Mai Văn
Phấn tìm đến thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên để cùng nhau sinh tồn. Con người
nhập cái tôi vào vũ trụ, vào thiên nhiên, vào thế giới để nhận ra cái tinh
thần, thần thái của muôn vật, để tìm ra hướng đi cho bản thân. Với
Mai Văn Phấn, sự hoà đồng với nhân gian,
thiên nhiên và vũ trụ được thể hiện ở việc nhà thơ tìm về
với cội nguồn dân tộc. Đặc biệt những nét đẹp văn hóa hay những sự kiện, dấu
mốc lịch sử hào hùng đã qua được tác giả khéo léo đưa vào trong thơ với niềm tự
hào sâu sắc: Với ước muốn được trở về với “bản chất tâm hồn Việt”, những thanh
âm trong trẻo của xóm làng như lời Mai Văn Phấn đã từng tâm sự, đã tạo dựng cho
thơ những không gian nghệ thuật bình dị và vô cùng thân quen:
Thu về
em ấp
Cốm
non lãng đãng sương giăng
Khăn
áo ấy mịn màng da thịt
Dâng
heo may lên trời
Nhịp
cốm giã rộn mùa thóc nếp
Thúng mủng
dần sàng vỏ trấu hây hây
Trái
bưởi thơm dịu nắng hanh
Thanh
khiết chùm hoa mộc
Giữa
đất trời ngó sen sau mưa
Da
diết nhớ từng vòng cuộn xiết
Lá
sen xanh ủ cốm em anh
Chín
nẫu chân mây mùa hạ
Đêm
ái ân lặng phắc ngọn đèn
Trái
hồng đượm trong hương cốm nõn.
(Cốm hương - Bầu trời không mái che)
Mỗi
chúng ta khi nhắc đến cốm đều nghĩ đến một món ăn mang tính dân tộc, đậm đà
hương vị Bắc Bộ. Bài thơ vừa mang cái hương của trái bưởi, của
chùm hoa, của trái hồng đượm, hương cốm nõn vừa mang cái sắc của chân mây mùa
hạ, của đất trời sau mưa, lại có những thanh âm rộn ràng của thúng mủng, dần,
sàng hay cái nóng bỏng chìm sâu trong sự tĩnh lặng của những đêm ân ái. Mọi sự
vật được tác giả cảm nhận đều mang một vẻ đẹp tinh khiết, khôi nguyên: trái
bưởi thơm dịu, chùm hoa thanh khiết, ngó sen sau mưa, trái hồng đượm, hương cốm
nõn. Nhà thơ đã khéo léo chọn những thức quà đặc trưng cho mùa thu Bắc Bộ, gợi
lên một không gian sinh động và truyền thống của nền văn minh lúa nước, giản dị
và thân quen, gần gũi và hồn hậu. Khi hòa mình vào thiên nhiên, vũ trụ,
nhà thơ luôn khêu gợi con người phải hướng
đến cái tâm thanh tịnh, giữ gìn cốt cách. Bởi cuộc sống ngày càng phát triển,
sự xô bồ của đô thị đang làm con người quay cuồng trong guồng máy công nghiệp,
vì vậy việc giữ vững những
nét đẹp trong tâm hồn dân tộc luôn là một yêu cầu lớn.
Cánh
hoa sen
Ngay
ngắn rơi xuống
Vũng
bùn
(Cốt cách - hoa giấu mặt)
Khi
con người ý thức được việc phải giữ gìn nhân cách, không ngừng phấn đấu và rèn
luyện thì “cốt cách” sẽ luôn được khẳng định dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Vì
thế cánh hoa sen thanh khiết, cao sang dù rơi xuống vũng bùn vẫn giữ nguyên
tinh thần của nó. Tiếp nhận và phát huy những bài học quý báu của ông cha ta để
lại, Mai Văn Phấn đã nêu lên một bài học lớn về việc bảo vệ nhân cách và tâm
hồn con người. Như vậy, trong xu thế vận động và cách tân thơ, Mai Văn Phấn
ngày càng có ý thức tìm kiếm một vẻ đẹp bình dị,
mang tinh thần và cốt cách dân tộc Việt.
Cái đẹp trong thơ ông là sự tìm về cội nguồn dân tộc, nặng lòng với các giá trị
văn hóa truyền thống, những điều giản dị và thân quen của làng quê hay hướng
con người đến sự an nhiên, thanh tịnh. Thẩm mỹ trong thơ vừa mang hơi thở
truyền thống lại vừa kết hợp với tiết tấu của đời sống đương đại. Những trang
thơ Mai Văn Phấn đã mang đến cho người đọc cảm nhận một lối viết nhẹ nhàng như
“đi trên cát”, nhưng sâu sắc và đa nghĩa. Đồng thời với tình yêu quê hương, đất
nước, sự hòa hợp, đồng điệu với thiên nhiên, vũ trụ và đất trời đã tạo nên một
âm hưởng khó phai trong lòng bạn đọc. Những cống
hiến và khát vọng của Mai Văn Phấn xứng đáng được bạn đọc dành cho nhà thơ
nhiều sự mến mộ. “Nhà thơ biết thắp sáng nó để tự thân
anh ta càng mạnh mẽ, thực hiện thành công những cuộc ra đi... Hành trình của
sáng tạo chính là liên tiếp lên đường tìm đến những giá trị mới khác. Căn tính
dân tộc trong thơ không phải là thuộc tính truyền thống dân tộc Việt trong sự
hoàn tất, đó là một vẻ đẹp mới được cải biến từ bên trong, với những giá trị
mang tính nhân loại. Lúc này, hơn bao giờ hết, thế giới hỗn độn với những đứt
gãy của nó cần được hiển thị bằng một “tư duy thi ca” mới đủ sức nắm bắt cảm
thức thời đại mà không bị chính sự hỗn độn của thực tại nhấn chìm” [46]. Bởi lẽ đó Mai Văn Phấn
luôn ý thức được bản thân mình cần và sẽ làm gì.
Bên cạnh cái tôi trữ tình “hòa tan”, với thiên
nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ. Mai Văn Phấn còn khẳng định vị thế của
mình với cái tôi trữ tình “độc sáng”.
“Anh là con cá miệng dàn
dụa trăng
Rời bỏ bầy đàn quẫy vào
biển động”
(Ngậm em trong miệng)
Triết học hiện sinh lay tỉnh con người, nhắc cho mỗi
người biết rằng mình là một độc đáo và mình phải hoàn thành cái định mệnh độc
đáo của mình. Một khi đã ý thức sâu xa về tính chất độc đáo hiện sinh, con người
tự cảm thấy: chính tôi sẽ chết cái chết của tôi, không ai chết thay tôi cả. Con
người trong thơ Mai Văn Phấn với tư cách là “một mạch nguồn tuyệt đối” luôn làm
chủ cuộc đời mình. Tâm thế con người là luôn đứng trên sự sống, nhìn nhận sự sống.
Con người không chỉ là kẻ luôn “chuẩn bị sống” mà còn là kẻ thường trực ý nghĩ
sâu sắc tâm thế “chuẩn bị chết”. Họ biết sống là “một quá trình”, là một sự “thỏa
thuận”, sống thực chất là chuẩn bị chết. Khi ý thức rõ về giới hạn của đời sống,
giới hạn của bản thân, con người sẽ tự do lựa chọn thái độ sống và dấn thân trải
nghiệm. Con người hiện sinh từ chối mọi nguyên tắc áp đặt từ bên ngoài. Con người
hiện sinh không quan tâm đến quá khứ, họ chỉ quan tâm đến hiện tại. Người hiện
sinh chủ trương cắt đứt với quá khứ, chặn đứng nẻo đường tương lai, chỉ chú trọng
cái thực tại hiện tồn. Jean-Paul Satre nói: “Chỉ có thực tại mới đáng kể còn những
mơ màng, những sự chờ đợi, những niềm hi vọng cho phép ta định nghĩa con người
như một giấc mộng tàn tạ, như một hy vọng bất thành, một sự chờ đợi luống cuống”.
Gabriel Marcel là người chống lại khách thể tính, chống lại mọi hình thức cứng
đọng. Ông lay tỉnh con người để họ đừng triền miên trong tình trạng phóng thể về
dĩ vãng của họ. Theo Gabriel Marcel thì những vĩ nhân phải chọn: Một là đừng ỉ
lại vào dĩ vãng để khỏi sa lầy trong an hưởng, hai là chỉ sống để nghĩ về sự
nghiệp của mình thì nhất định sẽ nhốt mình trong hưu trí. Con người hiện sinh
phải luôn tiến về phía trước. Khi ta say sưa về dĩ vãng của ta, ta giống như
người ngồi nghe đĩa hát, những mảnh đời kia không còn là đời sống thực nữa,
nhưng là những mảnh đời bị khách thể hóa, đã trở thành sự vật ngoài ta, đó là
những sở hữu. Chính vì thế, dĩ vãng sẽ làm hại ta, biến ta thành cái đĩa hát nếu
ta vô tình coi dĩ vãng của ta như một kiểu sở hữu. Chú giải về tư tưởng của
Gabriel Marcel về tính cách sở hữu của dĩ vãng, Troisfontaines viết: “Nói về dĩ
vãng của tôi tức là đứng vào lập trường giữa sống cái dĩ vãng đó và nhìn vào
cái dĩ vãng đó… Tôi có vẻ đang kể chuyện đời mình cho người khác nghe. Nhưng bản
tính của những câu chuyện là nếu kể đi kể lại, chúng ta sẽ cứng đọng chung
quanh mấy điểm thôi. Rồi có ngày, tôi sẽ có cảm tưởng như ai đó đang kể truyện
đó cho tôi nghe chứ không phải tôi nhớ lại dĩ vãng của tôi nữa. Tôi chỉ có việc
quay đĩa hát thôi. Cho nên dĩ vãng của tôi ngày càng mất đi tính chất nhân vị,
nếu tôi hay nhắc lại dĩ vãng đó. Tôi thấy tôi là kẻ xa lạ với tôi” [7]. Có thể
nói, sự “bất khả thể” trong hành trình tìm kiếm mình của tâm thức hiện sinh
trong thơ Mai Văn Phấn cũng như trong thơ của các nhà thơ Việt Nam thời kì đổi
mới. Trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, khát vọng đi tìm cái tôi bản thể đã biến thành mộng
mị gắn liền với hành trình sống, với sự hiện hữu của thân phận mà chị là một hữu
thể: “Đêm qua/ Tôi mơ thành tôi/ Tôi mơ
thành chim/ Tôi mơ thành giấc mơ” (Đề tặng một giấc mơ). Với Bùi Kim Anh,
khát vọng đi tìm cái tôi bản thể đã bị lạc mất giữa “khoảng trời mênh mông” vô định trên cõi nhân gian đã khiến chị ngẩn
ngơ nuối tiếc, mà không có ý thức hiện sinh sẽ không bao giờ nhận ra giá trị của
nó: “Ngày xưa đã ngày xưa rồi/ Tôi tìm tôi/ Lạc khoảng trời mênh mông” (Lạc
khoảng trời). Phan Huyền Thư trong Sẹo độc
lập luôn đi “tìm tên tôi”, đi “nhặt lại tên mình” ở mọi ngóc ngách của cuộc
đời để khẳng định sự hiện diện của mình: “Tôi
tìm tên tôi/ Trong đám giấy lộn/ Trên bàn nhậu và góc vỉa hè…/ Tôi thẫn thờ đi
nhặt lại tên mình/ Lay lắt trên những con đường hoàng lan, phố vắng” (Hoang
mang). Còn Anh Hồng trong Người đàn bà
qua hai mươi mùa tóc không những đi tìm cái “Tôi hiện hữu” mà còn đi tìm từng
“mảnh vỡ” của cái “Tôi”: “Từng mảnh Tôi/
Tan vỡ/ Chơi vơi/ Tìm nơi náu mình/ Trên ngọn cỏ…/ Mặt đất lè tè/ Ngọn cỏ thấp/
Từng mảnh Tôi/ Lặng lẽ…/ Tìm Tôi…” (Mở), …
Với nhà thơ Mai Văn Phấn, trở
lại sau mười sáu năm dừng bút, Mai Văn Phấn đã nhanh chóng hòa nhập
vào xu thế cách tân của thơ hiện đại, đồng thời cũng tìm cho mình
một cách đi riêng. Với quan niệm không “thâm canh triền miên trên một
mảnh đất đã cằn cỗi”, ông đã liên tục có những cuộc vong thân, tự
làm mới mình để cho ra đời những sáng tạo thi ca độc đáo. Đọc thơ Mai
Văn Phấn, ta thấy hiện rõ lên một nhu cầu có tính thường trực, đó là phải liên
tục sáng tạo như là phương thức duy nhất để khẳng định sự hiện diện của nhà thơ
giữa cuộc đời và giữa những bộn bề văn chương. Thơ Mai Văn Phấn từ buổi đầu
dù kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống với tâm thức hiện đại,
nhưng ông đã có ý thức giã từ giọng điệu cũ, nhịp điệu cũ để xây
dựng những hình ảnh khoáng đạt, lạ lẫm. Cảm xúc thơ trôi chảy một
cách tự nhiên, trong trẻo nhưng không đơn tuyến, dễ dãi mà luôn đòi
hỏi người đọc phải tư duy, suy nghĩ và tự tái tạo thế giới thơ cho
riêng mình. Chính vì lẽ đó, con người hiện sinh cũng nhận định một cách sáng suốt rằng: Không có sự vật
gì có giá trị tuyệt đối. Con người hiện sinh là con người tỉnh ngộ giám nhìn thẳng
vào sự thực, không sống theo quan niệm trừu tượng nhưng luôn cố gắng xác nhận ý
nghĩa hiện sinh, tức là ý nghĩa thực sự của mỗi người. Họ luôn trung thực với
chính mình. Con
người trong thơ Mai Văn Phấn từ chối mọi cắt nghĩa về nó. Tự nó là một hiện
sinh đầy đủ.
Khác
với những cây bút trẻ bị ảnh hưởng bởi trào lưu hậu hiện đại, những khuynh
hướng hiện đại của phương Tây, Mai Văn Phấn tự tin thiết lập cho mình một
không gian nghệ thuật riêng biệt, đưa thơ ca về với tiếng nói thuần
khiết, tự nhiên nhất của con người. Liên tục vong thân, luôn luôn tự phủ
định chính mình, nhà thơ đã hiện diện ở hầu hết địa hạt của các thủ pháp sáng
tác, các phạm trù thẩm mỹ. Nhà thơ từng tâm sự: “Sau khi băng qua những “sa
mạc” như siêu thực, tượng trưng, thơ Ngôn ngữ, Tân hình thức, Hậu hiện
đại, Tân cổ điển,… tôi thấy sao chúng ta không tự tìm lấy một khuynh
hướng mà phải lệ thuộc vào thằng Tây? Khuynh hướng ấy bên ngoài họ
đã xếp vào viện bảo tàng từ thế kỉ trước, trong khi chúng ta vẫn
lúng túng tranh cãi… Vậy “thong dong” là cách tôi tìm về với cội
nguồn thi ca, để cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn
nhiên, tối giản, trong trẻo nhất” [38, 451]. Bởi vậy, mỗi tập
thơ của Mai Văn Phấn đều là một sự trở về với truyền thống, nhưng
mang diện mạo mới và khác. Quá trình cách tân thơ ông cũng chính là cách
nhà thơ tìm về cội nguồn dân tộc bằng tâm thế con người đương đại,
với cách nhìn mới, mang hệ quy chiếu thẩm mỹ mới. Giọng thơ xóa
nhòa ranh giới ngôn ngữ thi ca và ngôn ngữ đời sống của con người hiện
đại; ngôn ngữ tối giản, trong sáng nhưng các thi ảnh chuyển động với
tốc độ lớn, dứt khoát. Sáng tạo thơ được xem như một sự trở về, trở về với
những giá trị cốt lõi của con người.
Về chủ đề, thể tài, Mai Văn Phấn đã
“gom tụ trong mình những xác cảm phong phú của đời sống con người đương đại: âu
lo, hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng với các vấn đề
tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hóa, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu
chiến, tha hương, trở về,…” [10, 153]. Những bước tiến trên lộ trình thơ Mai
Văn Phấn cho thấy sự chuyển dịch nhanh nhạy về thế giới quan, nhân sinh quan và
quan niệm thơ gắn liền với sự trải nghiệm cuộc sống. Bởi lẽ đó mà nghệ thuật
càng sáng tạo bao nhiêu thì lại càng khó tiếp nhận bấy nhiêu. Thơ Mai
Văn Phấn xuất hiện khiến không ít độc giả phải ngỡ ngàng bởi cách
viết mới lạ của ông.
Thuyết hiện sinh cho rằng con người có trách nhiệm đối với đam mê của mình, con người không thể chờ một dấu hiệu nào để chỉ
đường cho anh ta, bởi mỗi người cần phải tự giải mã dấu hiệu đó theo cách riêng
của mình. Vì vậy mà con người không có điểm tựa và không có hy vọng được cứu
giúp, bị bắt buộc phải luôn không ngừng tự sáng tạo ra bản thân mình. Trong một
bài báo rất hay, Ponge nói: “Con người là tương lai của con người”. Sartre còn
viết: “Con người phải tự phát sinh ra mình”. Vậy chính tôi sẽ sống cuộc sống của
tôi, không để ai phải sống hộ mình theo ý muốn của người khác. Tôi phải tự chịu
trách nhiệm về cuộc đời mình, không ai sống thay tôi cả. Minh
chứng cho điều đó chúng ta có thể thấy khác với Trương Đăng Dung hay nhà thơ Bùi Giáng, Mai Văn
Phấn lại khó trong những suy niệm về văn hóa, cuộc sống, thân phận. Chất thơ của
Mai Văn Phấn toát lên niềm tin (dù có lúc mong manh), sự an lạc. Quan trọng nhất,
trong trường thẩm mĩ của mình, Mai Văn Phấn chiếu ánh sáng của đức tin, của niềm
thiêng vào sinh quyển thơ ca. Trong một sinh quyển sống chất ngất rủi ro, nhiều
giá trị bị phai nhạt, lãng quên, niềm tin, tình yêu, trở thành điều gì đó xa xỉ,
phù phiếm, thì thơ Mai Văn Phấn là một sự xác tín trở lại những thành tố làm
nên đời sống con người, không biệt lập khỏi những hiện hữu trong nhân giới, vật
giới, quá khứ và tương lai, thậm chí là ở cả thế giới bên kia. Đọc thơ Mai Văn
Phấn, người ta thấy trân trọng hơn những phút giây của sự hiện hữu và cả những
liên hệ siêu hình ngoài không gian, thời gian, nhưng có ý nghĩa to lớn trong việc
kiến tạo nên sự sống của con người. Khi nói đến con người, triết học hiện sinh quan tâm
đến chủ thể tính và tự do. Chủ thể tính là dạng tồn tại vượt lên trên toàn bộ
vũ trụ, có quyền thể hiện những cảm nhận của mình về thực tại bên ngoài. Chủ thể
tính làm ta tỉnh ngộ, ta không phải là những sự vật của vũ trụ nhưng là những
nhân vị tự do. Tự do tính là tự do quyết định đường đi của mình tạo ra định mệnh
của mình. Jean - Paul Sartre viết: “Con người không chỉ như anh ta tự quan niệm,
mà còn như anh ta muốn, như anh ta tự quan niệm sau khi đã sống, và như anh ta
muốn sau khi đã ao ước sống, con người không là gì khác ngoài cái mà bản thân
anh ta tự làm nên. Đó là nguyên tắc đầu tiên của thuyết hiện sinh. Đó cũng là
cái người ta gọi là tính chủ thể. Theo Jaspers, hiện sinh bắt đầu xuất hiện khi
con người ý thức sâu sắc về mình là một chủ thể. Là chủ thể nghĩa là chủ động để
gây lấy một nhân cách và bản lĩnh của mình. Là chủ thể, tôi đã nhảy một cái thật
xa từ bình diện đồ vật (être - objet) lên tới bình diện ngã vị (être - moi).
Jaspers thường gọi là hiện sinh khả hữu để nói lên vai trò chủ động của tôi
trong việc xây dựng nhân cách và định mệnh của tôi. “tôi chỉ là tôi do chính
tôi tạo nên”. Tương tự vậy Nietzsche cũng khẳng định. Hãy trở thành con người
trung thực mà anh đang mang sẵn trong người. Ông nêu cao tôn chỉ: “Hãy luôn
luôn trở nên chính mình anh, hãy là chủ ông và là nhà điêu khắc để tạc nên
chính mình anh”. Nói cách khác: anh hãy dám làm anh đi, hãy đừng là con người
mà người ta nghĩ về anh hoặc con người mà anh cho rằng người ta nghĩ anh phải
trở nên như thế. Xuyên suốt ý tưởng trong các tập thơ của Mai Văn Phấn là
ước mơ tự do, bình đẳng và dân chủ của dân tộc Việt Nam. Đó là một khối cảm xúc
cô đọng được biểu đạt bằng ngôn từ thông qua thế giới nội tâm, đồng thời hiển
thị những bức tranh sống động về lịch sử, về xã hội đương thời. Mỗi tập thơ của
ông đều chất chứa khát vọng của dân tộc, đồng thời là một cánh cửa mới được mở
ra, giúp người đọc thưởng ngoạn thế giới. Nhiều người cho rằng, thơ cũng như
con người Mai Văn Phấn góp phần giúp người đọc hiểu cuộc sống và nhiều tầng văn
hóa.
Như vậy, quan niệm đúng đắn về thơ
chính là cách nhà thơ tìm về với nghệ thuật chân chính. Thông qua hành trình
sáng tạo, Mai Văn Phấn đã minh chứng cho những quan niệm nghệ thuật của mình, về
cái khác và những giá trị cần vươn tới. Trên con đường ấy sẽ không thể thiếu được
dấu ấn của sự sáng tạo và những quan niệm đúng đắn. Trong đó,
con người luôn có những ước mơ và khát khao cháy bỏng. Họ khát khao được thoát
ly khỏi cuộc sống hiện tại, được sống là chính mình, được hòa hợp với tự nhiên,
không vướng bận bởi những điều vô nghĩa. Ý nghĩa cuộc sống con người như thế
không gì khác ngoài sự đam mê hay khao khát mãnh liệt một điều gì trong cuộc
đời. Một ngày nào đó điều này có khả năng sẽ chế ngự trái tim, linh hồn và thể
xác chúng ta. Nó có thể cháy mãi tới khi ta chết. Nếu con người biết trải qua
nỗi khao khát, đam mê sâu sắc ấy theo hướng thiện thì họ sẽ không sống vô ích.
Nếu hành xử ngược lại, nỗi khao khát, đam mê sâu sắc có thể trở nên độc ác bất
nhân ngay cả với chính bản thân mình. Với cảm thức hiện sinh đó, Mai Văn Phấn
đã tận hiến cho sự sáng tạo thơ ca, cho con người, vì con người. Thơ ông giúp
người đọc thức tỉnh sự trân trọng đối với từng giây phút của thời gian
sống.
2.2. Cái tôi “hoài nghi”
các giá trị và “dự cảm” về tương lai
Theo
các nhà hiện sinh, phi lý trở thành điểm xuất phát và cũng là điểm đến của mọi
sự trên thế giới. “Tất cả mọi hiện tượng đều bắt nguồn từ sự phi lý và trở
thành phi lý. Nghĩa là chẳng bắt đầu từ đâu và chẳng đi tới đâu cả” [48]. Có thể
thấy đời sống là một sự vô nghĩa đã hiện ra không có lý do và chẳng để làm gì.
Con người
là một sinh thể thụ động bị quẳng ném vào một thế giới mà hắn không có quyền lựa
chọn. Phi lý như một định mệnh. J.P.Sartre nói: “Người ta là một cái gì thừa,
phi lý chúng ta sinh ra, phi lý, chúng ta chết”. Đọc thơ Mai Văn Phấn, ta luôn
thấy những hoài nghi, trăn trở, dằn vặt trước sự phi lý của cõi nhân sinh. Hiện
thực được phản ánh trong thơ ông là một thế giới ngổn ngang những điều nghịch dị,
ông thường hoài nghi bản thân, bi quan về thân phận cái tôi cá thể; hoài nghi
các giá trị đạo đức, quy chuẩn của xã hội; hoài nghi các giá trị chân, thiện, mỹ...
Đúng như nhà phê bình
văn học Nguyễn Thanh Tâm đã khẳng định: “Cái tôi hoàn toàn mất đi bản lĩnh tự
tôn đã tốn nhiều tâm sức mới giành được sau hàng chục thế kỉ bị khuất phục bởi
vương quyền, thần quyền, bởi ý chí của đoàn thể. Nó ngạo nghễ, trịnh trọng tôn
xưng suốt một thời Thơ mới, để giờ đây hoang mang, hoài nghi chính bản thân
mình. Vẫn còn day dứt trong thơ Mai Văn Phấn cuộc giao tranh giữa con người cá
nhân cá thể với con người chức phận xã hội. Sự xung đột của cái tôi, cái siêu
tôi và cái ấy (lý luận nhân cách của S. Freud) làm con người mệt mỏi, rũ rượi,
muốn chết, muốn bóp cổ mình để hoá giải, chấm dứt sự giao tranh. Trong cuộc đối
đầu ấy, cái tôi khát khao hướng tới một sự sống toàn nguyên, trọn vẹn nhưng
không nắm chắc rằng mình sẽ sống sót” [10,
83]. Cái tôi tự soi chiếu vào mình với hết thảy mọi sự bi quan (Quay theo mái nhà, Anh tôi, Dậy trẻ con, Vẫn
trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ, Kể lại giấc mơ, Không thể tin…)
Chủ
nghĩa hiện sinh cho rằng, lịch sử là không thể nhận thức được. Theo họ, lịch sử
chẳng qua là sự biểu hiện ra bên ngoài của tồn tại con người, mà sự tồn tại của
con người là không thể biết được. Vì chúng ta không hiểu biết về quá khứ, cũng
không hiểu biết về tương lai, nên chúng ta không hiểu được thực sự hiện tại.
Cho nên với con người hiện sinh thì lịch sử xã hội mãi mãi chỉ là một vùng đen
tối. Lịch sử xã hội đã không thể biết và không cần biết vì cái đã qua. Camuy
không thừa nhận một viễn cảnh nào khác của sự phát triển xã hội. Ông nói “Thế hệ của tôi biết rằng nó sẽ không cải tạo
thế giới”. Nói đúng ra là ông đầu hàng trước sự khó khăn và phức tạp thực tại
của quá trình lịch sử và mọi nhà thiền sinh chủ nghĩa đều như thế. Cuốn tiểu
thuyết quan trọng nhất của ông - Dịch hạch
- được viết để chứng minh rằng tình thế này là bế tắc, không thể giải quyết
được. Thế giới này là bất khả tri. Sống trong một
thế giới phi lý, con người không hiểu vì sao mình sống, vì sao mình tồn tại. Những
dằn vặt về bản thể không ngừng xuất hiện, con người không ngừng tự vấn để rồi
nhận ra cuộc đời là vô nghĩa. Hạnh phúc, tình yêu đều là ảo ảnh. Ám ảnh lớn nhất
trong thơ ông là hành trình kiếm tìm của con người trong kiếp nhân sinh. Trên
hành trình ấy con người trở nên hoài nghi với tất thảy những điều xảy ra.
Trước hết ta bắt gặp một Mai Văn Phấn với những
hoài nghi về những giá trị đạo đức, những quy chuẩn của xã hội được coi như là
một phản xạ tự nhiên của tinh thần con người khi nhận thức bản chất giả dối của
những vấn đề đời sống. Để kiếm tìm một câu trả lời, chủ thể tự đặt ra những câu
hỏi trong sự hoài nghi về sự phi logic của cuộc sống:
“Con gián bò quanh tôi
và nói
vừa đầu thai được ba
tháng tuổi
kiếp trước từng là người
đàng hoàng
Đàng hoàng sao chịu phận
xẹp lép?
Tôi không tin và đu lên
khung cửa
Thế nhân chứng đâu? Vật
chứng đâu?”
(Chuyện còn dài)
Phải chăng những giá trị quy chuẩn, đạo đức của xã
hội đang bị nghi ngờ? Nghi ngờ bởi sự đàng hoàng của con gián thực chất chính
là nghi ngờ bản chất thực sự của con người, về những giá trị đạo đức và những
quy chuẩn làm người trong xã hội đương đại. Khi dối trá, giả tạo lên ngôi… liệu
“đàng hoàng” có còn tồn tại? Chủ thể trữ tình dường như đã mất niềm tin vào cuộc
sống hiện tại và những giá trị đạo đức đang bị tha hóa một cách nghiêm trọng.
Những quan niệm của chủ nghĩa hiện sinh đã cản trở họ trong quá trình nhận thức
lý giải thế giới. Sartre cũng vậy, ông luôn phủ định hiện tại đối với chủ nghĩa
tư bản và hoài nghi sâu sắc đến khả năng cải tạo lại một cách căn bản có hệ thống
các quan hệ xã hội đương thời. Khi quan niệm hiện hữu có trước bản chất, các
nhà hiện sinh đã gián tiếp thừa nhận sự bất lực của con người trước thế giới tự
nhiên. Chủ nghĩa hiện sinh còn quan niệm rằng sự tồn tại chân chính nhất, cơ bản
nhất của hiện thực khách quan “cái tôi cô đơn”. Với tinh thần “không phải là
khước từ hoàn toàn hoặc đồng ý hoàn toàn với những cái gì đang tồn tại”, chủ
nghĩa hiện sinh bất khả giải trước hiện thực khách quan. Thơ Mai Văn Phấn,
ngoài việc đề cao tính chủ quan và bên trong thân thể, còn là xu hướng xóa nhòa
các đường biên của lịch sử, giãn nới các chiều kích thời đại và qua đó, làm đồng
hóa những thời đại khác nhau. Bên cạnh đó sự hoài nghi về những giá trị đạo đức
của chủ thể trữ tình còn được Mai Văn Phấn thể hiện qua bài thơ Bài học:
“Cánh và khuỷu tay vẫn cứng
Từ cổ tay xuống đến ngón
phải mềm
Đạo mạo múa tay trong bị
Tôi học bài này từ nhỏ
(Một lần bị khinh như mẻ
Thằng đạo mạo đạp mình xuống lề đường
Cạch đến già!)….”
Ngay từ nhỏ, đứa trẻ đã nhận thức được sự dối trá ẩn lấp đằng sau dáng vẻ
đạo mạo của con người. Đó là bài học kinh nghiệm được nhân vật “Tôi” rút ra khi
nhận thấy được sự thật về những quy chuẩn đạo đức đã không còn tồn tại. Bị đối
xử ghẻ lạnh, thân phận nhỏ bé không được tôn trọng từ đó sinh ra tâm thế hoài
nghi về sự tương giao trong mối quan hệ giữa con người với con người. Thuyết hiện
sinh không phải là thứ triết học giản đơn. Nó là một thứ triết học có ngay
trong ý thức đời sống: “một thế giới đổ vỡ” (Marcel), “một thế giới mơ hồ, mộng
ảo” (de Beauvoir), “một thế giới hỗn mang” (Merleau - Ponty), nó nhận thức sâu
xa về “cái rối bời không thể lý giải được của thế giới loài người”. Con người
hiện sinh vong thân giữa thế giới đồ vật và tha nhân, chìm ngập trong vô vàn
hình ảnh phi lý, phi căn nguyên. Kẻ hiện sinh bất lực và đau khổ, than vãn. “Khoảng cách bỗng dài thêm/ đêm choàng hết
những gì còn lại/ đêm đó còn ai thức với tôi không?” (Đêm ở Rooma). Vì thế,
không gian thơ luôn ngập đầy nỗi xao xuyến, khắc khoải.
Ngoài ra tâm thế bất an trước cuộc đời còn được chủ thể trữ tình thể hiện
qua sự hoài nghi về các giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống:
“Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu
phải hồn nhiên như cây cỏ.
Về thôn quê thấy cỏ ngút ngàn
tôi giang tay nhờ gió lay lắt
giống các fan hâm mộ đưa theo nhịp bài hát.
Đung đưa một lúc cũng mỏi
càng thêm đau đầu trong nắng tháng sáu
bởi phải tưởng tượng ra mưa xuân
trời âm u và có gió nhẹ.”
(Sống hồn nhiên)
Muốn “chữa bệnh đau đầu” thì phải sống một cuộc sống tốt đẹp, “hồn nhiên như
cây cỏ”, chủ thể trữ tình tìm về thôn quê để thử trải nghiệm và sống như lời “vợ”
dặn, sống hòa mình vào thiên nhiên “giang tay nhờ gió lay lắt”. Nhưng sự thật
không như mong đợi, chủ thể “càng thêm đau đầu” vì trong thời tiết oi bức “nắng
tháng sáu” của mùa hạ “phải tưởng tượng ra mưa xuân”. Một sự thật hiển nhiên
cho thấy con người luôn suy nghĩ, đau khổ trong mọi hoàn cảnh. Vì thế không thể
sống “hồn nhiên” trong xã hội đương đại. Bên cạnh đó qua tập thơ Hôm sau,
chúng ta thấy một niềm bi quan về thân phận của cái tôi cá thể. Với bài Dạy
trẻ con: “Lũ trẻ xóm tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh
tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì thào trong những khu vườn vắng, phân
công đứa canh gác để đứa khác đào hầm, chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng
lúc biến động... Chúng cười vang lúc tôi đứng dậy. Tôi mụ mị rồi ngất ngư về chỗ
của mình. Bàn chân chập chững đặt lên mặt đất từng bước dại”. Cái tôi nhà
thơ đã nhìn thấy được mình trong một viễn cảnh xa qua cách hình dung về những
biến động của một đời người. Theo sự trôi chảy của thời gian, qua vô vàn những
tác động, cái tôi lại trở về đúng bản chất của nó “mụ mị, ngất ngư” như chẳng
thể nào thay đổi được. Và nó lại bước tiếp những bước đi trên một con đường dài
trên mặt đất mà điểm khởi đầu là “bước dại”.
Theo
Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng ta đang “tự sát bằng thời gian”: “Số phận cay nghiệt ơi/ cuộc sống dịu dàng ơi/ thời gian một đời không
lặp lại/ một ngày qua đi/ một ngày ta mất dần ta/ từng chút, từng chút một…”
(Ngày hôm qua, ngày hôm qua). Các nhà hiện sinh cho rằng “Làm người nhục lắm”
bởi vì con người luôn bị “hăm dọa”. Thời gian hăm dọa con người, con người đang
tự “hăm dọa” chính mình. Con người bị thời gian “hăm dọa” nên cứ thấy sự sống
mong manh, cuộc đời là hữu hạn. Vì thế nên lo âu, sợ hãi, sớm nhận ra sự bi đát
của kiếp người, sự ngắn ngủi của nó. Con người cũng cảm nhận sự phi lý, khi
sinh ra đã là phi lý. Phấn đấu, nỗ lực,… rồi cái chết cũng đợi ta ở cuối con
đường. Nỗi khổ đau của con người là do con người cảm thức được cái hữu hạn của
kiếp sống. Làm người là cả một
thách thức. Cuộc đời của con người từ lúc cất tiếng khóc chào đời cho đến ngày
từ biệt cõi thế là một cuộc hành trình nhọc nhằn thực sự, ở đó, con người
thường được ví như người lữ hành oằn vai với những gánh nặng của mình. Họ phải
tự gánh lấy trách nhiệm của họ, nghĩa vụ của họ, giá trị của họ. Sáng tác trong cảm thức đó, thơ Mai Văn Phấn giăng
kín nỗi buồn, niềm đau thân phận. Khi nhìn thế
giới, sự vật và con người bằng cảm giác bi quan, thi nhân đã hoài nghi mọi thứ,
anh suy ngẫm và âu lo về sự sinh tồn, sự nảy nở và sự tồn tại của chính bản
thân mình (Không thể tin, Ở những đỉnh cột,
Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Hắn, tỉnh táo tột cùng, Kể lại giấc mơ, Nếu, Chuyện
còn dài). Trong bài Không thể tin, Mai Văn Phấn đã viết:
Con ong bay vào phòng
bằng nhựa hay bằng gỗ?
nham nhở trên mình những vết cắt dở dang
đúng nó đã bay
tiếng vỗ cánh êm ru, hoàn hảo
Không nên tin vào một con ong
tôi kiểm chứng bằng những cử động nhỏ:
vẫn còn đủ 532 trang một cuốn sách cũ
tôi bấm móng tay, thông nõ điếu
thử báo cáo, thử ký, thử hủy tài liệu
Nhưng hình như
mọi con vật trong nhà
vẫn chế tác từ đồ phế thải:
con mèo tam thể được sinh ra từ mớ giẻ rách?
con cá bơi trong bể nước được gò hàn từ vỏ
lon beer?
chim họa mi hót trong lồng là chiếc ấm vỡ?
con chó giụi đầu vào tay mình là cuộn báo cũ?
đàn kiến đang nhẫn nại tha mồi là đống mạt
cưa?
Mai Văn Phấn luôn phủ nhận thực tại, hoài
nghi sâu sắc về những điều đang diễn ra. Chảy tràn trong mỗi câu từ ở bài thơ
trên là cảm giác hoài nghi đầy âu lo. Mở đầu, thi nhân đã tự đặt ra một
câu hỏi “bằng nhựa hay bằng gỗ”? trước một sự vật tưởng chừng như đã quá rõ
“con ong”. Đặt câu hỏi đầy nghi hoặc rồi nhà thơ đã tự mình kiểm chứng bằng
cách quan sát thật kỹ “nó đã bay”, “vỗ cánh êm ru” nhưng chừng ấy vẫn không đủ
để ông có niềm tin mà phải thốt lên rằng: “Không nên tin vào một con ong”. Một
sự vật đã và đang tồn tại hiển nhiên trước mắt nhưng dường như với nhà thơ nó lại
chưa từng tồn tại thực sự. Những gì đang nảy nở xung quanh mình phải chăng đều
là giả tạo, là đồ bỏ đi khi được chế tác từ “phế thải”. Hàng loạt sự so sánh, đối
chiếu: “con mèo - mớ giẻ rách”, “con cá bơi - vỏ lon beer”, “chim họa mi
- chiếc ấm vỡ”, “con chó - cuộn báo cũ”, “đàn kiến - đống mạt cưa”... tất cả đã
làm cho bài thơ có một cấu tứ lạ.
Trong cảm thức phi lý đó, Mai Văn Phấn đã tìm đến đề tài
chiến tranh. Có lẽ rằng, chiến tranh là mảnh đất màu mỡ để chủ nghĩa hiện sinh
phát triển. Bởi trong chiến tranh người ta mới thấy hết sự bi đát, phi lý của
con người. Con người cảm thấy hoài nghi, lo âu trước cảnh tượng đau khổ, tang
tóc do chiến tranh gây nên và có cảm giác ta đang sống trong một thế giới phi
lý. Qua nhãn quan Mai Văn Phấn, đó là một thế giới đổ vỡ, nghịch dị, bất an. Trong
đó ám ảnh nhất là biểu tượng máu. Trong
trường ca “Thời tái chế” (Nxb Hội Nhà văn, 2018): “máu từ khóe miệng tôi xuống đất mẹ ròng ròng”. Máu hiện diện trong mô hình bằng nến mô phỏng những
dòng sông máu và nước mắt. Máu lúc đầu chỉ là nạn nhân. “lá khô đưa tôi về một thời mất máu, một thời khinh rẻ máu, một thời
gian lận máu, một thời lợi dụng, tụng ca máu”. Đó là sự bi đát đã được tổng kết một cách rạch
ròi. Thế giới của máu lộng lẫy đã chết trong nhận thức, những bằng chứng cuối
cùng của một chủ nghĩa anh hùng đã tự bóc tách lớp áo được dày công đan dệt. Điều
kì cục nhất của thế giới con người là nó có xu hướng khinh rẻ bất cứ thứ gì
quan trọng với nó. Máu là sự sống, nhưng là thứ bị phung phí và tiêu xài một
cách vô tội vạ trong bữa tiệc quyền lực. Lòng nhân từ là thứ con người luôn rao
giảng và dạy nhau giữ lấy thì cũng là thứ bị đạp lên không thương tiếc nếu phải
lựa chọn. Sự vênh lệch kiệt cùng trong cách người ta hành xử với máu đã chỉ rõ
chân tướng của thời đại. Trong cơn lên đồng tập thể người ta đã thả ma quỷ ra.
Đã xảy ra những thảm kịch chưa từng có trong lịch sử của một dân tộc vốn xem
tình nghĩa và đạo đức là truyền thống. Máu hữu hình “loang thành vũng giữa sân đình”, máu vô hình chảy tràn lên những linh hồn bị
tra tấn bởi sự đê hèn của chính mình. Sau mỗi cuộc chiến tranh, những kẻ từng
tiêu diệt hủy hoại nhau đều phải chết. Người con dâu đã tố điêu bố chồng và người
bố cũng đã chết. Nhưng Vong hồn chị
ta thường sang gõ nắp quan tài xin lỗi ông cụ cuối mỗi hoàng hôn”. Đó chính là máu, thứ máu đen độc
hơn mọi độc dược, một khi đã nhiễm vào huyết quản thì những linh hồn ấy mãi mãi
không được giải thoát. Lịch sử đôi khi là sự dối trá ngạo mạn mà sự thật là
cách duy nhất để những vong linh đang mắc kẹt giữa hai thế giới có thể ra đi.
Nhưng sự thật là thứ không bao giờ xuất hiện nếu không cưỡng bức nó. Vũ trụ thì
vô cùng mà đời người chỉ là cát bụi. Trong cái vòng quay tàn nhẫn của thời
gian, đôi lúc mọi nỗ lực bám víu của con người đều trở nên nhỏ bé. Xưa nay, thi
nhân luôn là kẻ nhạy cảm nhất với cái chết, bởi họ ý thức sâu sắc hơn bất kỳ ai
về sự hiện hữu và giới hạn hiện hữu. Sinh thời, Lorca cũng từng ám ảnh: “Khi tôi chết/ hãy chôn tôi với cây đàn
gi-ta/ trong cát” (Ghi nhớ). Hàn Mặc Tử thì khắc khoải: “Một mai kia ở bên khe nước ngọt/ Với sao
sương anh nằm chết như trăng/ Không thấy được nàng tiên mô đến khóc/ Đến bên
anh và rửa vết thương tâm” (Duyên kì ngộ). Bùi Giáng cũng dự cảm: “Rồi tôi cũng phải xa tôi/ Đời tài hoa cũng
xa xôi phương trời”, “Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại/ Tôi sẽ đi đâu và chưa biết
đi đâu/ Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi/ Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu”
(Phụng hiến). Có lẽ rằng Mai Văn Phấn đã có cái
nhìn thấm đẫm tâm thức hiện sinh trước nỗi đau, sự mất mát của số phận con người
mà cái chết trong chiến tranh luôn ám ảnh. Nhà thơ nhìn chiến tranh trong tâm
thức của một con người sinh ra trong bom đạn. Chiến tranh là những hoài nghi,
những đau thương và mất mát của một dân tộc. Bởi Mai Văn Phấn viết từ góc nhìn
nỗi đau thân phận, nên thơ ông mang cảm thức hiện sinh sâu sắc khi nói đến những
mất mát và tàn dư trong chiến tranh. Chiến tranh là nơi hội tụ của máu và nước
mắt. Sự tàn khốc đó được diễn tả rõ nét qua hình ảnh giàu sức gợi... Tất cả như
một bản cáo trạng, những “nhân chứng và vật chứng” cho tội ác của chiến tranh. Chính
cảm quan về cuộc sống, về con người và xã hội chính là động lực thúc đẩy, kích
thích sự thay đổi, sự đổi mới thơ ca của các thi nhân. Chính hiện thực cuộc
sống bề bộn, ngổn ngang, phức tạp đó đã tác động, thúc đẩy một sự biến đổi mạnh
mẽ. Xã hội chúng ta đang sống là xã hội hiện đại, nhưng đã mang tâm thức của
thời hậu hiện đại. Xã hội ấy đem đến cho con người những lợi ích thiết thực,
những nhu cầu được giải tỏa, sự tiến bộ và văn minh, hướng đến cái tốt đẹp,
những giá trị chân - thiện - mỹ sâu sắc. Nhưng mặt khác cũng chính xã hội ấy
lại bắt đầu nảy sinh những mâu thuẫn và hoài nghi, những giằng xé cuộn sóng. Sống
trong xã hội rối ren, phức tạp đó, hình ảnh con người hiện lên là những mảnh
ghép cô đơn, là những con người vô bản sắc, là những con người với những mong
muốn, khát khao mãnh liệt. Mai Văn Phấn luôn đổi mới thi pháp và tâm thức
tiếp nhận cái mới, cái khác lạ. Chính cái nhìn về thế giới, về cuộc sống của
Mai Văn Phấn đã làm thay đổi tâm thế và hình thức thơ ông. Thơ Mai Văn Phấn
ngày càng có sự cách tân táo bạo. Chính cảm quan về cuộc sống, con
người và xã hội mang đậm dấu ấn hiện đại và hậu hiện đại đã tạo sức
hút đối với người đọc.
Khác với triết học cổ điển, triết học hiện sinh hoàn toàn
bỏ rơi vũ trụ để chỉ suy nghĩ về con người. Con người hiện hữu là khi con người
muốn gạt bỏ các ý niệm tràn đầy, để có một hố thẳm cho tư tưởng neo đậu trong
cái thế giới hằng ngày phải đối mặt với những xung đột ý niệm, từ xung đột ý
niệm chính trị đến xung đột ý niệm khoa học, từ xung đột ý niệm nhân thế đến
xung đột ý niệm tự tại. Cũng theo chủ nghĩa hiện sinh, một mặt lịch sử xã hội
là sự tha hóa của tồn tại cá nhân nên bản thân nó không có thực tại khách quan;
mặt khác con người lại bị nô dịch bởi những cái mà họ sáng tạo ra, đó là sức
mạnh tha hóa. Hơn nữa, mọi cố gắng thoát khỏi sự nô dịch đó đều vô ích, đều thất
bại. Do đó, lịch sử loài người chỉ là một bi kịch không có kết thúc. Vậy con
người làm thế nào để giải thoát khỏi sức mạnh tha hóa và bi kịch của họ? Chủ
nghĩa hiện sinh nhận định rằng, không thể dựa vào khoa học và lý tính hay bất
cứ cái gì khác mà chỉ có thể tự cứu mình bằng những hành động tự phát. Mạo hiểm
hoặc chờ mong sự giải thoát ở các lực lượng thần bí. Đó là con đường bế tắc mà
chủ nghĩa hiện sinh chỉ ra cho con người. Có thể thấy xuyên suốt hành trình thơ, Mai Văn Phấn
mang cảm xúc chủ đạo từ những hoài nghi, bi quan về thân phận, cô đơn đến những
dự cảm trong tương lai. Thế giới thơ Mai Văn Phấn không chìm đắm trong sự hoài
nghi và bi quan mãi. Nhà thơ không chỉ bộc lộ nỗi khát khao được sống là chính
mình, mà ông còn bộc lộ những khát vọng được vươn tới những giá trị sống tốt đẹp.
Minh chứng cho điều đó, có thể thấy rõ nét trong tập thơ Hôm sau. Cái tôi
trong Hôm sau là khát khao hướng tới một cuộc sống toàn nguyên, trọn
vẹn với những giá trị sống tốt đẹp qua cách sống có trách nhiệm (Hắn, Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Chỉ là
giấc mơ, Đến trong ý nghĩ…). Trong bài thơ Hắn, Mai Văn
Phấn đã viết:
“Hắn liệng tấm bìa vào
thùng rác, xuống tấn, đấm liên hồi vào lỗ thủng ước lệ, lao đi tốc độ chóng mặt.
Một dự báo về tương lai
của thể thao. Với nhan đề trang trọng của tờ báo buổi chiều, hắn có tên trong
danh sách những nhà vô địch.”
“Hắn”, con người khát khao những giá trị sống tốt đẹp
đã chọn cách, vứt “tấm bìa” đó đi, chính là vứt bỏ những cái cổ hủ để hướng đến
những giá trị sống tốt đẹp, nơi hiện diện cái mới, sự hiện đại. Ở đó có thể
phát triển sự nghiệp của “hắn”, để có một “dự báo về tương lai” tươi sáng với
“danh sách những nhà vô địch”, trong đó có tên “hắn”. Hay trong bài
thơ Ghi ở Vạn Lý Trường Thành, Mai Văn Phấn đã mượn bối cảnh thời vua
Tần Thủy Hoàng cho xây Vạn Lý Trường Thành liên hệ với bối cảnh đương đại để
bày tỏ quan niệm sống đầy trách nhiệm của mình. Con người dù sống trong xã hội
nào cũng phải luôn làm tròn bổn phận của một người dân. Với Mai Văn Phấn, nếu ở
thời xưa, người dân trong kinh thành bất kể là dân thường hay nhà nho trí thức
sẽ luôn làm tròn bổn phận của mình, nghe theo lệnh vua. Tuy nhiên thời đương đại,
thơ ca được tự do hơn, cái tôi được đề cao nhưng “Bỉ chức/ thảo dân/ em…” vẫn
phải tuân theo quy định của quốc gia. Mọi thứ được tự do nhưng vẫn có mức độ và
đúng giới hạn cho phép. Con người sống phải có trách nhiệm với những trọng
trách được giao, sống đúng với bổn phận của mình:
“Vạn Lý Trường Thành còn
xây dở
Trên không tiếng hoạn quan truyền chỉ
Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ
Đánh hộc máu mồm
Khâm thử!
…
Tâu Hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng
chí....
Bỉ chức/ thảo dân/ em…
sẽ làm trọn bổn phận”
Trong bài thơ Đến trong ý nghĩ:
“Tôi đi xe hết ga hết số. Răng nghiến chặt.
Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt trên mặt đất. Những hàng cây, bức tường mới cũ,
cùng những bóng người trôi vụt lại sau. Đích đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề
bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật
quan trọng... Hắn kéo căng mọi giác quan tôi, ninh nhừ ý nghĩ, đóng đinh dây thần
kinh giữa hai đầu phố”.
“Hắn” là sự thử thách của cái tôi, “hắn” như là phân thân của cái tôi để
đi tìm lẽ sống. Cuộc đối đầu giữa cái tôi và hắn, cho thấy cái tôi khao khát hướng
tới một sự sống an toàn, nguyên vẹn nhưng không dám chắc mình sẽ sống sót vì
“đi xe hết ga hết số”. Nhưng những hành động “Răng nghiến chặt/ Tay bóp cổ hắn/ Kéo hắn lướt trên mặt đất” cho
thấy cái tôi làm chủ trong cuộc giao tranh này. Cái tôi ấy có thể kiểm soát hắn
và bảo vệ sự sống của mình dù cho “Hắn kéo căng mọi giác quan, ninh nhừ ý nghĩ,
đóng đinh dây thần kinh giữa hai đầu phố”. Đích đến của cuộc đối đầu này
là những công việc quan trọng như “buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng
vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng”… Đó
là những công việc cái tôi hướng đến, cái tôi muốn làm và cái tôi muốn đạt được.
Đặc biệt hơn, Mai Văn Phấn còn lên tiếng báo động về tương lai của trẻ
em - thế hệ tương lai của đất nước, những mầm xanh cần được chăm sóc và yêu
thương. Trong bài Dạy trẻ con nhà thơ kể về việc những đứa trẻ mắc
căn bệnh tuổi già và mang những biểu hiện của người lớn: “Đêm đêm chúng thường
tụ tập, thì thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác
đào hầm, chôn giấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt
hoảng lúc hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng
đề phòng cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… Ít thấy chúng gào khóc ăn
vạ…”. Những đứa trẻ ấy sẽ mang đến xã hội một diện mạo mới, một sự đổi
khác. Trẻ con ở thời đại ngày nay được nhận xét là thông minh và lanh lợi hơn
so với trước đây rất nhiều. Chúng được tiếp xúc và sống trong môi trường hiện đại,
có điều kiện được ăn uống tốt, bởi vậy việc tiếp thu nhanh mọi thứ là điều
có thể. Nhưng việc chúng cư xử như người già một cách thuần thục là một biểu hiện
kì lạ và đáng lo lắng. Biết đề phòng lúc biến động, biết hốt hoảng, biết ăn
kiêng để phòng bệnh và đặc biệt không còn gào khóc ăn vạ. Bởi vì, chúng học
được những điều đó từ những người già xung quanh. Đáng khen khi chúng sớm trưởng
thành nhưng đồng thời đáng thương cho chúng không có một tuổi thơ đúng với độ tuổi. Từ đó
dấy lên một hồi chuông cảnh báo. Với hi vọng sẽ xây dựng nên một cuộc sống tốt
đẹp, mang lại những điều có ích cho xã hội.
“Bên kia tấm bìa là thế giới khác. Biển báo,
thầy giáo cũ, biên bản giám định, chợ búa, kỷ niệm chương, thợ thông cống, hội
đồng hương, tu sỹ, dầu tắm, bẫy chuột, nhà tiên tri... Và thời trang cũng khác
(hắn nghĩ thế!). Hèn gì không chui nốt cả tay kia (!)” (Hắn).
Chủ thể trữ tình trong bài thơ ý thức rằng nếu không cố gắng thay
đổi, tìm tòi và sáng tạo thì sẽ mãi sống trong một xã hội không phát triển. “Hắn”
biết nếu như hắn bay qua tấm bìa mang thế giới cũ với những quy định và ràng buộc
như “biển báo” và “biên bản giám định”, những bài học cũ “của người thầy giáo
cũ”, những đồ dùng không hiện đại như “dầu tắm” và “bẫy chuột”… thì hắn
sẽ không còn tự do, không đạt được những điều hắn muốn. Từ đó, “hắn” sẽ mãi sống
với những điều đã cũ khi thế giới ngoài kia đang hướng tới những điều mới mẻ, hiện
đại và văn minh. Với quan niệm đó, chủ
nghĩa hiện sinh đã thừa nhận nơi con người một sự triển nở đến vô hạn. Con người
từ chối tất cả những hình thức cắt nghĩa về nó. Bởi con người là “một mạch nguồn
tuyệt đối” thì con người là một vô hạn. Vì thế, giá trị con người không phải ở
địa vị, giai cấp, giới tính, việc làm… mà chính là trong những hành động ở đời
của con người ấy. Nietzsche khẳng định: “Người ta chỉ biết yêu cuộc sống khi
người ta biết ghét nó. Và muốn thu hoạch một mùa sống phong phú và ý nghĩa, thì
phải giám sống một cách nguy hiểm”. Như vậy, hiện sinh là ý nghĩa đời sống; người
ta chỉ biết vươn tới hiện sinh khi người ta ý thức được rằng mình sống để làm
gì? Sống để thể hiện cái định mệnh cao quý và độc đáo của mình, không sống để
mà sống: đó là hiện sinh.
Con người trong thơ Mai Văn Phấn không phải là một sinh thể tầm thường
như cỏ cây, mà là con người có sự sống nội tâm, có ý thức tự quy. Từ ý thức về
sự đổ vỡ những giá trị cuộc sống, Mai Văn Phấn lên tiếng báo động về tương lai
đầy nguy hiểm dành cho con người. Ở đó, mọi người phải sống trong xã hội bất biến
với những suy nghĩ không bình thường. Họ luôn phải sống trong tâm thế lo lắng,
sợ hãi sẽ phải mất đi những giá trị của bản thân bất cứ lúc nào. Những trạng
thái đảo lộn, rạn vỡ của sự vật và con người được Mai Văn Phấn tô đậm trong bài
thơ Ở những đỉnh cột:
… “Tôi tồn tại bởi cánh bướm, biển
quảng cáo và thiếu nữ
không quen biết
Họ nói giùm tôi cuống lưỡi vực sâu”…
Những trạng thái đó còn tiếp diễn thì những bất an khác rồi sẽ đến. Có một
dự cảm đau đớn về tương lai, con người phải sống phụ thuộc vào “cánh bướm”, “biển
quảng cáo” và “thiếu nữ”. Con người không làm chủ cuộc sống của mình thì họ
có thể sẽ trở thành nô lệ của thế giới đồ vật và thiên nhiên, trở thành nô lệ của
những dục vọng. Ở đó con người sẽ mất đi tiếng nói của mình. Con người sẽ không
còn là chính mình khi bị trấn lột, lấy đi tất cả:
“Chúng bịt miệng
trấn lột mọi thứ
và xin tôi bộ phận sinh dục.
Nói rằng xin
bởi nếu tôi không đồng ý
của quý kia phải liệng xuống hố phân
(chúng biết cả bí quyết thần chú).”
(Ở những đỉnh cột)
Những hình ảnh thơ táo bạo, đầy sự gây hấn đã được Mai Văn Phấn sáng tạo
như một lời cảnh tỉnh đối với mọi người về một nguy cơ có thật: sự thay đổi lớn
về nhân cách của con người trong xã hội đương đại.
Thông qua hành trình thơ Mai Văn Phấn, chúng ta có thể nhận ra một nhà
thơ khá thân thuộc với cảm giác quen quen trong tư thế rụt rè, bẽn lẽn, bi
quan, hoài nghi đầy âu lo. Song bên cạnh đó người đọc còn bắt gặp nhà thơ với một
tâm thế hoàn toàn khác lạ mà nguồn cảm hứng chủ đạo là con người với mong muốn
có cuộc sống bình yên, trọn vẹn, từ đó vươn tới những giá trị sống tốt đẹp. Nhà
thơ gửi gắm vào cái tôi trữ tình một thông điệp về cá nhân mỗi người rằng: Hãy
sống có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Tuy cách sống, suy
nghĩ của mỗi người không giống nhau nhưng đều hướng tới một mục đích là khát
khao được sống, dám sống là chính mình và sống có ý nghĩa.
2.3. Cái tôi hành hương trong thế giới tâm linh
Trong dòng chảy văn học
Việt Nam hiện đại, thơ Mai Văn Phấn đến và mang theo một làn gió mát trong lành,
chảy sâu trong tiềm thức của con người. Ông là người luôn có ý thức khẳng định
bản lĩnh sáng tạo của mình. Mai Văn Phấn xác
định: “Thi sĩ đích thực là người phải biết làm ra những bài thơ biết
phản bội mình". Trong quá trình hoàn thiện ấy, tôn giáo trong thơ
ông cũng được thể hiện hết sức tự nhiên và màu nhiệm. Tôn giáo với Mai Văn Phấn
là thế giới tâm linh của những điều thiêng liêng, cao đẹp. Tôn giáo ấy hướng
con người đến sự gắn kết vô hình mà chặt chẽ sâu thẳm trong tiềm thức. Không
phải ngẫu nhiên mà trong văn học Việt Nam và trong hành trình sáng tạo của Mai
Văn Phấn lại in đậm dấu ấn tôn giáo đến vậy. Bởi từ xa xưa, tôn giáo là điểm tựa
tinh thần trong cuộc sống cá nhân, nó giống như điểm sáng soi đường cho sự phát
triển nhân cách con người trong xã hội. Tôn giáo lan tỏa, thấm sâu
trong tâm hồn thi sĩ khởi nguồn từ truyền thống quê hương, gia đình, cùng với
sự “hữu duyên” và ham học hỏi, nên trong Mai Văn Phấn là sự hội
tụ của nhiều tôn giáo lớn, biểu tượng những nền văn minh trên thế giới. Từ đó,
ông đã tự đúc kết chân lí về tôn giáo của riêng mình rằng, Đấng-Toàn-Năng/
Thượng đế (hiểu theo nghĩa cái đẹp) chỉ có một, dù thể hiện dưới những tên gọi
khác nhau nhưng cùng chung một mục đích là hướng con người đến bến thiện,
khuyên con người những điều hay, lẽ phải và giáo dục con người cách hành xử
đúng đắn. Từ đó, trong hành trình sáng tạo, sự ảnh hưởng của các tôn giáo trong
thơ ông ở mức độ đậm nhạt khác
nhau. Rõ ràng, Mai Văn Phấn đã có một cái nhìn biện chứng về tôn giáo, trong
con người ấy không có sự phân biệt giữa tôn giáo mình và tôn giáo người. Chính
cách nhìn nhận thấu đáo, cùng những quan niệm tiến bộ đã đưa Mai Văn Phấn đến
với hiện thực ở bề sâu một cách gần nhất, toàn diện nhất. Tôn giáo một lần nữa
lại được “hồi sinh”, “tái sinh” trong thơ Mai Văn Phấn.
Với
quan niệm tìm về với cội nguồn dân tộc, hướng tới một thế giới tinh thần lí
tưởng và thuần Việt, nhà thơ không có ý định xác lập lại một thế giới cũ kĩ,
lạc hậu mà thay vào đó là những không gian văn hóa mang vẻ đẹp bình dị, gần gũi
và truyền thống. Bằng cảm xúc hồn nhiên và trong trẻo nhất, Mai Văn Phấn đã xây
dựng lên một trường thẩm mỹ lí tưởng mà ở đó người đọc dễ dàng nhận thấy một
con người nặng lòng với những giá trị văn hóa, hướng về đời sống tâm linh với
cái tâm thanh tịnh. Nhà
thơ Trần Anh Thái trong cuộc trò chuyện với Evăn đã tâm sự “Thơ ca có những độc
giả đặc biệt. Bởi ở một góc nhìn nào đó, thơ ca như là một thứ tôn giáo có khả
năng cứu rỗi linh hồn con người. Cuộc sống càng sôi động, càng gấp gáp, con người
càng dễ rơi vào bi kịch hơn. Khi con người cô đơn, người ta sẽ tìm đến những
khoảng lặng trong tâm hồn. Thơ ca cũng có những khoảng lặng như thế để đồng điệu
với con người và lúc đó nó như là một phương tiện để cứu rỗi. Khi thơ ca phát
triển đến đỉnh cao của nó, nó sẽ đi đến chiều sâu tâm linh con người” [73]. Trong cuộc xâm lăng đó con người
không chỉ tồn tại ở ba chiều không gian cơ bản mà còn ở một chiều khác, chúng
tôi gọi đó là chiều sâu đời sống tâm linh, được thể hiện một cách trực giác mà
không kém phần biến ảo. Có
thể thấy cái tôi trong
thơ không chỉ phản ánh hiện thực thông qua sự tri ngộ của ý thức, của lý trí
tỉnh táo mà còn đi sâu vào thế giới hư ảo, linh thiêng của tâm linh con người
với những câu tụng niệm, tiếng chiêng, nhang khói, những linh hồn và cả những
mảnh vỡ của ánh trăng...
Bằng
ngòi bút tài hoa và tình yêu đối với tôn giáo, Mai Văn Phấn đã khắc họa những
nét đẹp văn hóa tâm linh trong thơ. Với ông, thơ được khởi phát từ cuộc đời và
mang dấu ấn riêng của chủ thể sáng tác. Vì thế hiện hữu trong thơ ông là những
quan niệm mang tính nhân sinh cao đẹp. Con người liên tục được hồi sinh và tái
sinh theo tư tưởng Đạo giáo và Phật giáo. Bắt nguồn từ mỹ cảm tôn giáo nên thế
giới trong thơ Mai Văn Phấn mang những nét đặc trưng riêng biệt. Trước hết, với
quan niệm Mẫu - Mẹ thiên nhiên là người khởi tạo ra vạn vật muôn loài, nhà thơ
đã phục dựng những không gian văn hóa mang đậm màu sắc dân tộc. Từ đó thể hiện
sự kính trọng của con đối với người mẹ thiên nhiên, với đấng sinh thành. Bên
cạnh đó, tác giả cũng nêu lên lí tưởng về một không gian chuyển dịch, mọi sinh
vật luôn được tái sinh, hồi sinh qua nhiều kiếp sống. Cái chết không phải là
điểm cuối cùng của cuộc đời mà chỉ là điểm trung gian, luân chuyển để sự sống
từ đó được hồi sinh. Nhờ cảm quan tôn giáo mà thơ Mai Văn Phấn mang một màu sắc
riêng biệt, cái đẹp trong thơ ông cũng luôn được tái sinh và nảy nở. Nhà thơ đã
thiết lập một trường thẩm mỹ mới, một tư tưởng nhất quán về tôn giáo rằng thượng
đế chỉ có một, tất cả các tôn giáo đều có chung mục đích là đưa con người đến
bến thiện, đến với những giá trị chân - thiện - mỹ. Chính nhà thơ cũng đã từng
tâm sự rằng: “Tôi đã đến với Phật giáo bằng tình yêu và cả sự chiều chuộng
người yêu tôi nữa”. Cái đẹp trong thơ Mai Văn Phấn nằm ở chỗ nhà thơ không bao
giờ coi cái kết là điểm dừng, là dấu kết thúc mà nó như một dấu mốc để hồi
sinh, để sự sống từ đó lại tái sinh và tiếp diễn.
Theo
quan niệm Phật giáo, luân hồi là sự chuyển hóa của sự sống, của một sinh vật
qua nhiều kiếp theo sự tái sinh. Người Á Đông cho rằng sau khi chết, linh hồn
của loài người cũng như loài vật hay cây cỏ cũng sẽ chuyển sinh từ cơ thể này
sang cơ thể khác. Nói cách khác, luân hồi là sự chuyển sinh, chuyển hóa, đầu
thai của linh hồn. Nhà Phật cho rằng mọi vật trong vũ trụ đều tuân theo quy
luật bất biến, cuộc đời con người phải trải qua nhiều kiếp, tái sinh trong
nhiều kiếp sống. Sự hiện hữu của mỗi người là một cuộc sống dài vô tận gồm
nhiều kiếp liên tiếp nhau, kiếp này kết thúc bằng cái chết để khởi đầu kiếp sau
bằng việc sinh ra. Tiếp thu tư tưởng Phật giáo, Mai Văn Phấn đã xây dựng lên
một thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định mà ở đó mọi vật luôn sinh sôi, nảy
nở. Ý nghĩa đức tin về một đời sống tái sinh và hồi sinh cũng có nhiều điểm gặp
gỡ với quan niệm, muốn được đầu thai sống một kiếp sống khác tốt đẹp hơn và
tươi sáng hơn trong nhà Phật. Đối với nhà thơ, cái chết không phải là tận cùng
của sự sống mà nó chỉ đơn giản là điểm trung gian giữa cuộc đời này và muôn vàn
cuộc đời khác về sau. Cũng bởi tư tưởng con người và sự vật được tái sinh, luân
hồi trong nhiều kiếp sống nên thế giới trong thơ Mai Văn Phấn lúc nào cũng ngập
tràn sự sinh sôi, nảy nở, sự sống hiện sinh từ những điều tàn tạ và héo úa:
Bó
gối những gốc cây
Nhắm
mắt ngọn đồi gió
Hạt
giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi
Ngày
mai mặt đất này
Và
thế giới sẽ đổi khác
(Mùa trăng - Bầu trời không mái che)
Thời
khắc của sự tái sinh là thời khắc thiêng liêng nhất không chỉ của kiếp người mà
còn của cả thế giới trù phú muôn loài. Trong tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa
giáo và Phật giáo, luôn quan niệm về thế giới thứ hai với một niềm tin mãnh
liệt. Thiên chúa giáo cho rằng, cuộc sống hiện tại chỉ là sự nương nhờ, tạm bợ
còn cuộc sống sau khi chết mới là cuộc sống thực sự. Phật giáo lại đề cao sự tu
nhân tích đức ở đời sống hiện tại để sau khi chết được đầu thai. Còn Mai Văn
Phấn lại xem cái chết như là một sự khởi đầu mới, mở ra một sự sống mới, cứ hóa
hóa sinh sinh, vô cùng vô tận. Chết chưa phải là chấm dứt mà nó còn là một khởi
đầu mới. Bởi vậy, xuất hiện trong thơ ông không nhiều những chiều tàn, những
hoàng hôn, bóng tối mà dày đặc những hình ảnh của ngày mới, của ban mai:
Bình
minh quét lớp sơn mỏng lên mặt đất. Bóng đêm vẫn còn nham nhở đâu đây, trong
bóng cây, dưới gầm cầu, nơi quả chuông úp xuống, trong phòng kín, đường cổng
ngầm chảy qua thành phố... Nấp trong cơ thể chúng ta, trong kí ức, lỗ tai, mái
và trái tim đang đập. Nơi trũng cuống, khuất lấp, hoắm sâu thường là cạm bẫy,
hiểm nguy, tăm tối... Tôi và mọi người hốt hoảng lên cao, trèo lên mái nhà, đi
qua cầu, ngồi mũi thuyền... Mặt trời gần đứng bóng. Tôi vội vã dành một phút
đứng lên bàn ghế, đu cây, bám lên mép cổng. Kê cao chân bằng bất kì vật gì, vài
cuốn sách, cái gối, mẩu giấy vụn. Những chiếc dép không cùng cỡ, áo quần không
đồng bộ vừa hốt hoảng chồng lên nhau trong ánh sáng chan hòa.
(Quang phổ - Vừa sinh ra từ đó)
Ý
thơ là sự đấu tranh, xâm lấn của ánh sáng và bóng đêm, là quá trình đi từ bóng
tối đến ánh sáng, từ cái chết đến sự sống. Mặc dù bóng tối lan tỏa, bao trùm
khắp nơi, từ bóng cây, gầm cầu, trong phòng kín... nhưng kết thúc là sự chiếm
hữu của ánh sáng chan hòa. Cuộc sống lại bắt đầu, cuộc đời lại được tái sinh.
Sau màn đêm là ánh sáng ban ngày, là bình minh tươi
đẹp. Sau cái chết là một cuộc đời mới, vô thủy vô chung. Trong
một lần trả lời phỏng vấn, Mai Văn Phấn từng nhấn mạnh: “Thơ ca càng ảo bao
nhiêu càng đem lại sự chân thực bấy nhiêu”; bởi ông cho rằng “hiện thực trong
thơ được hiện hữu trên một “mặt phẳng cong”. Không gian ấy rộng, giúp người
viết đồng hành được với quá khứ, hiện tại và tương lai đa chiều và đa tầng” [38,
400]. Có thể thấy, Mai Văn Phấn muốn mượn thế giới của vô thức, tâm linh, của
trực giác để thể hiện được nhiều tầng của đời sống, để bật lên những thanh âm
của trái tim “run rẩy với cảm xúc chân thành theo một quan niệm riêng”. Bởi
vậy, với ông lối viết tự động tâm linh chính là một thủ pháp kĩ thuật sáng tạo.
Thực chất, những thi phẩm tưởng như ra đời bởi vô thức của thi sĩ vẫn được điều
khiển bằng một ý thức sáng tạo nhạy bén và tỉnh táo của người viết. Đó là một
nghịch lý nhưng lại hoàn toàn hợp lý trong sáng tạo nghệ thuật. Bởi vì, nói như
Chế Lan Viên, “ngay cả một nhà thơ siêu thực cũng đã mơ một nền thơ siêu thực
cộng với cực lý trí. Cực mê đòi cực tỉnh”.
Thế giới tâm linh, tinh thần là một thế giới có
cấu trúc phức tạp, nhiều tầng bậc, nhiều chiều với những bí ẩn, những mơ hồ khó
nắm bắt. Mai Văn Phấn đã mang thế giới thơ mới “len lỏi” vào mọi “ngõ ngách”
tâm hồn con người, nắm bắt các khoảnh khắc đan cài giữa nhiều trạng thái tinh
thần trong không gian tĩnh lặng, bộc lộ cõi mênh mông sâu thẳm trong tâm thức
con người, những dồn nén đó chính là lúc thơ ông
thể hiện chiều sâu tâm linh con người rõ nhất. Do nhu cầu mưu sinh, ý thức của
cá nhân và thời đại, những thay đổi về quan niệm sống, con người đã tìm về thế
giới tâm linh. Trong chiều hướng này, thơ Mai Văn Phấn đã mở ra những kết thúc
không hoàn kết. Trở thành một thực thể thẩm mỹ, vùng mờ tâm linh đã phần nào biện
giải cho thì hiện tại không hoàn kết trong thơ, mở ra những “miền nội tâm, dặm tinh thần” (Chế Lan
Viên). Thì hiện tại chưa hoàn kết trong thơ hậu hiện đại nói chung, thơ Mai Văn
Phấn nói riêng vì vậy có khả năng thể hiện chiều sâu tâm linh con người khá hữu
hiệu. Trong quá trình khai thác tiếng nói của vô thức, trực
giác, những thi phẩm mang dấu ấn siêu thực của Mai Văn Phấn chứa “nhiều tứ thơ
hay, mở ra những vùng cảm giác tinh khôi, dịch chuyển và giao thoa kì lạ, phức
hợp của giác quan” [32, 259]. Ông đã tái hợp được khu vực ý
thức và vô thức của kinh nghiệm rất trọn vẹn, giúp thế giới của mơ ảo vô thức
kết hợp với cái hữu lý của đời sống hàng ngày để cho ra đời “một thực tại tuyệt
đối” (hay còn gọi là một “siêu hiện thực”). Chẳng hạn như trong Chọn
cảnh, bài thơ là những chắp nối đứt rời từ câu chuyện không logic: chuyện
trong mơ. Nhưng cái ám ảnh người đọc không phải là câu chuyện mơ ảo lạ lùng mà
là những hình nét quay cuồng của đời thực bị nhòe mờ: “Em nghĩ nơi đây biển
sâu tám mét”, “nồi nước sâu tám mét”, “tiếng bạn vọng từ độ sâu
tám mét”, “Thấy khoảng cách từ chân ghế tới bức tượng”, “đẹp tuyệt vời
trên độ sâu tám mét”. Hình ảnh và nhất là cái “độ sâu 8
mét”, “đám mây và chim hải âu”, “miếng mộc nhĩ”, “nồi nước dùng”, cứ
trở đi trở lại như một ám thị về khoảng cách và cuộc đời. Chi tiết này giúp vỡ
ra trong tâm tư người đọc bao nhận thức mới lạ. Độ sâu ấy phải chăng là ranh
giới với khoảng cách cụ thể mà trừu tượng về thiện - ác, về bao biến đổi trong
cuộc đời, mà ở đó đời như nồi nước dùng và con người cũng chỉ là miếng mộc nhĩ
bị nấu sôi? Đó phải chăng là những thức vỡ âu lo của người trí thức trước
khoảng cách giữa thực tế và ảo tưởng, giữa mộng mị và
hiện thực, giữa khát khao và thực tại phũ phàng? Ta có
cảm giác, nhà thơ mượn tiếng nói đời sống tâm linh, trực giác như công cụ hữu
hiệu để dẫn dắt con người vào mê cung, đánh thức những cảm quan, những bản ngã
còn giấu sâu trong hồn người. Nhưng “mê cung” này có nhiều lối ra, và ra được
hay không, nhanh hay chậm còn tùy vào tiếp nhận của mỗi độc giả.
* * *
Với
quan niệm văn chương luôn đi tìm cái đẹp, Mai Văn Phấn đã tạo cho thơ mình
một sức sống riêng biệt, mới lạ so với các nhà thơ cùng thế hệ. Thơ ca của ông
là hành trình đơn độc để kiếm tìm cái đẹp. Nhiều
bài thơ của ông thấm đẫm màu sắc phi lý. Nhưng nhìn kỹ ta vẫn thấy hơi thở của
đời sống, vẫn thấy “bóng dáng hiện thực ngả vào trang viết”. Hiện diện trong
thơ Mai Văn Phấn không chỉ là cái tôi của người nghệ sĩ mà còn là bức tranh đời
sống ở những thời điểm lịch sử nhất định. Đó mới là điều đáng trân trọng ở một
nhân cách nghệ sĩ. Tất cả đã trở thành chứng chỉ tâm hồn và chứng chỉ thời gian
trong thơ ông. Nó như những lời tự bạch chân thực và sâu sắc nhất của ông về
thế giới tự nhiên, thế giới con người; có cả thế giới tâm linh, tiềm thức, vô
thức. Có thể nói sự giao thoa giữa hai nền văn hóa Đông và Tây, với những
khuynh hướng văn học khác nhau đã tạo ra một Mai Văn Phấn mới mẻ, hiện đại,
mang đậm bản sắc dân tộc Việt.
Chương 3. DẤU ẤN HIỆN SINH TRONG
THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Phương
diện nghệ thuật là cách thức để người nghệ sĩ thể hiện tư duy sáng tạo nghệ
thuật, được biểu hiện rõ nét trong ngôn ngữ, giọng điệu và
trong không - thời gian của tác phẩm văn học. Văn
học hiện đại và hậu hiện đại đã tạo ra những khuynh hướng, nhiều thủ pháp nghệ
thuật mới, đem đến cho độc giả những hệ hình thẩm mỹ mới, nhưng cũng gây trở
ngại cho việc tiếp nhận. Do vậy, thơ đương đại Việt Nam nói chung, đặc biệt thơ
của các tác giả theo khuynh hướng cách tân được đón nhận với nhiều luồng ý kiến
trái chiều. Thơ của họ tồn tại trong “ngã ba dư luận”, có khen, chê, thậm chí nhiều
người dị ứng với nó. Chung quy lại đó là sự dị ứng với cái mới, cái mới chưa
được hiểu rõ tường tận cũng như chưa có đủ lý luận để lý giải về nó. Đây cũng
là lí do khiến nhiều nhà thơ ngần ngại dấn thân vào sự đổi mới, cách tân thi
pháp. Mai Văn Phấn đã mạnh dạn thể nghiệm nó bằng cách vận dụng một số thủ pháp
của các trào lưu hiện đại, tiên phong hiện nay vào việc sáng tác. Nhìn từ
phương thức biểu hiện, dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn trong phạm vi
luận văn xét trên ba phương diện: ngôn ngữ, giọng điệu và không - thời gian
nghệ thuật. Ngôn ngữ chủ đạo trong thơ Mai Văn Phấn đó là ngôn ngữ tạo sinh,
đặc trưng đa giọng điệu và đồng thời Mai Văn Phấn xây dựng thế giới thơ của
mình trên không gian đa chiều và thời gian phi tuyến tính. Ở mỗi phương diện
chúng ta đều thấy dụng ý của nhà thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
3.1. Ngôn ngữ tạo sinh
Mỗi
nhà thơ trong quá trình sáng tác đều cố gắng tạo cho mình một phong cách, xác
lập cho riêng mình một mã ngôn ngữ riêng. Mục đích cuối cùng là tạo ra sự
hòa hợp, thống nhất giữa cảm hứng thơ và ngôn ngữ biểu hiện, tạo nên một
thể nhất quán để trong đó mỗi từ, mỗi câu được sử dụng đều có khả năng chuyển
tải trọn vẹn cảm xúc, tư duy của người viết và mang đến những dấu ấn khó phai
trong lòng người đọc. Có thể khẳng định rằng thơ ca lấy ngôn ngữ làm phương
tiện biểu hiện cho mình. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, tư duy thơ lại thay đổi
theo tư duy cuộc sống và những yêu cầu của thời đại. Điều đó kéo theo những
biến đổi tất yếu trong ngôn ngữ thơ. Đánh giá về vai trò ngôn ngữ thơ, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Chính con chữ, qua cấu trúc nghệ thuật
của nhà thơ sẽ cho ta hiểu được chiều sâu và sự ngân vang của tình, giọng điệu
và tư tưởng nghệ thuật của họ... Trong thơ, chữ cũng chính là tư duy, là cách
nói và thái độ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Như vậy, sự đổi mới trong thơ
bao giờ cũng là sự đổi mới đồng bộ giữa cái nhìn nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ
và vai trò của nó” [37, 29]. Thực chất, công việc sáng tạo văn học
là một trò chơi ngôn ngữ. PGS. TS. Đào Duy Hiệp đã từng nhận định: “Trong trò
chơi ngôn ngữ đó, văn bản thơ không còn cho một nghĩa cố định, duy nhất đúng,
mà còn có những nghĩa “tự sinh” trong quá trình đọc. Tôi hình dung rằng, nếu từ
ngữ theo nghĩa từ điển là hình vuông, (“trăng” là trăng, “mưa” là mưa…), vuông
thành sắc cạnh; thì cũng những từ đó, trong thơ, chúng là hình tròn, mà chứa
trong nó là hình vuông của nghĩa từ điển. Phần dư thừa của hình tròn đã mang
nét nghĩa khác do được cộng sinh từ trường từ vựng, âm hưởng, giọng điệu, tiết
tấu,… của bài thơ. (Thơ thực dụng, thơ tuyên truyền hoặc thơ rao hàng thì chỉ
có một nghĩa, tạm gọi là “thơ vuông”)” [57]. Vậy nên không thể đặt một thứ “rượu mới” trong một chiếc
“bình cũ”. Tư duy thơ hiện đại không thể nằm trong lớp vỏ ngôn ngữ ước lệ,
tượng trưng của thơ ca trung đại, cũng như chẳng thể dùng ngôn ngữ trang trọng
một thời trong thơ ca cách mạng để diễn đạt tư duy tỉnh táo, lí trí, thực tế
của thơ ca thời đại hôm nay. Ngay từ đầu thế kỉ XX, Chế Lan Viên tác giả của Điêu tàn cũng đã cho rằng: “Chúng
ta ở trên đời không phải lộc ra hoa mà còn để mang thương tích”. Các nhà hiện
sinh thì quan niệm: “Làm người khổ lắm!”.
Bởi vì, từ khi con người sinh ra vốn đã bị bỏ rơi, phải tự chịu trách nhiệm về
mình, không ai gánh vác, lựa chọn định mệnh cho mình, không ai sống thay, làm
thay cho mình. Vì vậy, con người lúc nào cũng cảm thấy cô đơn (cô đơn bản thể),
bất an, luôn trăn trở về tương lai. Đồng thời, con người hiện sinh cũng ý thức một cách
bi đát rằng: Mỗi nhân vị là một thế giới huyền nhiệm. Khi tôi ưu tư về tôi, tôi
nhìn thẳng vào nội tâm của tôi, nhìn thẳng vào định mệnh, và ghê sợ của tôi nhất
vì tôi biết rằng không ai có thể giúp tôi; tôi chết mình tôi thế nào, thì tôi
cũng thực sự sống mình tôi như thế. Có thể khẳng định căn nguyên của mọi khổ đau, chán
chường, sợ hãi, khiếp đảm, ghê tởm với buồn nôn chẳng phải nằm ở ý niệm hay
sao? Cái làm cho con người đau khổ lại đi ra từ chính con người, với những ước
đoán đặt để, gán nghĩa, vẽ vời, khi “ngôn ngữ tự do tạo nghĩa”, giữa một thế giới
bấp bênh “những thỏa thuận”… là nguyên nhân của mọi đau khổ. Xưa nay, thơ vẫn được xem là loại
hình mang tính chủ quan, độc thoại (M. Bakhtin), lời thơ là lời quyền uy của
tác giả. Cái tôi trữ tình là một nhân vật, phát ngôn, bày tỏ thái độ, tình cảm,
giọng điệu của mình trong thơ, nó mang tính đại diện cho chủ thể sáng tạo. Dĩ
nhiên, cái tôi trữ tình không hoàn toàn đồng nhất, trùng khít với tác giả. Nếu
cái tôi Thơ mới là cái tôi cá thể, phát hiện ra chính mình, say sưa đào sâu vào
mình; cái tôi trong thơ cách mạng là cái tôi đoàn thể, cái tôi nhân danh cộng đồng,
thì cái tôi cuả Mai Văn Phấn là cái tôi bản thể, tức là cái tôi của chủ thể
tính trong không gian đương đại. Cái tôi đó đang ưu tư về thân phận, băn khoăn
triết lý về sự ra đời của chính mình - một chủ thể người. Cho nên, lẽ dĩ nhiên
thơ bao giờ cũng phản ánh một diện mạo của nhà thơ “Người thơ phong vận như thơ
ấy”.
Nếu
như các nhà thơ cổ điển dùng chữ để “tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí” thì Mai Văn
Phấn với tư cách là một nhà thơ hiện đại lại dùng chữ để thiết lập không gian
nghệ thuật, tạo ra một hệ hình thẩm mỹ riêng biệt. Bằng những ý tưởng mới lạ
cùng cảm xúc mãnh liệt, Mai Văn Phấn đã viết những vần thơ cuồn cuộn phù sa, dữ
dội mà không kém phần cuốn hút và ám ảnh. Đọc thơ Mai Văn Phấn, nếu chỉ đọc một
lần thì có lẽ rất khó để hiểu, rất khó để cảm nhận. Muốn khám phá thế giới thơ
Mai Văn Phấn đòi hỏi phải lao động nghiêm túc và khoa học. Bởi lẽ chữ nào của
ông cũng nặng, hằng số ảo trong từng con chữ rất cao. Giữa hai dòng thơ, giữa
các con chữ là sự bất tận của những cảm nhận, những rung động mãnh liệt và chân
thành, những ấn tượng mạnh mẽ, có khi thành nỗi ám ảnh. Với một tác giả say mê cách tân thơ như Mai Văn Phấn
thì chắc chắn ông không chịu đi theo một lối mòn có sẵn. Ông từng tuyên ngôn rằng: "Không,
ta vẫn còn giọng nói. Mỗi âm tiết lúc ấy hiện lên một sự thật. Sự thật hiển
nhiên đảo lộn mọi quy ước phổ thông" (Anh anh em em...). "Đảo
lộn mọi quy ước phổ thông" tức là bẻ gãy thói quen quán tính trong
cách nhìn và cách nghĩ về sự vật. Muốn thế, nhà thơ trong quá trình sáng tạo phải
lao động hết mình và nghiêm túc. Và quả thật, với tất cả những tập thơ đã xuất
bản trong thời gian vừa qua, Mai Văn Phấn đã chứng minh cho bạn đọc thấy rõ sự
lao động miệt mài, say mê, nghiêm túc và cả tài năng thực sự của mình.
Trên hành trình sáng tạo và vượt thoát, Mai Văn Phấn
luôn có ý thức tạo ra tính chất mở cho văn bản thơ để mời gọi độc giả đồng sáng
tạo với thi nhân, thông qua việc sử dụng hệ thống ngôn từ giàu tính chất tượng
trưng, ít sử dụng những dấu chấm câu, không cần tuân thủ trật tự
cú pháp, đề cao sự liên tưởng cá nhân (hay còn gọi là lối viết tự động và tự do
của ký hiệu). Ta có thể tìm thấy trong Hôm sau những cách diễn
đạt khá mới lạ:
Con
gián và tôi từ giờ sòng phẳng
Nó
chui ra. Tôi vô cảm.
Nó gặm
nhấm. Tôi ngập chìm.
Nó leo
tường. Tôi thù vặt.
Nó bài tiết. Tôi ăn gian.
Nó hôi xì. Tôi lì lợm.
Nó dò xét. Tôi mở đường.
Nó nghênh ngang. Tôi u
muội.
(Chuyện còn dài)
Ở bài thơ Biến tấu
con quạ, ngôn ngữ thơ được sắp xếp, bố trí một cách lạ hóa không theo một
quy tắc nào:
Trông
Sự vật
Trừng trừng
Bởi chớp mắt
Bóng quạ
Ập tới.
Bóng mình
Không cất tiếng
Sợ biến thành gà con.
Hay một số hình ảnh thơ đậm chất ẩn dụ và tạo ra những khoảng trắng giữa
những dòng thơ:
- Hãy nhìn xuyên đêm!
- ............
- Thấy gì không?
- ............
- Chiếc váy cuối hạ
- ............
…
- Pha lê ánh sáng
- ............
- Bóng đen lò luyện khổng
lồ
- Thi nhau vốc cát ném
vào đêm tối
(Hình Đám Cỏ - Nhịp VII)
Giữa những dòng thơ có chữ và không chữ ấy là những
thông điệp ẩn, những khoảng trắng mà nhà thơ muốn gửi gắm. Nó sẽ được người đọc
phát hiện theo nhiều chiều kích khác nhau tùy vào khả năng liên tưởng của họ.
Theo PGS. TS. Hồ Thế Hà, Mai Văn Phấn cũng như nhiều nhà thơ hậu hiện đại đã nhận
ra một khả năng kỳ diệu của ngôn ngữ ở chỗ, các đơn vị ngôn ngữ có thể thay thế
cho nhau nhờ vào tính tương đương, đồng dạng giữa chúng. Cho phép nhà thơ lựa
chọn một nghệ thuật chỉ một đơn vị ngôn ngữ trong hàng loạt đơn vị ngôn ngữ có
giá trị tương đương nhau, để diễn đạt nội hàm ngữ nghĩa mà mình cần thể hiện.
Hoặc bên cạnh đó, nhà thơ luôn tìm tòi, phát hiện những từ mới lạ khác để thể
hiện nội dung mà họ cần thông điệp đến độc giả. Minh chứng cho điều đó ta có thể
phân tích một số bài thơ tiêu biểu của Mai Văn Phấn: "Mặt đất vừa qua phút lâm bồn/ Anh về hụt bước trước hoàng
hôn/ Chân trời phía ấy vừa se lại/ Chiều rỗng mặc kim chỉ gió luồn" (Nghe
tin em sinh con). Ở đây, Mai Văn Phấn đã mượn hình ảnh đất - một biểu
tượng của sự phồn sinh để nói về công cuộc vượt cạn vĩ đại nhưng cũng không kém
phần nhọc nhằn của người phụ nữ. Vì vậy, hình ảnh chân trời cũng
không đơn thuần là chân trời của tự nhiên mà đã mang trong nó một
nghĩa khác.
Có khi
trong những trang thơ Mai Văn Phấn xuất hiện những câu mà sự kết hợp giữa những
ngôn từ không liên quan gì nhau, ngôn từ được tĩnh lược tối đa làm cho hình
tượng thơ nhòe đi trong cảm nhận.
Tôi
đợi
Những
cánh chim
Mỏi
mòn
Chân
bồn chồn
Dòng
sông
Trong
đục...
(Lời
của đá)
Những
câu thơ không đầu, không cuối, không vần, không nhịp được kết nối với nhau
trong một từ trường cảm xúc nhất quán làm cho nghĩa của cả câu, cả bài trở nên
đa nghĩa. Tác giả đã mở ra một khoảng trống tự do và yêu cầu độc giả cùng tham
gia sáng tạo, từ đó mở ra một chân trời cảm nhận cho riêng mình. Hơn thế thơ
đôi lúc cũng không cần phải quá rõ ràng, bởi vì trong nhiều trường hợp một câu
thơ sẽ đẹp hơn nhiều khi ta cảm nó thay vì hiểu nó. Những câu thơ của Mai Văn
Phấn nhiều khi nhòe đi do sự tĩnh lược và dồn nén ngôn từ:
Trời
tối
Ghé
sát hoa
Đọc
nốt trang sách
(Hoa
mận trắng)
Câu
thơ cho người đọc một sự ngỡ ngàng, khó đoán định. Nhưng tại sao phải cố hiểu
hay giải thích nghĩa của từng câu chữ làm gì? Trước mắt ta là cả một bức tranh
tươi đẹp. Ta có thể thấy sắc trắng của hoa mận rạng ngời. Hình ảnh gợi lên
khung cảnh thật trữ tình. Đó là hình bóng của thi nhân ngồi đọc sách bên hoa
mải miết, say mê đến quên cả thời gian. Hay ở bài thơ khác, ông viết: "Từ tưởng tượng/ Và niềm khát vọng/ Tôi rút những mũi tên/ Ra đi
tìm đích cho ngày./ Quanh tôi những tấm bia bất động/ Đây ngó sen vời vợi đáy hồ/
Kia lũ trẻ trần truồng chạy vào tôi hơn bốn mươi năm trước/ Tôi mù mờ ngắm những
mu mơ./ Từng mũi tên vạch đường bay vun vút/ Xuyên táo chiều không gian thời
gian/ Xuyên táo nhân sinh quan và thế giới quan/ Và tôi tin mình bắn trúng
đích" (Mũi tên bóng tối). Hình ảnh những mũi tên xuyên vào đêm tối được thi
nhân khắc họa trong bài thơ thể hiện khát vọng đổi mới thi ca, vượt lên thói
quen sáng tạo nhàm chán đang chiếm lĩnh thi đàn. Không chỉ ở bài thơ này mà
trong nhiều thi phẩm của mình, Mai Văn Phấn đã thể hiện quyết tâm và niềm tin
mãnh liệt vào sự thành công của công cuộc cách tân ấy, dẫu biết đó là con đường
nhiều sóng gió, đầy những gian lao, thử thách: "Biển đang vượt cạn/ Con mực, con sao trôi sang kiếp khác/ Đổi chiều
những dòng hải lưu/ Mặt nước xẹp/ Anh đứng nơi bờ cát đang nứt/ Đôi tất nâu
không còn cuộn trong giày/ Cặp kính mát nằm xa chiếc mũ/ Nín thở biết gần kho
báu/ Lần tìm, cố xoay từng cánh cửa nước" (Hình Đám Cỏ - Nhịp
VI).
Cũng
như hầu hết các nhà thơ vận dụng thủ pháp siêu thực, thơ Mai Văn Phấn khêu gợi
nỗi kinh ngạc bằng cách phá vỡ thói quen sử dụng từ ngữ sáo mòn và khai mở các
dáng vẻ phong phú của thế giới bằng những hình ảnh chói sáng. Bởi hình ảnh
chính là một phương tiện giải phóng cái nhìn, gắn kết tưởng tượng với tự nhiên,
biến các khả năng thành hiện thực. Thơ Mai Văn Phấn cũng xuất hiện nhiều hình
ảnh lạ và bất ngờ, kiểu như:
Ngọn
lửa lùa qua cửa sổ, ổ khóa, lỗ thông hơi… như người căm giận cầm những thỏi bạc
ném vào đêm tối hay tua tủa ngón tay giơ lên bấm vào một huyệt đạo khổng lồ.
(Nghe tin bạn mất trộm)
Mỗi lần lao qua miệng lỗ
thủng, bàn tay hắn lại xòe rộng. Tấm bìa giống con sứa đang bơi mắc phải lưỡi
câu chùm.
(Hắn)
Tôi đặt vào cái miệng những
ngữ âm
như gõ lên ô Search một
website tìm kiếm
(Cái miệng bất tử)
Với hệ thống ngôn ngữ tạo sinh nghĩa, sự phóng bút, bắt vần, thơ Mai Văn
Phấn luôn mở ra cho người tiếp nhận những khả năng khác nhau thông qua từng
hình tượng thơ. Trong đoạn thơ trên, thông qua việc miêu tả những hiện tượng có
vẻ khách quan đang tồn tại trong thế giới tự nhiên dưới con mắt quan sát tinh tế
của mình, Mai Văn Phấn đã thể hiện sự nỗ lực, nỗi khát khao đổi mới thi ca của
một nghệ sĩ chân chính. Manrô, một nhà văn Pháp
đã tuyên bố “Nghệ thuật của chúng ta - đó là xây dựng một thế
giới xa lạ với thế giới hiện thực. Nghệ thuật của chúng ta không phải là sự
biểu hiện của thế giới hiện thực”. Đó là quan điểm của một trong những đại biểu
của chủ nghĩa hiện đại đang hô hào thực hiện một cuộc cách tân trong nghệ thuật
mà theo Lênin là khác gì họ đuổi cuộc sống ra khỏi nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện
sinh không phủ nhận hoàn toàn hiện thực khách quan, không khước từ một cách lộ
liễu việc phản ánh hiện thực khách quan. Trong một chừng mực nào đó, nó vẫn
thừa nhận sự tồn tại của hiện thực khách quan. Nhưng hiện thực khách quan đó là
cái gì? Camus quan niệm thế giới khách quan chỉ là một mớ hỗ độn, vô trật tự.
Trong bài nói chuyện tại trường đại học Upsal ngày 14 - 12 - 1957 nhan đề Nghệ sĩ với thời đại anh ta, Camus nói:
“Nghệ thuật không phải là sự khước từ hoàn toàn hoặc đồng ý hoàn toàn với những
cái gì tồn tại. Nó đồng thời vừa là sự khước từ vừa là sự đồng ý”. Heiderger nhà
lí luận nổi tiếng của chủ nghĩa hiện sinh đã viết trong tác phẩm Sự tìm đường rằng, tác phẩm nghệ thuật
chẳng qua chỉ là sự tự biểu hiện của nhà văn, biểu hiện sự có mặt của nhà văn.
Tác phẩm nghệ thuật chỉ là một tượng trưng, một dấu hiệu nhằm khám phá “cái bí
mật tồn tại” và nhờ nó, có thể hiểu được cái bí mật. Từ chỗ phủ nhận quy luật
khách quan của hiện thực, chủ nghĩa hiện sinh phủ nhận cả quy luật khách quan
của nhận thức và logic lời nói con người. Đó là lý do mà thế giới nghệ thuật
trong các nhà văn theo chủ nghĩa hiện sinh đều là một mớ hỗn độn, không logic,
không trật tự, đầy phi lý. Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn cũng như
vậy, theo đúng tinh thần hiện sinh của Camus. Thơ Mai Văn Phấn là thơ của cái
nhìn hiện sinh phi lý, nhưng là cái phi lý hợp lý.
Như vậy, từ sự hàm ngôn qua lớp vỏ ngôn từ, người đọc
thấy rõ phong cách sử dụng ngôn ngữ của ông, đó là sự tinh luyện và lạ hóa ngôn
ngữ kết hợp với ngôn ngữ đời thường giản dị. Đặc biệt, nhà thơ tỏ ra khá thành
công khi tạo ra sự khác biệt cho thơ mình bằng việc sử dụng hệ thống ngôn từ tạo
sinh nghĩa với rất nhiều những hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng. Với phương châm
sáng tạo và không ngừng sáng tạo, Mai Văn Phấn đã tạo ra được tính chất mở cho
tác phẩm văn học và kêu gọi người đọc đồng sáng tạo với nhà thơ. Tiếp cận với
thơ ông, người đọc tùy vào khả năng liên tưởng, tầm văn hóa và tri thức của
mình để khám phá ra nhiều lớp nghĩa khác nhau. Đó là lí do khiến thơ Mai Văn Phấn
trở nên đa thanh, đa nghĩa.
3.2. Đặc trưng đa giọng điệu
Có thể khẳng định một điều rằng: "Giọng điệu
là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng
được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc
điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca
hay châm biếm..." [16, 134]. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội,
thị hiếu thẩm mỹ và cách nhìn của chủ thể phát ngôn về đối tượng được nói đến
cũng như đối tượng mà lời văn ấy hướng vào. Nó là một trong những yếu tố cơ bản
tạo nên phong cách thơ và đồng thời truyền cảm hứng cho người đọc. Vì thế, giọng
điệu là một thuộc tính bên ngoài nhưng vô cùng quan trọng trong văn học. Khác với
văn xuôi, giọng điệu thơ trữ tình chịu sự chi phối của điểm nhìn nghệ thuật, cảm
hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà thơ. Ở đây ta bắt gặp sự nhạy bén trong việc
khám phá cuộc sống cũng như chiều sâu tư tưởng của tác giả. Không giống như những
nhà thơ khác, Mai Văn Phấn là một trong những tác giả ghi dấu ấn đậm nét về giọng
điệu thơ trong lòng bao đọc giả. Giọng điệu thơ ông trước hết được bắt nguồn từ
quan niệm nghệ thuật về nhân sinh và thế giới. Thơ ông thể hiện sự phong
phú về sắc điệu: khi thì giễu nhại, hoài nghi, lúc lại triết lý, chiêm
nghiệm và đặc biệt ông thành công khi thể hiện giọng điệu vô âm sắc.
* Giọng giễu nhại, hoài nghi
Mỗi “đứa con tinh thần” ra đời đều mang một giọng
điệu riêng của mỗi tác giả. Khi nhắc đến giọng điệu giễu nhại, hoài nghi hẳn
trong mỗi chúng ta đều không còn xa lạ. Giễu nhại là giọng điệu không mới, nó
có mặt trong tác phẩm nhiều nhưng độc giả lại rất khó nắm bắt bởi nó được thẩm
thấu qua nhiều yếu tố. Nó chỉ có thể được lĩnh hội, cảm nhận qua quá trình đọc,
cảm nhận từng câu chữ, từng khoảng trống trong tác phẩm. Khi nói về giọng điệu
thơ Mai Văn Phấn, có thể khẳng định rằng ông đã đóng góp giọng nói của mình một
cách đầy ấn tượng. Ngay những trang viết đầu tiên trong tập thơ Giọt nắng, người
đọc bắt gặp giọng nói có phần rụt rè, quen thuộc. Tuy nhiên thơ Mai Văn Phấn
giai đoạn sau đã mang đến cho người đọc một giọng điệu mới lạ, tiêu biểu trong
tập Hôm sau, ông đã tìm đến với giọng điệu giễu nhại, hoài nghi như là một giọng
điệu chủ đạo của thơ mình. Mai Văn Phấn viết: "tôi và con gián cùng hội thảo khoa học/ cùng đeo khẩu trang, cùng
ngắm hoa/ cùng bẫy chim, cùng khắc phục hậu quả/ cùng lau mồ hôi, cùng tiên
tri/ Con gián và tôi từ giờ sòng phẳng/ Nó chui ra. Tôi vô cảm./ Nó gặm nhấm.
Tôi ngập chìm./ Nó leo tường. Tôi thù vặt./ Nó bài tiết. Tôi ăn gian./ Nó hôi
xì. Tôi lì lợm./ Nó dò xét. Tôi mở đường./ Nó nghênh ngang. Tôi u muội" (Chuyện
còn dài). Nhà thơ đã đặt con người ngang hàng với các loài vật, loài côn trùng
như chó, trâu, bò, gián... để tự vấn về nhân cách của họ. Trong con mắt thơ Mai
Văn Phấn, nhân thế chỉ còn là chốn súc sinh ngự trị không còn là một huyễn tưởng
nữa mà là hiện thực mang nghĩa biểu tượng. Từ đó, mỗi người đọc phải nghiêm túc
chiêm nghiệm và suy ngẫm, đồng thời chỉnh đốn lại bản thân nhằm hướng đến một
xã hội tốt đẹp. Thêm nữa, nhân vật “Hắn” - một nhân vật phổ quát trong thơ Mai
Văn Phấn thường xuyên “đến trong ý nghĩ”. Hắn phải chăng cũng chính là tác giả
hay mỗi chúng ta: "Hắn là nơi hoàn
thiện: của gương đã lành/ sâu đã nở/ trinh đã mất/ cáp đã đứt/ cống đã thông...
là bãi phế thải của giẻ rách/ mảnh thủy tinh/ băng vệ sinh/ giày dép lạc mốt/ là
viên đạn bay đi chạm đích/ những vòng kinh hồi sinh/ dòng sông gặp biển..."
(Hắn). Dường như Mai Văn Phấn muốn cảnh báo chúng ta rằng: Thế giới đang biến đổi
một cách chóng mặt và ngày càng trở nên nhiễu loạn. Không ai có thể giữ lại cho
mình, dù là cái riêng nằm trong đũng quần: “của quý kia phải liệng xuống hố
phân” (Chỉ là giấc mơ) mà đó lại không phải là một cuộc biến đổi thân phận
thực sự.
Bên cạnh đó tiếng cười của Mai Văn Phấn còn hướng về
những ý nghĩ ngẫu hứng giàu tính giễu nhại của trạng thái tỉnh táo tột
cùng làm cho người đọc không khỏi ngạc nhiên:
"Ý nghĩ tôi muốn điều khiển con
chuột chui từ cống hẹp
từ tốn bò vào thùng rác nằm chết ngay ngắn
Xe chở rác đem những con chuột đi chôn
vĩnh viễn trong thành phố không còn chuột.
Một cách nghĩ khác:
Múc nước ở cảng Hải Phòng
nước tự biến thành tinh khiết
tự đóng chai lăn đến các nhà hàng, khách sạn
Người nghèo đến đó mà thu tiền
(Tỉnh táo tột cùng)
Tuy nhiên, điều đáng nói là đằng sau tiếng cười
châm biếm và giọng giễu nhại, hoài nghi ấy là cả một khoảng trời với nỗi đau vô
cùng tận của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống. Giọng thơ giễu nhại của ông như
bông lơn, bỡn cợt nhưng đau đớn, sâu cay. Phải chăng, từ thực tế cuộc sống, bằng
lối nói giễu nhại, hoài nghi, nhà thơ đã đưa ra những hồi chuông cảnh báo. Mỗi
chúng ta hãy dũng cảm nhìn vào thực trạng đời sống hôm nay để đổi thay nếp
nghĩ, lối sống cho phù hợp với thời kì hậu hiện đại đầy hoài nghi và bất an?
* Giọng triết lý, chiêm nghiệm
Bên cạnh giọng thơ châm biếm, giễu nhại, thơ Mai
Văn Phấn còn thể hiện rõ nét giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm. Giọng điệu này
trong thơ ông chủ yếu được bắt nguồn từ quan niệm của ông về nhân sinh và thế
giới. Có thể thấy trong thế giới thơ Mai Văn Phấn, giọng điệu này được thể hiện
ở hầu hết các tập thơ ông đã xuất bản. Tuy nhiên, Hôm sau vẫn là tập
thơ mang tính triết lý đậm đặc nhất. Có điều những triết lý trong thơ Mai Văn
Phấn không cao siêu, trừu tượng mà rất phổ biến trong cuộc sống đời thường
nhưng sẽ là nghịch lý nếu nhìn nhận theo logic thông thường. Xét một cách toàn
diện, đó là thứ triết lý được xác lập trên cơ sở những dữ kiện đời sống tồn tại
như một nghịch lý. Mai Văn Phấn thường liên kết những hiện tượng đơn lẻ của
đời sống, sau đó dùng kinh nghiệm để tích hợp và chuyển hóa thành phẩm chất mới.
Khi nói về giọng triết lý, chiêm nghiệm, chúng ta có thể thấy, con người luôn
phải đấu tranh sinh tồn và hướng đến xây dựng, vun đắp một cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Tuy nhiên, của cải, vật chất chỉ là phù du. Bởi lẽ, con người khi nhắm mắt
xuôi tay đều trở về với cát bụi, họ không thể mang theo chúng và khi đó mọi thứ
ở trần gian trở nên vô nghĩa: "Một
thời phờ phạc thiên di/ Tìm trong bóng nước thấy gì nữa đâu/ Mảng đêm đập cánh
đi mau/ Giọt sương trong mát trên đầu hư không..." (Thay lời chim
làm tổ); "Ừ, thì ra cát bụi/ Là
một đời thân xác đớn đau/ gió vẫn ru xanh mướt ở trên đầu/ Trời rót xuống từng
cơn mưa đằm thắm" (Hồn nhiên).
Hay:
- Xưa có con tim nào hóa
đá/ Để một ngày cho đá hóa con tim/ Để bàn chân ta sáng lên ngọn lửa/ Thắp lên
phần cháy dở đêm qua (Người cùng thời - Chương I)
- Dù ở cuối làn hương/
Hay làm viên sỏi nhỏ/ Bị quên lãng ven đường/ Vẫn mong chờ ai đó/ Bỗng vô tình
nhặt lên/ Lại cuống quýt gọi tên/ Lại bốn mùa xao xác/ Lại lo toan thường nhật/
Với thiêng liêng thuở nào/ Và mơ mộng chiêm bao.../ Và thương yêu khao khát/ Lại
gọi tên cuống quýt/ Hỡi bé bỏng sinh linh!/ Hỡi bé bỏng trái tim!/ Trong vòng
quay trái đất/ Dưới mặt trời thổn thức... (Người cùng thời - Chương V)
Có lẽ Mai Văn Phấn trong quá trình sáng tác, ông đều
gửi đến bạn đọc rất nhiều thông điệp: Thông qua những bài thơ trên, người đọc
có thể thấy điều quan trọng nhất khi chúng ta còn sống trên cõi đời này là phải
sống sao cho có ý nghĩa, đừng sống hoài, sống phí. Và trong mỗi chúng ta đều biết
rằng, pha lê là sản phẩm tượng trưng cho cái đẹp nhưng nó rất dễ vỡ. Qua hình
tượng "bụi" và "pha lê", Mai Văn Phấn đã gửi
đến chúng ta triết lý về sự trân trọng cái đẹp. Cái đẹp rất đáng quý, đáng trọng,
đáng được nâng niu nhưng nó cũng mong manh, dễ vỡ và dễ tổn thương.
"Từ chai sạn dấu
tay người thợ/ Pha lê đứng lên rực rỡ lung linh/ Kiêu hãnh giữa không gian bụi
bặm./ Người chủ lỡ tay/ Hay số phận.../ Pha lê quay cuồng/ Vụn nát./ Bàng
hoàng/ Nhận ra/ Bụi là mẹ ở nơi nơi" (Bụi và pha lê).
Bên cạnh những câu thơ có dáng vẻ thô ráp hay có phần
ngộ nghĩnh của Mai Văn Phấn, ta bắt gặp những suy tưởng, chiêm nghiệm khá sâu sắc
về con người được tác giả đúc kết bằng kinh nghiệm bản thân qua nhiều năm tháng
sống giữ hộ ký ức cho người khác. Ở bài Anh tôi, ý tưởng nhờ người
khác giữ hộ ký ức của nhân vật anh là một ý tưởng lạ. Nhưng còn lạ
hơn khi: "Tôi khuyên anh nên vẽ
tranh hoặc viết sách. Nhưng anh đâu phải nhà văn, họa sĩ. Tôi nêu nhiều giải
pháp khác: cắt rời, khởi động lại, thu nhỏ, dừng đột ngột, ninh nhừ, nghiền
thành bụi...". Lời khuyên ấy của nhân vật tôi quả thật
xuất phát từ sự ngẫu hứng và là một sự phi lý hết sức so với logic thông thường.
Nhưng chính sự phi lý ấy cũng phản ánh một triết lý khác, đó là đời sống tâm hồn
của mỗi con người luôn tồn tại biệt lập. Dù rất thương anh nhưng nhân vật "tôi" không
thể làm được gì hơn cho anh ngoài việc đưa ra những lời khuyên có vẻ thiếu thuyết
phục. Anh ta vẫn phải sống, vẫn ngắm trăng, vẫn nhớ người yêu, vẫn giặt là, vẫn
tắm gội sạch sẽ, thơm tho... như chẳng điều gì có thể thay đổi cuộc sống của
anh ta. Không chỉ dừng lại ở mối quan hệ anh em mà ngay cả trong quan hệ vợ chồng,
tưởng như hai tâm hồn đã hòa làm một thì họ sẽ hiểu rất rõ về nhau, sẽ có thể
chia sẻ với nhau mọi thứ. Nhưng không, người đàn ông trong thơ Mai Văn Phấn đã
bộc lộ nỗi cô đơn mênh mông hết sức thấm thía: "Em ngủ say không biết/ anh đang nhìn hạt mưa/ bóng tối xơ xác
ngoài cửa sổ/ tán cây đè nặng ngực mình/... / Những ngọn thác câm lặng đang đổ
xuống rất mạnh/ những đế giày chuẩn bị vỡ tung/ chân tường mở cánh cửa thoát hiểm/
bụi mưa phùn hay châu chấu bay qua/ cả ngôi nhà lao đi chóng mặt/ sửng sốt, rã
rời khi gặp bình minh..." (Để nhận ra anh). Đó là một triết lý
sâu sắc về sự thấu hiểu trong tình yêu, về khả năng thâm nhập đời sống tinh thần
giữa người với người. Với Mai Văn Phấn, cây cỏ vô tri nhưng lại có linh hồn,
mang một tinh thần của riêng nó. Thông qua hình tượng này, nhà thơ đã gửi gắm
những triết lý mang tính nhân sinh sâu sắc. Chẳng hạn như những câu thơ
sau: “Hoa tàn cây vẫn còn đau/ Hương
thơm quyến luyến trên đầu cỏ xanh” (Kinh cầu ban mai); “Gần em cho mưa bay/ cỏ dưới chân đang
hàn gắn thế giới” (Những bông hoa mùa thu)…
Như vậy, với giọng điệu triết lý, chiêm nghiệm, Mai
Văn Phấn đã góp phần làm phong phú, sinh động cho vườn thơ hiện đại Việt Nam và
hơn thế tạo ra một dấu ấn riêng cho thơ mình.
* Giọng điệu vô âm sắc
Bên cạnh giọng điệu giễu
nhại, hoài nghi, triết lý, chiêm nghiệm, Mai văn Phấn còn sử dụng giọng điệu vô
âm sắc để thể hiện cảm quan hiện sinh trong các sáng tác của mình. Giọng vô âm
sắc là giọng lạnh lùng, dửng dưng. Khi sử dụng giọng điệu này người kể chuyện hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện, không can
dự vào. Theo Bakhtin, giọng điệu vô âm sắc “chỉ cung cấp sự thật mà không kèm
theo giọng điệu, không có ngữ điệu, hoặc mang màu ngữ
điệu ước lệ. Lời văn biên bản, thông báo khô khan dường như là
lời vô giọng điệu, là chất liệu sống để tạo thành tiếng nói” (Bakhtin, 1992).
Nó còn được gọi là giọng tẩy trắng tức nó đồng nghĩa với “độ không của lối
viết” như cách nói của Roland Barthes: “Lối viết trung tính đứng chính giữa
những tiếng la hét và những lời phán xét ấy, mà không tham gia gì vào bên nào
cả; chính sự vắng mặt những thứ đó làm nên lối viết này; nhưng sự vắng mặt này
là toàn vẹn, nó không chứa một sự ẩn giấu, một bí mật nào, cho nên không thể
gọi là lối viết thản nhiên; đúng hơn là lối viết “vô tội”, là “độ không của lối
viết” (Roland Barthes (Nguyên Ngọc dịch), 1997). Do quan niệm đời sống là một
hiện thực bừa bộn, ngổn ngang, nhiều góc cạnh với nhiều mảnh vỡ số phận, nhiều
góc khuất, nhiều mảng sáng tối nên Mai Văn Phấn đã không chủ quan trong việc
nhìn nhận hiện thực mà nghiêm túc
quan sát, ghi nhận lại một cách khách quan. Có lúc nhà thơ đóng vai trò trần
thuật ngôi thứ ba đứng ngoài,
quay camera - những
đoạn camera là những đoạn mang giọng điệu vô âm sắc - để khắc họa rõ nét
những điều phi lí, bất trắc và con người dần tha hóa, đánh mất gương mặt đặc
hữu của mình. Mai Văn Phấn sử dụng giọng điệu lạnh lùng, dửng dưng để diễn tả
sự đảo lộn trong cuộc sống hiện tại. Mối quan hệ giữa con người với con người
trong xã hội nhiều khi đến mức tàn nhẫn, thơ văn trở nên đời thường, trần trụi,
mang âm hưởng, mang không khí thời đại:
Chúng
bịt miệng
trấn
lột mọi thứ
và xin
tôi bộ phận sinh dục.
Nói
rằng xin /bởi nếu tôi không đồng ý
của
quý kia phải liệng xuống hố phân
(chúng
biết cả bí quyết thần
chú).
(Chỉ
là giấc mơ)
Giọng
điệu cũng giống như một cuốn phim. Nó làm hiện rõ tất cả những gì sống động
được ghi lại trong cuốn phim đó. Xuất phát từ hoàn cảnh bức bối của hiện
thực đời sống đầy rẫy những bất an, khủng hoảng và đổ vỡ niềm tin, mối quan hệ
giữa con người với con người nhiều khi kéo theo sự tha hóa. Với nhịp sống hiện
đại, sự ảnh hưởng của cơ chế thị trường, con người sống với nhau nhiều khi mất
đi sự tin tưởng và đoàn kết. Thay vào đó là sự đố kỵ, dọa dẫm, khống chế lẫn
nhau, đưa lợi ích cá nhân lên trên hết. Những câu thơ xót xa về sự thay đổi
tình người. Với giọng điệu lạnh lùng như thể dửng dưng trước mối quan hệ giữa
con người với con người trong xã hội, những câu thơ của Mai Văn Phấn như là
nhát dao cứa vào tim người đọc. Nếu trước đây khi nói về tình yêu nó đều gắn
liền với những điều lớn lao, cao cả, những câu thề nguyền chung thủy, sắt son.
Giờ đây trong thơ Mai Văn Phấn chủ thể trữ tình không xuất hiện, không có sự
đánh bóng nhân vật trữ tình. Mai Văn Phấn dùng giọng điệu tỉnh bơ, lạnh lùng để
nói đến tình cảm của những đôi lứa yêu nhau. Đến với tình ái, bởi thấy cuộc đời
mình thiếu vắng vô tận, để rồi nhà thơ nghĩ mình không bao giờ là một chỉnh thể
toàn vẹn:
Lúc cô
đơn anh nghĩ
là nửa
trái cây
nửa tiếng chim hót
nửa hang sâu
một phần tiếng động
nửa con cá
một
góc thân tàu
nửa
lặng im nối vào mặt phẳng
(Hình
Đám Cỏ - Nhịp VII)
Tất cả
những đối tượng được nhà thơ đưa ra để so sánh với bản thân khi tồn tại dưới
dạng “một nửa” đều trong trạng thái chết, đều vô nghĩa hoặc không tồn tại. Vì
thế, nhà thơ muốn gửi đến người tình của mình thông điệp: Nếu đời anh không có
em thì sự tồn tại của anh trên đời là vô nghĩa, anh sẽ không còn là chính mình
nữa và chỉ khi nào hai chúng ta hòa làm một thì cuộc đời này sẽ nở hoa, cuộc
sống của anh mới có ý nghĩa. Hơn thế chính
sự cô đơn ấy đã biến thành trận cuồng phong của nỗi khát khao tình yêu trong
thơ Mai Văn Phấn. Trận cuồng phong ấy dường như muốn xé nát, đập vỡ tất
cả:
Nhoài
lên mỏm đá sắc
Thân
thể gió trầy xước
Máu
của gió là mưa
Nắng
nhỏ xuống
…
Giang
tay núi đạp chân vào đất
Vò nát
Xé
toang thân gió
Ánh
sao rơi
Buổi
sớm vỡ
oà
(Đỉnh
gió)
Thơ
Mai Văn Phấn nó giống như những mảnh vỡ gợi lên cảm giác về một cuộc sống không
bằng phẳng mà đầy những chông gai, cay đắng. Nếu thơ ca giai đoạn trước ta bắt
gặp giọng hào sảng, mạnh mẽ của thời kháng chiến hay giọng trữ tình sâu lắng
của thơ mới thì ở giai đoạn này, giọng vô âm sắc đã mang đến cho thơ ca cái
dung tục hóa đời thường. Thơ Mai Văn Phấn cũng ở trong lộ trình đó. Qua giọng điệu vô âm sắc ta thấy, trong một thế giới luôn tồn tại những điều phi lý và bất trắc thì cái ác, cái xấu đã được phơi trần trước ánh sáng. Từ việc
người kể chuyện cố tình giữ thái độ “miễn
bình luận” đối với tất cả mọi chuyện, tác giả muốn đưa ra tiếng nói đối
thoại với độc giả về hành trình tha hóa của con người. Đó chính là thực trạng
đáng báo động về con người hôm nay - những con người bị ảnh hưởng bởi mặt trái
của xã hội hiện đại. Vì thế chỉ biết sống ích kỷ cho bản thân, dần đánh mất
tình người, luôn luôn vô cảm trước mọi cảnh huống. Mai Văn Phấn đã thực sự trao
quyền phê phán, đánh giá, bình luận đối với các nhân vật cho độc giả. Từ đó, họ
suy ngẫm rồi tự mình đưa ra phán xét và buộc phải chọn một thái độ nhân sinh dứt
khoát. Chúng ta có cảm giác nhà thơ không hề run tay khi
xé bỏ tấm mặt nạ che đậy lên nhân vật để phơi trần những gương mặt cùng những
tâm hồn méo mó. Nhưng viết về cái xấu - sự tha hóa của con người - không đồng
nghĩa với việc tán đồng, cổ súy cho lối sống sai trái. Ngược lại, từ đó nhà thơ
muốn thức tỉnh lương tâm độc giả. Nói cách khác, “đó chính là tiếng chuông cảnh
báo của nhà thơ trước thực trạng con người bị tha hóa từ nhiều phía, đồng thời
là những liều thuốc đặc hiệu chống lại những tác nhân, những vi trùng gây bệnh
từ môi trường hiện đại nhằm giữ lấy thiên lương” cho con người (Bùi Thanh Truyền,
2014). Thiết nghĩ đó cũng là một cách
giúp con người tìm được ý nghĩa cuộc sống để vươn lên hiện sinh trung thực.
3.3. Không - thời gian phi tuyến tính
Sáng tạo văn học là cách nhà văn, nhà thơ tham gia chiếm lĩnh, cải
tạo thế giới. Những khám phá mới mẻ, nâng tầm văn hóa, giá trị cho đời sống con
người của các nhà nghệ sĩ bao giờ cũng được hoan nghênh và đón đợi. Với những
nghệ sĩ chân chính, những nỗ lực tìm tòi, học hỏi để sáng tạo nghệ thuật luôn
đem lại những giá trị triết - mỹ sâu sắc. Trong những phương thức để tổ chức
tác phẩm nghệ thuật, bên cạnh hình tượng nhân vật, hình tượng không gian và
hình tượng thời gian cũng là những yếu tố quan trọng, dung chứa cái nhìn và sự
cắt nghĩa về thế giới và con người của nhà văn. Ở thế giới khách quan, không
gian, thời gian là hình thức tồn tại của vật chất. Khi được nghệ sĩ sử dụng để
sáng tạo nghệ thuật, chúng trở thành không gian, thời gian nghệ thuật chuyển tải
quan niệm của tác giả về mối quan hệ của nhân vật và hoàn cảnh. Không - thời
gian nghệ thuật là hình thức nội tại của tác phẩm văn học, là môi trường tồn tại
của nhân vật. Qua điểm nhìn không - thời gian, nhà nghệ sĩ thể hiện sự cảm thụ
riêng về con người và cuộc đời, từ đó bộc lộ tư tưởng, tình cảm, phong cách của
tác giả. “Nó là sáng tạo chủ quan của người nghệ sĩ thông qua trạng thái tình cảm
và các phương thức biểu hiện của ngôn ngữ” [11]. Với nhà nghệ sĩ ngôn từ Mai Văn Phấn, coi thơ ông là một thế giới
bát ngát, bất tận của nghệ thuật. Ông hiện sinh để phụng sự cuộc sống qua sự tận
hiến cho thơ ca và nghệ thuật. Thế giới thi ca của ông là bao dòng tư tưởng triết
học, nghệ thuật Đông và Tây từ cổ chí kim đã chảy về và được lắng đọng, kết
tinh qua màng lọc trí tuệ, trái tim mẫn cảm của một nghệ sĩ có tư chất văn
chương thiên bẩm. Xuất phát từ quan niệm nghệ thuật về con người, hình tượng
không - thời gian trong thơ Mai Văn Phấn có sự tổ chức hòa quyện tương ứng.
Không - thời gian nghệ thuật ở đây bảng lãng, phiêu bồng đan xen cả thực và hư;
quá khứ, hiện tại, tương lai luân chuyển vô cùng, vô tận. Không - thời gian nghệ
thuật trong thơ ông còn là không gian của sự chia cách và quá khứ, hiện tại hay
tương lai, có khi chỉ còn là vòng xoay của ảo giác con người. Không
gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính
chỉnh thể của nó. Không gian nghệ
thuật không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ
tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của
tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá
tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Vì
vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại. Thời gian
nghệ thuật là một phạm trù triết học, là đại lượng xác định quá trình hình
thành, vận động, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng trong hiện thực
khách quan. Cùng với không gian, thời gian là hình thức khẳng định sự tồn tại
của vật chất. Khi phản ánh cuộc sống, văn học đề cập đến thời gian như là nhân
tố cốt yếu để làm nên giá trị tác phẩm.
Có thể khẳng định một điều rằng, với chủ nghĩa hiện
sinh, Mai Văn Phấn đã có sự tư duy đa chiều ở chỗ ông đã phá vỡ giới hạn của
không gian và thời gian hiện tại để thiết lập những không gian mở. Nhà thơ đã từng
chia sẻ: Sự khác biệt giữa thơ tôi trước đây và bây giờ, như đã
nói, chính là cách thiết lập không gian và kết nối điểm nhìn. Có thể tạm ví
giai đoạn khởi đầu của thơ tôi là hình học phẳng, với những hình thể rõ nét, dễ
xác định. Chúng được mô phỏng, thậm chí sao chép lại các hiện tượng đời sống
rồi kết nối các thi ảnh bằng cảm xúc. Nhiều khi cảm xúc ấy chỉ tập trung vào
các thán ngữ, thán từ nên khi dịch sang ngôn ngữ khác, bài thơ đã không còn sức
nặng, không còn cái thần của nó như trong văn bản gốc. Giai đoạn gần đây tôi
chú trọng tạo dựng không gian đa chiều, đa điểm nhìn, mời gọi độc giả đồng sáng
tạo với mình trong một thế giới thơ riêng, tạo được thái độ bình đẳng, gợi mở,
không áp đặt độc giả khi tiếp nhận văn bản. Không gian đa chiều có khả năng kết
nối, làm đồng hiện các chiều không - thời gian, phục hoạt quá khứ, khiến nó cật
vấn hiện tại, đối thoại với tương lai. Trong không gian đa điểm nhìn này, thái
độ công dân, bản lĩnh nghệ sĩ, cũng như cái tôi nhà thơ được hiển lộ chân thực
nhất dưới những góc nhìn khách quan và đa chiều của người đọc. Tôi đã từng gặp
khó khăn khi mới tiếp cận thủ pháp này, bởi nếu biên độ tưởng tượng không mở
rộng, nội lực sáng tạo không đủ mạnh và cảm xúc chưa thật sự thăng hoa thì
người viết rất khó làm chủ được không gian rộng lớn đã mở ra với những hình ảnh
chuyển dịch đa phương, phức hợp, có lúc như không còn biên giới. Không
gian thơ đa chiều, đa điểm nhìn cũng tạo độ mở lớn cho người đọc khi tiếp cận
tác phẩm. Mỗi người đọc thường đến với bài thơ bằng kinh nghiệm, trải nghiệm
riêng và có thể cho ra nhiều kết quả khác biệt. Thời gian trong thơ Mai
Văn Phấn có sự chuyển biến từ thời gian đơn tuyến, không gian hình học phẳng
sang thời gian đa tuyến tính, không gian đa chiều qua các giai đoạn sáng tác.
Cách
thiết lập không gian thơ của Mai Văn Phấn hiện nay tương đối đồng điệu với
không gian thơ các tác giả đương đại ngoài nước. Do vậy, vấn đề cốt yếu với nhà
thơ là làm sao để thể hiện đậm nét căn tính Việt trong tác phẩm của mình. Theo
nhà thơ, căn tính Việt là bản đồ biên giới xác định thơ của chúng ta có bản sắc
khác với thơ các dân tộc khác. Nếu trong thơ thiếu căn tính này, có nghĩa các
nhà thơ đã đánh mất danh tính, giá trị khác biệt cần có. Các nhà thơ hậu hiện đại
nói chung, Mai Văn Phấn nói riêng có cái nhìn mới mẻ về hiện thực. Hiện thực
không chỉ là cái mà con người có thể nhìn thấy và hợp quy luật mà nó còn bao
hàm cả những gì con người không thể nhìn thấy, không thể giải thích kể cả đời
sống tâm linh, những giấc mơ huyễn hoặc. Mỗi trang thơ của Mai Văn Phấn gắn với
một không gian nhất định, tùy thuộc vào cảm xúc, tâm trạng mà không gian ấy
được khai thác khác nhau mang dụng ý nghệ thuật của tác giả. Mai Văn Phấn quan
niệm cuộc sống là một mớ hỗn độn, đầy rẫy bất an cho nên khi miêu tả con người
trong cuộc sống đó, ông đã xây dựng một kiểu không gian tương ứng đó là không
gian đa chiều, biến ảo. Mỗi trang thơ của Mai Văn Phấn là một mảnh ghép. Tất cả
những mảnh ghép đó tập hợp lại phản ánh đầy đủ mọi mặt của cuộc sống. Khoảng
không gian hiện lên trong thơ ông là không gian đứt nối, không tạo tính liên
tục, nó như một bức tranh lập thể đa chiều, phân mảnh, lắp ghép các mảng màu mà
người họa sĩ đã và đang tạo nên. Không gian hiện lên trong thơ ông có khi đó
chỉ trong phạm vi của một căn phòng nhỏ:
Con
ong bay vào phòng
bằng
nhựa hay bằng gỗ
nham
nhở dơ trên mình những vết cắt dở dang
đúng
nó đã bay
tiếng
vỗ cánh êm ru hoàn hảo
(Không
thể tin)
Nhưng
cũng có khi không gian đó mở rộng ra trong phạm vi rộng, vượt xa khái niệm
vùng miền. Mai Văn Phấn đưa chúng ta đi khám phá hết mọi ngóc
ngách của cuộc sống. Mỗi bài thơ là mỗi mảnh ghép giúp chúng ta có cái
nhìn bao quát, tổng thể về thế giới xung quanh:
Đêm
nay
Rắn
rết, bọ cạp tràn vào thành phố
Nhưng
đừng sợ!
Nhà
nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt
Trời
tối không ai ra đường
(Còn
cậu hãy đứng đằng kia)
Trong
thơ Mai Văn Phấn, người đọc nhiều khi bị day dứt, ám ảnh bởi những khoảng không
gian mới lạ, đó là không gian của những “giấc mơ”, “ý nghĩ”. Mỗi giấc mơ là một
mảnh ghép để từ đó thể hện ước mơ, khát vọng của con người về cuộc sống:
Con
chó mơ:
thức
giậy trong nắng sớm
quen
hơi những khách qua đường
không
cần xồ ra và sủa giận dữ
không
bị khinh rẻ đánh đập
thức
ăn quen đã bày
Tôi
mơ:
đêm
ngủ không cần khóa cửa
ra
đường chẳng ai lừa mình
họ
nghĩ sao nói vậy
thoáng
món ăn ngon và nắng đẹp
thật
tội nghiệp con chó
Nước
mắt làm tôi tỉnh dậy
Nỗi
đau cuộn sóng bạc đầu.
(Nếu)
Trong
cơn mơ con chó đã tưởng tượng đến một cuộc sống tươi đẹp đó là mỗi sớm mai thức
dậy đón
ánh bình minh trong êm đềm, yên ả. Nó không phải xồ ra giận giữ với những con
người xa lạ, có ý đồ xấu đang rình rập. Con chó cũng đã nghĩ đến cảnh tượng khi
nó thức giấc thì những món ăn nó thích đã được bày dọn sẵn và nó cũng sẽ không
bị đánh đập khinh rẻ như mọi khi. Con người cũng mơ về một cuộc sống yên bình,
con người sống với nhau không lọc lừa gian dối để khi ra đường không ai lừa
mình, để đêm ngủ không cần khóa cửa mà vẫn yên tâm. Và cuộc sống sẽ càng tươi
đẹp hơn khi được tận hưởng những món ăn ngon, những ngày nắng đẹp. Nhưng giấc
mơ chỉ là mơ. Mơ thì tươi đẹp mà tỉnh dậy thì cuộc sống thực của nó thật phũ
phàng. Hiện tại cuộc sống vẫn đen tối, nỗi đau vẫn không ngừng cuộn sóng.
Thế
giới trong thơ Mai Văn Phấn còn hiện lên trong không gian hư ảo của giấc mơ,
không gian đầy mộng mị, siêu thực của bóng người, bóng con vật, bóng đồ vật... Ví
như:
Bóng
ta không còn phân vân trên vách liếp muốn lưu giữ hư danh và sủng ái mơ hồ.
Bóng minh bạch trên mặt gương, trên tường vôi, đá ốp, trong tơ nhện vô tình
ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ non.
Ta
theo bóng những cây cầu bắc qua sông lờ lững, qua trễ nải lo âu của hoa cỏ đôi
bờ, qua cái miệng xoáy nước ngây thơ chưa biết nói, qua hồn người chết đuối
không biết bơi.
Còn bóng
ai in trên quả chuông, loa kèn, tang trống. Nơi ấy Phật-Thích-Ca và Chúa Giê-Su
cộng hưởng, làm sự im lặng cũng nhấp nhô chuyện trò trong khoảng rỗng ban mai.
Sinh
ra từ ngọn lửa và ánh sáng, bóng chạy theo mình, cái có có không không duy nhất
mắt ta nhìn thấy được
(Chương
III: Cộng hưởng I - Người cùng thời)
Bên
cạnh không gian hiện thực mô tả thực tại cuộc sống, không gian tâm tưởng là
niềm tin, ước vọng về tương lai. Trong thơ Mai Văn Phấn còn xuất hiện không
gian thực ảo đan xen, tạo ra hiệu ứng về một xã hội khó đoán định, đưa đến cái
nhìn đa chiều về đời sống, gợi cảm giác bất an trước sự đổ vỡ của trật tự xã
hội. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật đắc địa trong việc thể hiện tư tưởng
cũng như quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ trước hiện thực cuộc
sống. Không gian thực là không gian mà trong thời điểm hiện tại con người đang
sống, chịu sự chi phối và không thể tách ra được. Còn không gian ảo là do tưởng
tượng, liên tưởng, suy tưởng đẩy đến một miền không gian khác nhằm thoát khỏi
hiện tại. Không gian thực - ảo đan xen làm cho người tiếp cận mơ hồ, khó đoán
định:
Trăng
đã về bên kia
Phủ
lên những nụ hôn khác
Màn
sương, mùi cỏ khác
Nơi ấy
một dòng kênh
Bóng
con thuyền nhỏ qua cầu
Bờ đá
nằm im nghe mồ hôi lạ
Giọt
giọt trăng khuya
(Mùa
trăng)
Trong
đoạn thơ trên, hình tượng trăng xuất hiện trong một không gian mơ hồ, không xác
định: “trăng đã về bên kia”. “Bên kia” là ở đâu? Bên kia là ở đâu chưa biết,
nhưng ở đây nó đặt trong sự tương quan đối sánh với bên này. Nghĩa là giờ đây
trăng không còn ở đây nữa. Nó đã “phủ lên những nụ hôn khác/ màn sương, mùi cỏ
khác”. Bên này - bên kia rồi lại bên kia - bên này. Thực ảo cứ thế đan xen lẫn
lộn khiến người đọc, người nghe có cảm giác mơ hồ với thực tại. Hơn thế, không
gian thơ Mai Văn Phấn luôn hiện hữu bằng những cú va đập mạnh, làm người đọc
giật mình, có khi hoảng hốt vì những ngôn từ, hình ảnh xuất hiện bất ngờ nằm
ngoài sức tưởng tượng thông thường. Những hình ảnh siêu thực kiểu “Ta
hay con kén đang nằm trên nong” rồi “bầu trời tựa cái chén không”
hay “hồn mình dựa chốn mong manh”... đã trỗi lên ngay từ khúc dạo
đầu của thơ ông trong những vần lục bát uyển chuyển. Trong những thi phẩm thơ
mang hơi hướng tự do như trong Màu xanh, thi sĩ đã kiến tạo nên
những hình ảnh tưởng tượng mới mẻ báo hiệu những kì diệu của sự sống, của bao
điều tốt đẹp trong không gian trong trẻo, tươi mát của cuộc đời:
Trái
đất - Căn nhà hộ sinh
Tiếng
trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh những dòng
mật
mã...
(Màu xanh)
Mai
Văn Phấn đã thật sự thành công trong việc xây dựng không gian nghệ thuật để
truyền tải, gửi gắm những thông điệp của mình về cuộc sống. Kiểu không gian đa
chiều biến ảo đó đưa lại cho người đọc một cái nhìn đa chiều về cuộc sống.
Trong không gian đó, Mai Văn Phấn đã tái hiện một cách rõ nét những bức tranh
đời sống thường nhật, có mảng sáng, mảng tối, có hiện tại, quá khứ và cả tương
lai. Chính không gian ấy mang đậm dấu ấn hiện sinh rõ nét của tác giả.
Bên
cạnh đó, thời gian trong thơ Mai Văn Phấn như một phương thức tồn tại của
thế giới nghệ thuật. Nó có vai trò quan trọng trong việc tái tạo thực tại nghệ
thuật, thông qua nội dung và hình thức tác phẩm để khám phá thế giới và con
người theo cách riêng của thơ. Nó vừa là khách thể vừa là chủ thể, vừa là
phương tiện phản ánh. Thời gian trong thơ ông còn chịu sự chi phối bởi tư tưởng
triết học, mỹ học của thời đại, dân tộc, của riêng tác giả. Nó không giống với
thời gian khách quan, ngay cả khi ông muốn diễn tả một sự kiện trong thời gian
một chiều, thì quy trình vận hành của nó cũng không trùng khít với thời gian tự
nhiên mà luôn đi theo tâm trạng của tác giả trước sự biến chuyển của sự vật.
Cách thể hiện thời gian nghệ thuật của ông vì thế mang tính cảm xúc và ý nghĩa
nhân sinh, quan niệm nhân văn, tính chủ động trong sáng tạo của tác giả, góp
phần giúp người đọc hiểu rõ hơn về bản chất thực tại đối với con người. Thời gian trong quan niệm của nhà văn được tư duy
ở rất nhiều khía cạnh khác thời gian vật lí. Nó không còn là dòng chảy một
chiều hướng về phía trước, mà nó còn là mối lo âu, trăn trở về cuộc đời, do đó
có sự đảo ngược, xáo trộn. Thời gian nghệ thuật có thể quay về quá khứ, có thể
bay vượt tới tương lai và có thể kéo dài trong chốc lát thành vô tận. Thời gian
nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kì lịch
sử, từng giai đoạn phát triển, nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả
về phương thức tồn tại của con người trong thế giới. Nếu trước đây thời
gian tuyến tính từng chiếm giữ vị trí độc tôn trong thơ ca kháng chiến, thơ ca
cách mạng “đường thiên lí càng đi càng rộng”, “những ngày tôi sống ở đây là đẹp
nhất”, ... thì nay trong thơ hiện đại, hậu hiện đại nói chung, đặc biệt trong thơ
Mai Văn Phấn thì thời gian ấy đã bị phá vỡ, đứt nối và đảo lộn, nó gắn bó với
cuộc sống hiện đại, mang hơi hướng của con người hiện đại hôm nay. Thời gian
phi tuyến tính, đứt nối, đảo lộn này gắn bó song hành cùng không gian đa chiều,
biến ảo làm nên diện mạo mới cho văn học. Thời gian đó đã tạo nên hiệu ứng về
một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối
quan hệ với hiện thực đời sống. Cái đứt nối, đảo lộn không chỉ dừng lại là tính
chất của một trò chơi cấu trúc văn bản được lạ hóa, gây chú ý cho người đọc,
thay đổi sự tập trung hoặc phi tập trung, mà nó còn tạo ra cho tác phẩm nhiều
khoảng vắng, từ đó vẫy gọi người đọc đồng sáng tạo cùng tác giả. Trong những
trang thơ của Mai Văn Phấn, thời gian hiện lên không chỉ trong một thời điểm
nhất định mà nó có sự đan xen hòa quyện giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai. Điều đó cũng rất dễ hiểu bởi nhà thơ Mai Văn Phấn luôn
nghĩ con người ta sống không thể tách rời quá khứ “Dĩ vãng quanh ta
rưng rưng sương khói”. Với dân tộc cũng vậy “Lịch sử cùng cuộn chảy
với bao mạch ngầm tha thiết ngàn sau”... Cho nên, muốn có khả năng đi
tới không thể không trang bị cho mình khả năng nhìn lại. Trong trường ca Người
cùng thời Mai Văn Phấn thể hiện rất rõ cảm thức của
mình về hoài niệm quá khứ. Đó là một quá khứ bi tráng của dân
tộc:
Hình
Tổ quốc nghìn năm đóng đinh vào kí ức
Mang nét
vẽ dáng tổ tiên ta đội nón đứng bên trời
Giờ Tổ
quốc cùng tôi mỗi buổi sớm lại tưng bừng tái hiện
Mang
khuôn mặt mình thời mọc tóc thay răng
(Người
cùng thời)
Hay:
Trong
lời hịch năm xưa lóe lên binh khí
Xương
cốt cha ông chôn bên xác quân thù
Những
câu thơ chờ ta hôm nay vuốt mắt
Cọc
sông Bạch Đằng đã nhổ hết chưa?
(Người
cùng thời)
Đứng ở
thời điểm hiện tại nhưng nhà thơ luôn hoài niệm về một thời quá khứ vàng son đã
qua. Thời khắc đó đã qua từ rất lâu “nghìn năm” nhưng nó vẫn hằn sâu “đóng đinh
vào kí ức”. Ông cha ta xưa đã cố gắng bao nhiêu mới có được tổ quốc ngày hôm
nay. Thời gian là một sự vận động vô thủy vô chung của luân hồi và
nghiệp báo. Con người ngụp lặn, khổ đau trong những chu lưu đó với vô lượng
kiếp. Mỗi kiếp là một chu kỳ sinh, lão, bệnh, tử. Kiếp này tạo nhân, kiếp sau
thọ quả, có khi nhân quả cùng thời trong một kiếp. Thời gian của một đời người
chỉ là một sát-na trong dòng chảy sinh tử luân hồi. Con người cứ thế ngây thơ
bị thời gian cuốn trôi mãi với các nghiệp chướng. Với Mai Văn Phấn, thời
gian hoài niệm về quá khứ luôn là khoảnh khắc tâm tưởng có sức cuốn hút mạnh
mẽ. Những hồi ức ấy được bắt đầu từ thời điểm hiện tại, xuất hiện khi tác giả
chiêm nghiệm, suy ngẫm hay bắt gặp một sự vật, hiện tượng nào đó trước mắt,
hoặc thậm chí nó có mặt trong cảm xúc suy nghĩ miên man, vô định:
Xưa
có con tim nào hóa đá
Để
một ngày cho đá hóa con tim
Để
bàn chân ta sáng lên ngọn lửa
Thắp
lên phần cháy dở đêm qua
(Người
cùng thời)
Thời gian
và sự biến đổi của vũ trụ, của thế giới luôn là vấn đề quan trọng được các thi
sĩ quan tâm. Trong hành trình đi tìm những giá trị mới lạ, các thi sĩ thường bị
ngăn cách với thời gian, với thế giới về mặt ý hướng, mục đích và sự hiểu biết.
Bức tường ngăn cách bất khả thấu của thời gian vừa thử thách họ, vừa gọi mời họ
đối thoại, vừa khuyến khích họ tìm cách vượt qua. Thời gian với nhà thơ Mai Văn
Phấn không chỉ là thực tại khách quan mà còn là sự hiện diện của một
thứ quyền uy huyền bí vượt trên mọi danh xưng hiện hữu. Nỗi sợ phải chết, nỗi
cô đơn và bất lực của con người trước quy luật thời gian luôn song hành với con
người trong khát vọng trở thành bất tử. Kể cả khi chết đi rồi con người vẫn
chưa thôi trực tiếp đối mặt với những đau thương ai oán của thời gian kiếp
người. Nhà thơ tự do sống trong thời gian sáng tạo nhưng thời gian của vũ trụ
vẫn cứ phải luôn tồn sinh bên cạnh họ.
Thời
gian “đêm” cũng là tuyến thời gian được Mai Văn Phấn đưa vào trong thơ với tần
suất lớn. Đêm xuống là thời khắc con người sống thật với bản chất của mình, thời
gian đó mở ra một khoảng không gian bất tận và sâu thẳm:
Những
đêm không sao như còn đây
Tôi bị
kéo căng giữa những tiếng đay nghiến của bà và mẹ
Chuyện
áo cơm leo lét dầu đèn...
Thời
bom đạn bình minh như bát vỡ
Tôi ôm
chiếc bát của bóng đêm ăn dở
Thành
lực điền đối diện với hoàng hôn
(Hát
giữa hai mùa)
Hay:
Úp mặt
vào bóng tối lùm cây
Gió
đang chạy trên lưng mình những bước chân đô thị
Bóng
tối dẫn tôi về ngôi nhà của mẹ
Ngôi
nhà như chiếc bánh không nhân
(Nhật
kí đô thị hóa)
Thời
gian trong thơ Mai Văn Phấn có khi còn được mặc định bằng mùa. Mỗi mùa gắn với
những sự vật, hiện tượng khác nhau mà khi nghe đến sẽ gợi ta nhớ về. Xuân đến
với bóng hoa đào, với cây nêu trước ngõ:
Xuân
Ngấm
đất
Đào
xuống gặp toàn năm cũ
(Trồng
cây nêu trước nhà)
Xuân
đến không chỉ với bóng hoa đào, hoa mai, với cây nêu trước ngõ. Thi sĩ đã tô
điểm cho vườn xuân thêm tươi như: Rượu xuân, Gió xuân, Cuối xuân đầu
hè, Nước mùa xuân, Dấu hiệu mùa xuân, Mười bài tập mùa xuân, Đêm lập
xuân, Mùa xuân, Giai điệu xuân, Gặp mùa xuân, Đầu năm, Đêm đầu năm, Lập xuân,
Đón giao thừa, Sáng mồng một, Ngày đầu năm, Giữa xuân, Vẫn còn tết, Nắng xuân,
Khát vọng đầu năm, Cuối tháng giêng, Mưa xuân tới, Mùa, Sáng xuân, Xuân còn
trong đất, Mưa đầu mùa, Mưa xuân, Cuối xuân, Đêm giao mùa, Xuân tràn, Xuân đi,
Tháng Giêng, Tắm đầu xuân...
Hạ về khi
sen nở khắp hồ:
Gió
Hương
sen
(Đỉnh
núi cao)
Hạ đến với tiếng ve kêu báo
hiệu, tiếng gà gáy giữa trưa hè, những tia nắng chói
chang, những quả bàng chín đượm: Mưa
cuối hạ, Sáng mùa hè, Mùa hạ rất gần, Ngày nóng nực, Giữa hạ, Nắng lên cao,
Ngày hè, Trời nắng nhìn ra vườn, Thay mùa, Tiếng trưa, Mùa nhãn chín, Quả bàng
chín trong đêm,...
Và thu đến
khi trái hồng vừa chín đỏ:
Bóc
trái hồng
Vừa
chín
Sợ
người thỉnh chuông
(Thu
đến)
Mùa thu là mùa đẹp nhất
trong năm. Thu như người bạn tình đỏng đảnh, thu mang đến nguồn cảm
hứng bất tận cho thi sĩ Mai Văn Phấn, để rồi chàng thi sĩ họ Mai
đã phóng bút, bắt vần viết nên những bài thơ hay: Thu
chậm, Bầu trời thu, Hạt mưa thu, Trưa mùa thu, Nắng tháng Tám, Thu chín, Cuối
thu, Thu, Nắng cuối thu, Trung thu năm nay, Tiễn mùa thu,Thu qua,Chớm đông,
Trời trở lạnh, Gió mùa về, Trong sương mù, Khúc cảm mùa thu, Gom nhặt cuối mùa,
Thoáng thu, Thu về, Nỗi nhớ mùa thu, Ký sự mùa thu, Đầu thu, Nhịp thu về,
Quyền lực mùa thu, Những bông hoa mùa thu, Thu đến, Ngày thu ở nước Nga, Sắp
hết thu, Sang thu, Sáng lập thu, Cảm giác mùa thu, Thu đầy...
Và
đông đến
báo hiệu bằng những trận gió se se lạnh. Đông
như người bạn ấp ủ niềm yêu thầm kín với con người: Mùa
đông đến, Đêm đông, Giữa mùa đông, Sáng mùa đông, Đêm lạnh, Gió
đông,...
Đắp
chăn
Sót
lại đám lá
Run
rẩy ngoài cửa
sổ
(Trời
rét)
Không
chỉ trực tiếp dùng từ chỉ thời gian ngay ở tiêu đề, Mai Văn Phấn còn vận dụng rất
khéo các kiểu từ loại khác có tính kí hiệu mô tả thời gian như: mặt trời,
trăng, tờ lịch, bông cúc trắng, mùa lá rụng, hoa sen, sen tàn, tàn phai,
kiếp, phai nhạt, cá...
Chiếc
lá mùa xuân
Rơi
Trúng
mùa hè
(Đích)
Chiếc
lá mùa xuân rơi đón mùa hè sắp tới, chiếc lá thu rụng xuống báo hiệu mùa đông
sắp về. Dù không diễn đạt trực tiếp nhưng những tín hiệu đó đã cho ta thấy rõ
bước đi của thời gian:
Gió
thu
Giữ
mãi
Mới
thả xuống đất
(Lá
rụng)
Thời
gian phi tuyến tính, không theo một trật tự nào mà đứt nối, đảo lộn đã tạo nên
hiệu ứng về một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người
trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Kiểu thời gian này đã làm nên đặc
trưng riêng mang tên Mai Văn Phấn. Coi hiện tại là quý giá, Mai Văn Phấn đôi lúc như vội vã, cuống quýt
trước thời gian. Không vồ vập, giục giã như Xuân Diệu để rồi đôi lúc bỏ quên
những điều quý giá trong cuộc đời mà tiếc nuối không nguôi: “Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ/ Em ơi
em, tình non sắp già rồi”. Thời gian trong thơ Mai Văn
Phấn không chỉ gắn với một khối thống nhất, tĩnh tại, tuần hoàn, lặp đi lặp lại
của thế giới, mà còn được kiến tạo lại với ý thức phải tách mình ra như một cá
thể sáng tạo độc lập, có tiếng nói, cảm nhận riêng, có phương pháp biểu đạt
riêng. Thời gian có sự tách biệt qua các phân kỳ, giai đoạn, có sự không đồng
nhất giữa con người và vũ trụ. Thời gian vũ trụ chỉ có bốn mùa, thời gian con
người biến đổi theo bản năng sống mong muốn luôn được kéo dài thêm. Mai Văn
Phấn không cố ý kéo dài thời gian sống sinh học theo ham muốn thực thể sống,
ông cố tình lồng ghép vào trong mỗi bài thơ ý thức về thời gian sáng tạo. Ông
đối thoại với thời gian, thể hiện sự biết rõ về nó, tìm cách sống nhiều hơn
thời gian, nhiều hơn cả không gian theo xúc cảm tâm - linh - hồn của ông. Đọc
thơ ông vì thế có thể nhận thấy một sự vật quen thuộc nào đó như chiếc
lá, quả hồng, con mèo, con quạ... luôn được ông nối kết với thời gian sống
chung của vũ trụ, trong mối tương thông giữa các dân tộc qua bàn tay của người thợ
cao tay ngôn ngữ. Ông biết nhìn thời gian hiện hữu như một đứa trẻ ngây thơ
luôn có mặt bên cạnh một người lớn khổng lồ, đó là sự tồn vong, hiện hữu của
thế giới, của trái đất, của gia đình chung nhân loại. Chính vì vậy, thời gian
trong thơ ông không chỉ là thời gian đặc trưng của lãnh thổ nằm trong vùng
nhiệt đới Việt nữa mà còn mang tinh thần của thời đại, có cội nguồn văn hóa cả
phương Đông lẫn phương Tây. Thời gian vì vậy mạnh mẽ sinh sôi ban đầu, rồi tàn
lụi theo quy luật và lại hứa hẹn sinh sôi, sống tiếp với các xu hướng đối
thoại, tranh luận không cần che giấu trong tâm thức hướng thiện của nhà thơ. (Tôi đau giấc mơ cây cỏ úa vàng, trút
xuống từng cơn thiếu máu. Lá khô đưa tôi về một thời mất máu, một thời khinh rẻ máu, một thời gian lận máu, một thời lợi dụng, tụng ca máu. Một vong linh không rõ giới tính
đu lên cuống một chiếc lá và xưng danh từng là giọt máu. Ngọn cây và con chim
sâu gần đó vội vã lắc đầu, rồi không tranh luận với vong linh ấy nữa - THỜI
TÁI CHẾ, Chương II: THẪM ĐỎ).
Trong triết lý hiện sinh của mình, J. P. Sartre cho rằng,
hữu thể là một thảm kịch, là phi lý, hư vô, con người luôn cô đơn và cái chết
luôn hiện diện. Vốn hiện sinh từ trong bản thể, Mai Văn Phấn đã sớm nhận ra sự
bi đát của kiếp người, sự ngắn ngủi của nó lẫn nỗi ám ảnh về những giới hạn. Như
nghệ thuật sắp xếp trong kiến trúc, hội họa, kết cấu của hầu hết các bài thơ “xô
lệch” như “dang dở” được thể hiện qua cách lắp ghép những mảnh sự kiện, khoảng
khắc thời gian rời rạc, phi ngữ nghĩa... nhìn qua tưởng như rất rời rạc, không
kết dính nhau. Nhưng đó là “hình thức mang tính nội dung”, những kết cấu biết
nói. Nó nhất quán trong một sự biểu đạt. Đó là một thế giới hiện thực qua cách
nhìn của nhà thơ. Thế giới hỗn độn, là một sự lắp ghép, những lát cắt hội tụ,
báo hiệu một đổ vỡ, suy kiệt. Những cái phi lý ấy là sự cảnh tỉnh cho con người
trước một cuộc sống bề bộn, ngổn ngang. Thực ra, bản chất đời sống là như thế.
Phi lý và hư vô, một mớ hỗn tạp của những điều không thể lý giải. Không đơn
giản là cái hiện hữu chúng ta thấy và nắm bắt bằng các giác quan thông thường
mà sau nó là một hiện thực khác. Nó là nó mà không phải là nó. Nguyễn Minh Châu
- “người mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học Việt Nam thời kì đổi
mới”, cũng đã có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc đời như thế. Cuộc sống là
một chuỗi những phi lý kết nối nhau tồn tại, chằng chịt những nghịch lý và con
người ta không có quyền nhìn cuộc đời một cách đơn giản. Đấy là tư duy triết
học. Ví như trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa”. Cái mà nhân vật Phùng tưởng là cái đẹp toàn bích hóa ra nó chẳng
có gì là đẹp. Điều mà anh ta cho là thân thiện, là đạo đức hóa ra là tội ác.
Người đàn bà vô học lại là người từng trải thấu hiểu mọi lẽ đời. Kẻ xông pha
trận mạc học hết sách vở trên giảng đường đại học, tự cho mình đã đi đến tận
cùng cuộc sống nên chẳng có gì là mình không biết hóa ra cũng chỉ như đứa trẻ
học vỡ lòng trước người đàn bà sắc sảo, thâm trầm trong cách nhìn đời, nhìn
người, một đứa trẻ muốn báo hiếu (bảo vệ mẹ) thì trở thành kẻ bất hiếu (đánh
cha); một người đàn ông vốn hiền lành yêu thương vợ thì lại trở thành kẻ vũ
phu…
Thời gian
trong thơ Mai Văn Phấn là dòng chảy mạnh mẽ, bất tấn, một hấp lực. Ông trải
nghiệm thời gian đúng nghĩa xét về mặt nghệ thuật cũng như trong đời sống thực
tiễn, như một người thợ cao tay ngôn ngữ không giống ai. Mỗi bài thơ mang hàm
nghĩa thời gian của Mai Văn Phấn như một cú gieo súc sắc về mặt hình thức bên
ngoài nhưng bên trong nó, xét về mặt bản chất thì đó là quá trình dịch chuyển
của thời gian từ đơn tuyến đến đa tuyến. Trong trò chơi của ông, hoàn toàn
không phải để khẳng định ngẫu nhiên, mà góp phần chia nhỏ trò chơi thành những
khả năng, tạo tiền đề cho cuộc sống con người. Vì thế, sẽ là vô ích khi tự hỏi
rằng liệu đây có phải là cách biểu đạt ý nghĩa thần học, triết học hay chỉ là
sự biện giải cho các hệ tư tưởng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn? Vì thơ xét về
khả năng tồn tại và sự tồn tại thực thể của ông không liên quan mấy đến sự tồn
tại hay không tồn tại của Chúa hay của Phật! Trò chơi của ông vì vậy mang tính nhân
loại. Nó cũng là một trong những phương pháp đề cập tới hai cách thức tồn tại
của con người. Các thế chơi phải lựa chọn này của Mai Văn Phấn gắn bó mật thiết
với những dấu hiệu của lý tưởng khổ hạnh ở con người! Và trong thực tiễn xã hội
đang cuống cuồng vì đời sống thực dụng, vì đồng tiền, thì làm thơ, chơi thơ
theo cách của thi sĩ tài năng này thật đáng nể trọng. Mai Văn Phấn có lí do khi
ông tham gia trò chơi này một cách kiên trì, nhẫn nại nhưng đầy đam mê kiêu
hãnh, đầy thử thách, như hòn đá thử vàng! Mai
Văn Phấn đã phản ánh hiện thực như chính bản chất của nó. Thơ ông như “khối
vuông Rubich”, đọc giả phải tìm ra từ những kết nối ngầm, những mảng hiện thực
đã bị xoay chiều, đảo ngược, vỡ vụn và xâm lấn lẫn nhau mới giải mã được những
kí hiệu nghệ thuật của tác giả. Nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn, người đọc phải
thâm nhập, bóc tách, giải mã chúng. Thơ ông chứa một thế giới phi lý, nghiệt
ngã, bất an. Một thế giới ngổn ngang, đầy những giới hạn. Một thế giới trống
rỗng, xác xơ… Thế giới ấy được giải phẫu bằng tư duy của một nhà thơ mang tâm
thức hiện đại, cách tân đó là “hiện thực nằm sau hiện thực”.
* * *
Từ
những tìm tòi ban đầu mang tính truyền thống, Mai Văn Phấn đã đi tới khuynh
hướng hiện đại và cả hậu hiện đại, nhưng dường như vẫn chưa dừng lại trong hành
trình thể nghiệm, kiếm tìm. Thế giới nghệ thuật thơ ông là một cấu trúc phức
tạp, đa diện, liên tục biến đổi. Đặc biệt, nhà thơ đã khá thành công khi tạo ra
sự khác biệt cho thơ mình bằng việc vận dụng tối đa hệ thống ngôn từ tạo sinh
nghĩa với đầy ắp những hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ và tượng trưng. Với phương châm
sáng tạo này, Mai Văn Phấn đã tạo ra được tính đa thanh, đa nghĩa, gợi mở cho
tác phẩm văn học và kêu gọi người đọc cùng đồng sáng tạo. Tuy đến với thi đàn
khá muộn nhưng Mai Văn Phấn không chỉ ghi được dấu ấn riêng ở lĩnh vực ngôn ngữ
thơ mà còn tạo ra được tính đa giọng điệu trong phong cách, trong thiết lập
không gian nghệ thuật riêng biệt. Không
gian ấy gây ấn tượng bởi sự nhất quán
trong quan niệm sáng tạo, tính toàn khối và khả năng kết nối với nhiều chiều
không - thời gian khác nhau. Không ngừng quyết liệt làm
mới mình để mỗi lần xuất hiện là một lần phải khác. Mai Văn Phấn đang đầy năng
lượng và tự tin trên hành trình “quẫy vào biển động” của mình.
KẾT LUẬN
Ở phương Tây, chiến tranh là một trong những tiền đề
làm nảy sinh chủ nghĩa hiện sinh, bởi nó khiến thể chất và tinh thần con người
bị chấn thương, xã hội bị đảo lộn. Ở Việt Nam thời hậu chiến, khi chiến tranh
lùi xa, những giá trị của con người được đề cao, nhận thức lại, đó là điều kiện
để người ta quay về với chủ nghĩa hiện sinh, quan tâm nhiều hơn đến triết lý hiện
sinh về con người nhân vị, về những giới hạn của cuộc sống. Thời bình, người ta
nghĩ nhiều về mình, trăn trở nhiều hơn về mục đích sống và cũng hoài nghi nhiều
hơn về sự đổ vỡ của những chuẩn mực mà trước đó từng tôn thờ. Ở Việt Nam, kì lạ
thay trong chiến tranh, con người không cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Bởi tinh thần
tập thể, ý thức cộng đồng, những giá trị lớn được đề cao. Nhưng khi bom đạn đã
ngừng rơi, những cuộc cách mạng đã im ắng, những cuộc chiến tranh đã thôi gào
thét, cũng là lúc tâm lý hiện sinh nảy nở, cảm thức cô đơn, lạc loài của một
“thế hệ mất mát” được hồi sinh. Xuất hiện nhiều hơn trong đời sống văn học với
quan điểm viết như là sự “trả nợ” cho quá khứ, tạo điều kiện cho những người
làm văn nghệ có cái nhìn cởi mở hơn đối với những vấn đề đã từng cực đoan trong
đánh giá nhìn nhận, trong đó có thuyết hiện sinh và văn học hiện sinh. Thực chất,
trong văn học Việt Nam đương đại, dấu ấn hiện sinh chủ yếu được thể hiện trong
văn xuôi. Cùng với các trào lưu văn xuôi hiện đại như Thuyết phân tâm học, Nữ
quyền luận, lý thuyết Hậu hiện đại…, thuyết hiện sinh đã góp phần tạo nên những
cách nhìn mới mẻ về con người ở nhiều cây bút như: Nguyễn Huy Thiệp, Bùi Giáng,
Trương Đăng Dung, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương, Vy Thùy
Linh, Phan Huyền Thư, Nguyệt Phạm… Mai Văn Phấn trong cuộc hạnh ngộ với chủ
nghĩa hiện sinh đã ghi tên tuổi của mình vào làng thơ bằng tất cả tình thương
yêu, tấm lòng của một con người mang bản sắc dân tộc Việt. Trải dài trong những
trang thơ, các tập thơ với dấu ấn hiện sinh đã trở thành một hiện tượng lạ của
thơ ca Việt Nam đương đại.
Mai Văn Phấn vốn là nhà thơ chịu ảnh hưởng của văn
hóa phương Tây thời trẻ tuổi, khi con người tràn đầy niềm yêu sống và nhạy bén
với cái mới, được tìm hiểu và tiếp thu những nền văn hóa lớn trên thế giới, tư
tưởng hiện sinh đã ít nhiều tác động đến ông. Dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai
Văn Phấn là sự ám ảnh khôn nguôi về thời gian, về nỗi cô đơn của kiếp người, về
sự tha hóa, bất an, đổ vỡ, lụi tàn, về sự băng hoại những giá trị truyền thống
của thế giới hiện đại. Thân phận con người là niềm trăn trở của bao thế hệ thi
nhân, nhưng Mai Văn Phấn đã có một cái nhìn khác. Đó không hẳn chỉ là nỗi xót
xa cho kiếp người ngắn ngủi. Nhà thơ đặt ra một vấn đề cao hơn về nỗi ngậm
ngùi, về thân phận trong cuộc sống ngắn ngủi ấy, con người phải sống ra sao, sống
như thế nào? Cái nhìn cuộc đời của ông đầy màu sắc hiện sinh nhưng vẫn thấm đẫm
triết lý sâu sắc về sự sống, về niềm hy vọng khôn nguôi, về một tương lai tốt đẹp,
bình đẳng, bác ái hơn hiện tại.
Trong tất cả những tập thơ, tác giả đã đặt ra những
vấn đề lớn lao như tình yêu con người và thiên nhiên, về sự công bằng, tự do,
lý giải quá khứ bằng nhãn quan riêng, nhận chân giá trị thực tại để hướng tới
tương lai nhưng không khoa trương. Không phải là những “tiếng nói ồn ào” mà ngược
lại nó như một lời nhắc nhở mỗi người một lối đi riêng đến mỗi tâm hồn. Trong
cuộc sống hiện đại với nhiều tư tưởng cá nhân và sự chai mòn cảm xúc, những vần
thơ của ông là những điểm đến của những giá trị mới, đến với những tâm hồn thao
thức, đến với những thân phận thua thiệt, khổ đau. Mỗi người khi đọc thơ ông, độc
giả như thấy mình được an ủi và che chở vì đã bắt gặp sự đồng điệu trong tâm hồn.
Đọc thơ Mai Văn Phấn để thức ngủ sự hữu hạn những giới hạn, từ đó biết mở rộng
thêm nhiều chiều kích của sự sống và biết sống “ngay cả khi cuộc đời không thể
chịu đựng được nữa”. PGS.TS. Đào Duy Hiệp đã từng nói: “Mai Văn Phấn đã cắm một
cột mốc thơ đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến
nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt.
Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành”. Những đứa con tinh thần của
Mai Văn Phấn ra đời được hiểu theo đúng tinh thần hiện sinh, thể hiện khao khát
cách tân nghệ thuật của người nghệ sĩ đầy tinh thần trách nhiệm. Mai Văn Phấn không
chỉ hiện sinh trong lối sống, cách nghĩ, cách viết, ông hiện sinh ngay từ ý thức
tìm tòi, quan niệm nghệ thuật. Con người hiện sinh vốn không chấp nhận sự trì đọng,
vươn lên, vượt thoát luôn là lẽ sống của họ. Vì thế, họ không ngại đơn độc một
mình đi về phía trước. Người nghệ sĩ ấy bất chấp những trở ngại trên con đường
nghệ thuật đầy chông gai, chấp nhận dấn thân trong hành trình sáng tạo, luôn giữ
vững tinh thần hiện sinh, dừng lại tức là lùi bước, vươn tới mới là sự tồn tại.
Cũng chính ý thức ráo riết về sự cách tân nghệ thuật
nên đôi lúc vẫn thấy những “hạt sạn” bên cạnh những “hạt ngọc”. Thơ Mai Văn Phấn
vẫn kén chọn đọc giả một phần vì sự mới lạ, những liên tưởng khá bất ngờ và đột
biến. Một số hình ảnh thơ trừu tượng, gây khó cho người tiếp nhận trong quá
trình giải mã tác phẩm. Có những câu thơ của ông nặng về triết lý nên có vẻ khô
khan, khó thuộc, khó nhớ. Với niềm say mê cách tân thơ, nhiều khi nhà thơ quá
sa đà vào việc thể nghiệm những cái mới nên thơ ông đôi lúc trở nên rối rắm,
khó hiểu. Bên cạnh đó, việc sử dụng dày đặc các hình ảnh ẩn dụ trong thơ cũng
gây trở ngại không nhỏ cho độc giả trong quá trình tiếp nhận. Nhà thơ Hữu Thỉnh
nhận định: "Thơ anh có nhiều thể nghiệm, quyết liệt cho cái mới. Vì ham thể
nghiệm, có chỗ chưa nhuyễn, có chỗ còn sượng và còn vướng nhiều phụ tùng quá.
Anh còn kể nhiều, thiếu ma lực, ít khi đạt được chót đỉnh những khái quát. Anh
thành công ở chiến thuật nhiều hơn ở chiến lược" [25, 588]. Tuy nhiên,
công bằng mà nói, điều đáng tiếc ấy cũng là một tất yếu đối với mọi nhà thơ.
Thơ Mai Văn Phấn luôn ẩn chứa một “niềm khao khát
yêu đời, yêu cuộc sống, trân trọng giá trị sống và biết sống có ý nghĩa”. Chính
nhà thơ đã bộc bạch: “Tôi luôn ý thức về những khả năng và giới hạn của thơ
cũng như những khả năng và giới hạn của đời sống con người. Ý thức về giới hạn
là cơ sở để chúng ta hy vọng về một sự vượt thoát của giới hạn”. Bằng sự kiếm
tìm táo bạo trong phong cách, Mai Văn Phấn đã phá vỡ những ranh giới vô hình giữa
bạn đọc và tác giả. Ông đã mang đến cho bạn đọc những khái niệm mới về không
gian nghệ thuật, về sự kết nối điểm nhìn, mở rộng thêm chiều kích của tư duy
ngôn ngữ. Ông hòa tâm hồn mình vào sự đồng điệu, đồng cảm của độc giả. Đó là sự
tri ân của nghệ thuật để vượt thoát giới hạn bằng sự sáng tạo, bằng những triết
lý nhân sinh sâu sắc, bằng “những điều không thể mất” mà ông đã gửi vào trong
những tập thơ của mình. Dấu ấn hiện sinh trong thơ Mai Văn Phấn còn là kết quả
tất yếu của một nhân cách văn hóa ở một nghệ sĩ đích thực, chấp nhận sống cô
đơn, xem đây như môt sự đề kháng lại những cái tầm thường, cái ác, cái xấu để
được sống là chính mình. Chính vì vậy, có thể nói, dấu ấn hiện sinh trong thơ
Mai Văn Phấn mang tính nhân văn sâu sắc của một “chủ nghĩa hiện sinh nhân bản”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu văn bản
[1]. Nguyễn Thị Bình (2003), “Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực
trong văn xuôi nước ta từ sau 1975”, Tạp chí Văn học, số 4.
[2]. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
[3]. Bích Chi (bút danh của Nguyễn Quang Thiều) (2006), Người đứng trước
những con sóng, An ninh thế giới (số 54).
[4]. Nguyễn Tiến Dũng, Võ Anh Tuấn (2015), “Một số vấn đề cần thống nhất
khi nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh”, Thông tin Khoa học xã hội số 7, Viện
thông tin.
[5]. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
[6]. Trần Thiện Đạo (2008), Từ chủ nghĩa hiện sinh tới thuyết cấu trúc,
NXB Tri thức.
[7]. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, Hà Nội.
[8]. Mai Thị Liên Giang (2015), Chủ thể tiếp nhận và lịch sử tiếp nhận
thơ Mới, NXB Hội nhà văn VN.
[9]. Mai Thị Liên Giang (2019), “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn”,
Tạp chí Dạy và Học ngày nay, kỳ 2 - 11/2019.
[10]. Ngô Hương Giang, Nguyễn Thanh Tâm (2015), Mai Văn Phấn và hành
trình thơ vào cõi khác, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[11]. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, Nxb Văn học,
Hà Nội.
[12]. Hồ Thế Hà (2018), Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân dung, NXB Hội nhà văn VN.
[13]. Hồ Thế Hà (2019), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Văn học.
[14]. Nguyễn Quang Hà (2012), Nghệ thuật cấu tứ trong thơ Mai Văn Phấn,
Đại học Thái Nguyên.
[15]. Nguyễn Quang Hà (2012), “Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai
Văn Phấn”, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
[16]. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh.
[17]. Bùi Bích Hạnh (2015), Thơ trẻ Việt Nam 1965-1975, khuôn mặt cái
tôi trữ tình, NXB Văn học, Hà Nội.
[18]. Trần Mạnh Hảo (1995), Thơ - phản thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
[19]. Lê Thị Hiền (2011), Cảm thức hiện sinh trong sáng tác của Nguyễn
Huy Thiệp, Luận văn thạc sĩ khoa học Văn học, Đại học Khoa học Huế.
[20]. Đỗ Đức Hiểu (1978), Phê phán văn học hiện sinh chủ nghĩa, NXB Văn
học, Hà Nội.
[21]. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[22]. Hoàng Thị Huế (2014), “Thơ Việt đương đại nhìn từ hành trình cách
tân”, Tạp chí khoa học Đại học Huế.
[23]. Bùi Công Hùng (1985), Những đặc trưng cơ bản của thơ Việt Nam hiện
đại (1945 - 1985), Tạp chí Văn học.
[24]. Trần Đình Hượu (1996), Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, Sách giáo khoa
Ngữ văn 12, Nxb Giáo duc, Hà Nội.
[25]. Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn
khác biệt và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011), NXB Hội
nhà văn, Hà Nội.
[26]. Mã Giang Lân (1995), Thơ Việt Nam 1945 - 1954, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[27]. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[28]. Phương Lựu (2013), Lí luận văn học (tập 3) Tiến trình văn học, NXB
Đại học Sư phạm, Hà Nội.
[29]. M.B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[30]. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[31]. Bùi Minh Nguyên - Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và
thể loại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[32]. Nhiều tác giả (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt
và thành công (Kỷ yếu Hội thảo thơ tại Hải Phòng 15/05/2011), Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
[33]. Mai Văn Phấn (1992) , Giọt nắng, NXB Hội Văn nghệ Hải Phòng
[34]. Mai Văn Phấn (2003), Cầu nguyện ban mai, NXB Hội nhà văn VN.
[35]. Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, NXB Hội nhà văn VN.
[36]. Mai Văn Phấn (2009), và đột nhiên gió thổi, NXB Hội nhà văn VN.
[37]. Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái che, NXB Hội nhà văn VN.
[38]. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả
lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn VN.
[39]. Mai Văn Phấn (2012), hoa giấu mặt, NXB Hội nhà văn VN.
[40]. Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, NXB Hội nhà văn VN.
[41]. Mai Văn Phấn (2015), thả, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[42]. Mai Văn Phấn (2018), Thời tái chế, NXB Hội nhà văn VN.
[43]. Chu Văn Sơn (2007), Thơ điệu hồn và cấu trúc, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[44]. Trần Đình Sử (2001), Những
thế giới nghệ thuật thơ, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[45]. Trần Đình Sử (2012), Một nền lí luận văn học hiện đại, NXB Đại học
Sư phạm.
[46]. Tham luận tại Hội thảo "Thơ và những vấn đề thơ đương đại",
do Hội Nhà văn VN tổ chức tại Hà Nội, 27/02/2018.
[47]. Hoài Thanh, Hoài Chân (1998), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
[48]. Thích Đức Thuận (1965), “Vào đạo Phật qua lối ngõ J.P. Sartre” Tạp
chí Vạn Hạnh, số 6, Sài Gòn.
[49]. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, NXB Hội nhà
văn VN.
[50]. Nguyễn Thị Quỳnh Trang (2019), Cảm thức hiện sinh trong thơ Trương
Đăng Dung, Luận văn thạc sĩ khoa học Văn học, Đại học Khoa học Huế.
[51]. G.s Lê Thành Trị (2014), Hiện tượng luận về hiện sinh, trung tâm học
liệu bộ văn hóa giáo dục và thanh niên 1974, Nxb Bộ giáo dục.
B. Tài liệu số
[52]. Trần Hoài Anh
(2014), Khuynh hướng hiện sinh trong thơ nữ Việt Nam thời kì đổi mới,
http://www.tapchisonghuong.com.vn/tintuc/p0/c7/n21334/khuynhhuonghiensinh-trong-tho-nu-Viet-Nam-thoi-ki-doi-moi
[53]. Hà Anh (2018), Khi
thơ ca không còn biên giới, http://baoquocte.vn/pgsts-truong-dang-dung-khi-tho-ca-khong-con-bien-gioi-76261.html
[54]. Huỳnh Thị Diễm Diễm
(2013), Dấu ấn hiện sinh trong thơ Bùi Giáng, https://www.tailieudaihoc.com.
[55]. Hồ Thế Hà, (2011),
Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn http://maivanphan.vn/maivanphan/32/398/789/1213/ve-lo-trinh-tho/tho-tao-sinh-nghia-mai-van-phan--phe-binh----ho-the-ha.aspx.
[56]. Lê Thị Ngọc Hà
(2019), Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn, http://maivanphan.vn.
[57]. Đào Duy Hiệp (2010),
“Cấu trúc ngôn ngữ và hình ảnh trong tập thơ và đột nhiên gió thổi” của Mai Văn
Phấn, Nguồn: http://www.vanchuongviet.org.
[58]. Hunters, (Cao Huỳnh
Luyh dịch, 2013), Đôi nét về chủ nghĩa hiện sinh.
http://triethoc.edu.vn/vi/truong-phai-triet-hoc/chu-nghia-hien-sinh/doi-net-ve-chu-nghia-hien-sinh_15.html
[59]. Trần Thiện Khanh
(2012), “Tản mạn về tứ và cấu tứ”,
phebinhvanhoc.com.vn.
[60]. Jean- Paul Satre,
(Nguyễn Phương Ngọc giới thiệu), Chủ nghĩa hiện sinh là một chủ nghĩa nhân bản.
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/chu-nghia-hien-sinh-la-mot-chu-nghia-nhan-ban
[61]. Cao Năm (2013), Nhà
thơ Mai Văn Phấn hiện thân của sự sáng tạo,
http://nhavantphcm.com.vn.
[62]. Hoàng Kim Ngọc
(2011), Đồng sáng tạo để giải mã văn bản thơ “hoa giấu mặt” của Mai Văn Phấn,
Vietvan.vn
[63]. Hoàng Thị Thanh Nhàn
(2014), Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại
học Vinh, maivanphan.com.
[64]. Mai Văn Phấn (2013),
“Không gian thơ”, http://maivanphan.vn
[65]. Mai Văn Phấn (2013),
“Vẻ đẹp quyền năng của thơ ca”,
http://maivanphan.vn
[66]. Dương Thị Phú
(2018), Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận văn thạc sĩ, Trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, maivanphan.com.
[67]. Vĩnh Phúc (2009),
“Mai Văn Phấn với Hôm sau và Đột nhiên gió thổi”,
http://doanvinhphuccr.vnweblogs.com.
[68]. Nguyễn Thị Bích Phụng
(2013), Cảm thức hiện sinh trong tập thơ “hoa giấu mặt” của Mai Văn Phấn.
http://maivanphan.vn/Default.aspx?sname=MaiVanPhan&sid=32&pageid=398&pagekeyword=Detail&catid=790&id=3697&catname=Ve-cac-tap-tho&title=Cam-thuc-hien-sinh-trong-tap-tho--hoa-giau-mat---cua-Mai-Van-Phan--phe-binh----Nguyen-Thi-Bich-Phung
[69]. Lương Kim Phương
(2014), “Thơ Mai Văn Phấn tái sinh trong ánh sáng”, http://mai vanphan.vn
[70]. Ngọc Phượng (2018),
Kafka và hành trình đến với Việt Nam.
http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=78&NewsId=403588
[71]. Lê Hồ Quang (2014),
"Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn",
http://maivanphan.vn.
[72]. Lê Hồ Quang (2014),
“Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó”,
http://maivanphan.vn
[73]. Trần Anh Thái
(2005), “Thơ ca như một thứ tôn giáo”, http://www.evan.com.vn
[74]. Vũ Thị Thảo (2012 ),
Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Đà Nẵng,
http://maivanphan.com
[75]. Đặng Thân (2013),
“Mai Văn Phấn và công nghệ cách tân thơ”, maivanphan.vn.
[76]. Nguyễn Thành Thi
(2011), Ám ảnh hiện sinh trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
http://www.sachhay.org/diem-sach/ChiTiet/2041/am-anh-hien-sinh-trong-truyen-ngan-Nguyen-Huy-Thiep.
[77]. Nguyễn Ngọc Thiện
(2013), Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai
Văn Phấn, http://maivanphan.com
[78]. Trần Nhật Thu
(2016), Cảm thức hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến 2010, Luận án
tiến sĩ, Trường Đại học khoa học Huế
https://www.slideshare.net/trongthuy1/luan-an-cam-thuc-hien-sinh-trong-truyen-ngan-viet-nam-1986-n-2010
[79]. Tiểu luận của Đỗ Lai
Thuý: Mai Văn Phấn - thơ lập phương +
https://vanvn.vn/tieu-luan-cua-do-lai-thuy-mai-van-phan-tho-lap-phuong/
[80]. Đỗ Lai Thuý (2004),
“Andre Breton và chủ nghĩa siêu thực”, http://giaitri.vnexpress.net/tintuc
[81]. Nguyễn Thị Thùy
Trang (2015), Dấu ấn chủ nghĩa siêu thực trong thơ Mai Văn Phấn,
http://maivanphan.com
[82]. Phạm Quang Trung
(2001), “Nghĩ từ Những ngón tay dị dạng của Đặng Huy Giang”, Báo Người Hà Nội.
[83]. Nguyễn Thanh Tuân
(2005), “Trương Đăng Dung từ đời sống qua khoa học đến nghệ thuật”,
http://vannghedanang.org.vn/news/view/truong-dang-dung-tu-doi-song-qua
[84]. Nguyễn Thanh Tuấn
(2006), “Sáng tạo là một cuộc vong thân”
https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=3643
[85]. Đặng Thị Phượng Vĩ
(2015), Văn xuôi Vũ Đình Giang - tính chất đa giọng điệu, http://bichkhe.org.
[86]. Lê Vũ (2009), “Bài học
& phong cách hậu hiện đại”,
http://damau.org, truy cập
ngày 30/ 11/ 2018.
[87]. Lê Vũ (2011), “Bầu
trời không mái che của Mai Văn Phấn”
Nguồn http://doanvinhphuccr.vnweblogs.com, truy cập ngày 30/11/2018.