A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thơ ca Việt Nam đương đại là một bức tranh đa sắc, liên tục dịch chuyển và
không ngừng tìm tòi những con đường biểu đạt mới mẻ, phá vỡ những khuôn mẫu cũ
để phản ánh chân thực nhịp sống và tư duy của thời đại. Trong bối cảnh năng động
ấy, sự xuất hiện và định hình của thể loại thơ ba câu – một dạng thức thơ ngắn
gọn, súc tích, chịu ảnh hưởng từ cấu trúc của haiku Nhật Bản nhưng đã được các
nhà thơ Việt Nam tiếp biến và sáng tạo nên bản sắc riêng – đã trở thành một hiện
tượng thi ca đáng chú ý. Thể loại này đặt ra những thách thức và đồng thời mở
ra những khả năng biểu đạt độc đáo, đòi hỏi người sáng tác phải cô đọng tối đa
cảm xúc và ý tưởng chỉ trong ba dòng thơ ít ỏi. Sự xuất hiện của thơ ba câu đáp
ứng một nhu cầu thẩm mỹ và biểu đạt mới. Trong nhịp sống hiện đại hối hả, thơ
ba câu với dung lượng cực kỳ giới hạn (chỉ ba dòng) buộc nhà thơ phải chắt lọc
tối đa ngôn từ, hình ảnh và cảm xúc. Nó đòi hỏi một tư duy thơ cô đọng, khả
năng nắm bắt và cô kết khoảnh khắc, tạo ra những cú "chạm" bất ngờ
vào tâm thức người đọc. Chính sự ngắn gọn này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng,
khác biệt với sự dàn trải của thơ tự do hay khuôn khổ của thơ truyền thống. Tuy
nhiên, so với các thể loại truyền thống hay thơ tự do dài hơn, thơ ba câu vẫn
là một lĩnh vực tương đối mới mẻ và cần được nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa về đặc
điểm thi pháp, cấu trúc, dung lượng biểu đạt, cũng như sự tiếp nhận và ảnh hưởng
của nó trong đời sống văn học hiện tại.
Trong dòng chảy thơ ca
đương đại đầy sôi động ấy, Mai Văn Phấn nổi lên như một giọng thơ tiêu biểu,
giàu sức sáng tạo và luôn tìm tòi những thể nghiệm mới mẻ. Ông không chỉ khẳng
định vị thế của mình qua các tập thơ với dung lượng dài mà còn là một trong
những nhà thơ có nhiều tìm tòi và thành công với thể loại thơ ba câu. Thơ ba
câu của Mai Văn Phấn mang đậm dấu ấn cá nhân, vừa kế thừa tinh thần cô đọng của
thể thơ truyền thống, vừa mở ra những không gian liên tưởng hiện đại, giàu chất
suy tưởng.
Khi tiếp cận với thế
giới thơ ba câu của Mai Văn Phấn, người đọc dễ dàng nhận thấy "cảm thức
thời gian" là một điểm nhấn nổi bật, xuyên suốt và mang nhiều tầng nghĩa.
Thời gian trong thơ ông không chỉ là dòng chảy tuyến tính của quá khứ - hiện
tại - tương lai, mà còn là sự lắng đọng, là khoảnh khắc giao thoa, là sự tương
tác giữa hữu hạn và vô hạn, giữa cá nhân và vũ trụ. Cảm thức thời gian này được
thể hiện qua những hình ảnh, biểu tượng, và cách tổ chức ngôn ngữ đặc trưng
trong vỏ bọc cô đọng của thể thơ ba câu.
Xuất phát từ những nhận
định trên, ta nhận thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu một hiện tượng thơ
đương đại và một khía cạnh đặc sắc trong sáng tác của nhà thơ Mai Văn Phấn, em
đã quyết định lựa chọn đề tài: "Cảm thức thời gian trong thơ ba câu
Mai Văn Phấn" để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Việc nghiên cứu đề tài
này không chỉ góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh độc đáo trong thi pháp Mai Văn
Phấn, đặc biệt là trong thể loại thơ ba câu, mà còn đóng góp vào việc nghiên
cứu về cảm thức thời gian - một chủ đề lớn trong văn học nói chung và thơ ca
đương đại Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên cứu có thể cung cấp thêm tư liệu
tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn cũng
như thể loại thơ ba câu trong nhà trường và các công trình nghiên cứu văn học
khác.
2. Lịch sử vấn đề
Mai Văn Phấn là một trong những nhà
thơ tiêu biểu sau 1975, thuộc thế hệ người trải qua giai đoạn gian khổ của chiến
tranh bên cạnh những nhà thơ như Trương Đăng Dung, Hồ Thế Hà, Giáng Vân, Hoàng
Vũ Thuật, Đoàn Thị Lam Quyến,…Họ sống cống hiến cho nghệ thuật nước nhà chứng
kiến tàn tích của chiến tranh gây ra bên trong họ mang những ám ảnh tâm lý về sự
sống và cái chết chính điều đó cũng được bộc lộ trong sáng tác qua phương diện
khắc hoạ thời gian. Từ trước đến nay đã có nhiều bài tiểu luận, luận văn,
nghiên cứu, tham luận đánh giá vị trí và tầm quan trọng của thơ ông trong diễn
dàn văn học.
Cảm thức thời gian là một trong những
vấn đề trung tâm của triết học và văn học, luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của
giới nghiên cứu. Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, chủ đề này đã được
xem xét ở nhiều giai đoạn khác nhau, từ văn học trung đại với quan niệm thời
gian vũ trụ, tuần hoàn, đến văn học hiện đại với sự xuất hiện của thời gian tâm
lý, thời gian xã hội, thời gian tuyến tính hay phi tuyến tính.
* Những bài viết về cảm thức thời
gian trong Thơ hiện đại Việt Nam:
Cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn
Thị Việt Nga, Nhà sáng tác Nguyễn Thị
Lan đã đề cập đến các tín hiệu của thời gian, đây là một trong số những điểm đặc
trưng đầi tiên khi nhắc đến thời gian trong văn học qua hệ thống quý ngữ chỉ
mùa, sự biến đổi thời gian không chỉ qua thiên nhiên mà lẫn cả con người. Qua
bài viết ta thu nhận được kết cấu thời gian qua hệ thống tín hiệu tiêu biểu để
từ đó phân tích cảm thức thời gian đạt được hiệu quả tối ưu nhất.
Cảm thức thời gian trong thơ Trần
Hoàng Phố, Cao Thị Hồng đã có nhận
xét rằng: “Trong sáng tạo thi ca cảm thức về thời gian là một trong những phẩm
tính thể hiện tài năng của người nghệ sĩ.” Quan niệm này cũng được thể hiện sâu
sắc trong thơ Mai Văn Phấn khi ông đặc tả thời gian để thể hiện phong cách sáng
tác của mình. [ 17, tr 2] Thời gian là yếu tố mang tính xuyên suốt trong toàn bộ
tác phẩm, cách thức thể hiện dòng chảy ấy đều mang một sắc thái riêng biệt định
hình hướng phong thái cá nhân của mình.
Cảm thức thời gian và suy nghiệm phận
người trong thơ Trương Đăng Dung, Nguyễn Thị Liên Tâm cho rằng “Thời gian hữu hạn hay vô thủy vô chung? Thời gian vô tình hay hữu ý? Tất
cả đều tùy thuộc vào cách tiếp nhận của từng cá thể con người trong những hoàn
cảnh cụ thể. Thời gian chuyển dịch từ ánh bình minh rực rỡ đến khoảnh khắc ráng
chiều vàng đẫm, hay khi màn đêm buông xuống…là thời gian phận người tiếp xúc với
những giá trị đời thường.” [ 16, tr 1]
Cảm thức thời
gian trong thơ Lưu Trọng Lư, Trần Nhật Thu “Viết về thời gian, không nhà thơ
nào có thể giữ cho mình sự tĩnh lặng tuyệt đối” [ 19; tr 3] . Chắc cũng chính về
lẽ đó mà trong các sáng tác thơ đều hoà hợp giữa yếu tố động và tĩnh tạo nên sắc
thái hoà quyện trong văn chương giữa động và tĩnh, giữa nhộn nhịp và bình yên.
Cảm thức thời
gian trong thơ Đỗ Trung Lai, Trần Thị Thuý Liễu và Trần Thị Huyền “ Thời
gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý qua chuỗi liên tục các
biến cố có ý nghĩa thẩm mĩ xảy ra trong thế giới nghệ thuật. Do được cảm nhận bằng
tâm lý nên thời gian nghệ thuật có thể trùng khít với thời gian tự nhiên… Thời
gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được biểu hiện bằng nhiều phương diện. Với
những tác giả có cá tính và có ý thức, họ luôn tìm ra những phương thức thể hiện
mới lạ và độc đáo.” [ 20; tr 3] Thời gian trong văn chương mang tính tương đối,
chính nhà văn vẽ nên cho mình một cuộc đời một thước đo thời gian cho chính mỗi
đứa con tinh thần để nó sống và được sống chảy theo dòng tuyến tính đấy.
* Những công trình nghiên cứu, đánh
giá về thơ Mai Văn Phấn và cảm thức thời gian trong thơ ông :
Mai Văn Phấn - Những chặng đường
sáng tạo thơ, PGS.TS Đào Duy Hiệp có
nhận xét: “ Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc đáng ghi nhận trên hành trình chinh
phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới
của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng
thành” [ 8, tr.75] Mai Văn Phấn tự chọn cho mình một hướng đi riêng tuy cô độc
chịu nhiều sự dèm pha, phê bình qua nhiều phương diện khác nhau nhưng chính ông
đã và đang tiếp tục chinh phục những cột mộc văn chương đáng nể phục trong tiến
trình văn học của mình.
Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn,
PGS.TS Hồ Thế Hà đã
xác định quan điểm của mình: “Càng về sau, Mai Văn Phấn càng ý thức thể hiện
tâm thức hậu hiện đại trong sáng tạo thông qua hệ ngôn từ và hình ảnh lạ đã làm
cho thơ anh không dễ đọc, không dễ hiểu ngay tức thì. Và đó cũng chính là điều
làm nên thi pháp riêng Mai Văn Phấn. Cái chung được biểu hiện kết tinh và đa dạng
qua nhiều cái riêng đã làm cho trữ lượng thơ anh qua các giai đoạn càng lấp
lánh, toả phát. Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt
Nam – mà là hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ.” [13, tr.227] Ông nổi
bật trên văn đàng với chất riêng bởi yếu tố “ vụt tắt” đặc trưng trong thơ ba
câu, dòng thơ kén người sáng tác thơ ông mang sự mới mẻ cho luồng văn học hiện
đại.
Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn
Phấn (một vấn đề cần quan tâm trong nghiên cứu và dạy học tác phẩm thơ hiện đại
ở chương trình Ngữ Văn hiện nay), TS. Mai Thị Liên Giang : “Thời gian với nhà thơ Mai Văn Phấn không chỉ là
thực tại khách quan mà còn là sự hiện diện của một thứ quyền uy huyền bí vượt
trên mọi danh xưng hiện hữu. Nỗi sợ phải chết, nỗi cô đơn và bất lực của con
người trước quy luật thời gian luôn song hành với con người trong khát vọng trở
thành bất tử. Kể cả khi chết đi rồi con người vẫn chưa thôi trực tiếp đối mặt với
những đau thương ai oán của thời gian kiếp người. Nhà thơ tự do sống trong thời
gian sáng tạo nhưng thời gian của vũ trụ vẫn cứ phải luôn tồn sinh bên cạnh họ.”
[ 3, tr 2]. Thời gian trong thơ ông như nhân chứng của mọi khoảnh khắc sự chứng
kiến chỉ nó là tồn tại mãi cô đơn mãi chứng kiến mọi niềm vui, nỗi đau, tan vỡ
của bao cảnh sắc thế gian.
Hoa giấu mặt tập thơ đánh giấu sự
trưởng thành trong tiến trình sáng tác Mai Văn Phấn với dòng thơ 3 câu ngắn gọn,
tối giản. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thanh Tâm trong công trình nghiên cứu Mai
Văn Phấn và hành trình vào cõi khác đã thốt lên rằng tập thơ chính là “nỗi
niềm của bao thế hệ về sự sống đắm chìm vào cõi an nhiên về tâm thức”.[ 11; tr
12]
“ Thả” – Tâm thế sáng tạo mới trên
hành trình thơ Mai Văn Phấn, Phạm Bá Cương “ Thả là một quan niệm sống, một triết lí sáng tạo nghệ thuật
đặc sắc trên hành trình sáng tạo thơ của Mai Văn Phấn. Bằng tâm thế thả, nhà
thơ dần hướng đến một lối viết tự nhiên, tinh gọn, không bị gò ép bởi lí thuyết.
Thả hướng con người đến sự tự do trong sáng tác và những giây phút bừng ngộ
trong đời sống hằng ngày. Thả còn là hành trình trở về với thiên nhiên để cảm
nhận sự biến thiên của sự sống, là sự tỉnh thức trong những hoạt động nhỏ nhặt
thường ngày, để rồi, nhà thơ có thể mở ra những của ngõ của thế giới tâm linh
và vô thức để đi sâu vào trong nội tâm. Có thể thấy, thả chính là hành trình
nhà thơ đi tìm lại căn tính bản ngã sống và sáng tạo của chính mình.” [ 21; tr
12].
Mai Văn Phấn, cuộc đời quyến rũ , Nguyễn Đức Tùng “Thơ Mai Văn Phấn
giàu liên tưởng và nhiều biểu tượng văn hóa gốc. Có thể cho rằng thơ anh xuất
phát từ các nguyên mẫu văn hóa, và vì truyền thống Việt Nam là một truyền thống
nhiều hòa hợp hơn xung đột, nhiều pha trộn hơn tinh khiết, nên các nguyên mẫu ấy
không đồng nhất. Có thể thấy tuổi thơ của anh là tuổi thơ êm đềm, dù khó khăn
hay nhọc nhằn, vì ký ức trong anh là ký ức đẹp, như mặt trời phản chiếu trong mặt
nước yên tĩnh, bát ngát cô quạnh hơn là bão tố, tan vỡ. Tất nhiên những đau khổ
của con người có thể mang vẻ ngoài yên tĩnh, những bi kịch nội tâm xáo trộn nhiều
hơn biển cả, nhưng người đọc chờ đợi điều ấy thể hiện nhiều hơn trong thơ anh,
nếu quả thực chúng đã từng chiếm giữ những khoảnh khắc quan trọng nhất của đời
người.” [22, tr 3].
Thơ ba câu như Mai Văn Phấn phổ biến
thế giới: Tối giản nhưng không dễ nuốt, Hương Hồ đã cho chúng ta một cách nhìn mới về thơ
ba câu Mai Văn Phấn với sự biến đổi của thể thơ ba câu bắt nguồn từ văn hoá Nhật
Bản với một vẻ đẹp hiện hữu trong sự tinh gọn, giản đơn của ngôn từ, thông qua
sự sáng tạo độc đáo thay đổi cách cảm thụ phù hợp hơn với thị hiếu người Việt từ
đó hướng đến khả năng khai thác xây dựng của người đọc đối với thể thơ ba câu mới
mẻ này.
Thơ ba câu của Mai Văn Phấn gây
tranh cãi, Tâm Anh đã khẳng định
thơ ông phá vỡ cấu trúc truyền thống mang đặc sắc riêng với sự cảm nhận thơ ca
là dân chủ song nên có nền tảng kiến thức thì mới khai mở những ô cửa kí mã của
tác giả Mai Văn Phấn có thể nói ông đã mang đến một hình thức tiếp nhận mới cho
Thơ hiện đại sau 1975 một định hướng tiếp xúc văn học cởi mở hơn theo năm
tháng.
3. Đối tượng
và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Khoá luận tốt
nghiệp chọn Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn là đối tượng
nghiên cứu.
* Phạm vi nghiên cứu:
Tìm hiểu về cảm thức thời gian trong
thơ Mai Văn Phấn, khoá luận nghiên cứu khảo sát thông qua các tập thơ:
1. Hoa giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012.
2. Thả, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng
các phương pháp nghiên cứu sau:
* Phương pháp so sánh: Nhờ phương
pháp này, người viết đặc trên mối quan hệ tương đồng và khác biệt để làm nổi bật
những đặc trưng của thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn.
* Phương pháp hệ thống: Phương pháp
giúp sự sắp xếp hệ thống thông tin cụ thể đưa ra các dẫn chứng đi đúng tiến
trình có hiệu quả trong quá trình nghiên cứu.
* Phương pháp thống kê, phân loại:
Thông qua phương pháp những thi liệu xuất hiện, các dẫn chứng, nhận xét trong
các tập thơ, qua đó phân loại chúng một cách có trình tự.
* Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đặc
trưng của phương pháp cho phép đi sâu khai phá vấn về từ chi tiết cụ thể đến cô
đọng hàm xúc nhờ vậy bài nghiên cứu về đề tài này sẽ đạt được hiệu quả đóng góp
hiệu quả.
5. Đóng góp của
khoá luận
Khoá luận đã
nêu lên cái nhìn đa điện về Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn
thông qua hai tập thơ ba câu được xuất bản và mang đến sự nổi bật cho tác giả.
Qua đó nâng cao sự nhận diện và vị thế của nhà thơ trong tiến trình văn học hiện
nay.
6. Cấu trúc
khoá luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh
mục Tài liệu tham khảo, khoá luận chia làm ba chương:
Chương 1: Thơ Mai Văn Phấn trong
dòng chảy thơ đương đại.
Chương 2: Cảm thức thời gian nhìn từ
đề tài và quan niệm thơ Mai Văn Phấn.
Chương 3: Cảm thức thời gian trong
thơ Mai Văn Phấn nhìn từ một số phương thức thể hiện.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG
DÒNG CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI
Thơ ba câu là một trong những hình
thức thơ ngắn gọn và cô đọng, xuất hiện trong một số nền văn học. Dù giới hạn
trong ba dòng, thể thơ này có khả năng biểu đạt súc tích, giàu hình tượng và
hàm chứa nhiều tầng nghĩa. Với đặc điểm ngắn gọn, thơ ba câu vừa tạo không gian
cho những hình ảnh tinh tế vừa mở ra những liên tưởng phong phú, đôi khi mang
tính triết lý, gây bất ngờ. Nhiều tác giả đã phát triển thơ ba câu theo những
cách thức riêng, phản ánh tư duy thẩm mỹ cũng như đặc trưng văn hoá.
"Thơ ba câu, với tôi, là một vẻ đẹp bất chợt ta nhận
ra, hoặc vô tình nhặt lên từ những điều bình dị quanh mình. Nhà thơ người Anh
Susan Blanshard gọi đó là "những bí mật của ánh sáng". [21; tr 2]
Thơ ba câu, với vẻ đẹp tinh tế và sức mạnh biểu đạt cô
đúc, là một hình thức nghệ thuật độc đáo xuất hiện trong nhiều nền văn hoá, đặc
biệt là trong văn hoá Nhật Bản với thơ haiku. Gói gọn trong dung lượng ba dòng
ngắn ngủi, thơ ba câu vẫn có khả năng truyền tải những cảm xúc sâu sắc, những
hình ảnh sống động, những khoảng trống thoả sức để người đọc, người nghe lắng
mình vào những suy tư của tâm trí.
Đặc điểm nổi bật của thơ ba câu
chính là sự ngắn gọn. Mỗi bài thơ chỉ gồm ba dòng thơ mỗi dòng từ 3 đến 4 chữ,
đòi hỏi người viết phải chắt lọc, mài giũa ngôn từ một cách tinh tế, sử dụng những
hình ảnh gợi cảm để khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc. Sự hàm súc trong
ngôn ngữ giúp thơ ba câu chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, cho phép người đọc tự do
suy ngẫm và khám phá. Không chỉ vậy, nhiều bài thơ ba câu còn mang tính triết
lý sâu sắc, thể hiện những suy tư về cuộc sống, con người và vũ trụ. Chính vì đặc
tính như thế nên thể loại thơ này kén chọn hơn hẳn bởi làm thế nào để chọn được
từ hay từ chất quả là một điều khó.
Trong văn hoá Nhật Bản, Haiku là một
ví dụ điển hình cho thể thơ ba câu. Với cấu trúc 5-7-5 âm tiết, Haiku thường tập
trung vào việc miêu tả thiên nhiên và khơi gợi những cảm xúc tinh tế. Những bài
Haiku nổi tiếng của Matsuo Basho đã trở thành kinh điển, thể hiện sự hoà quyện
giữa con người và thiên nhiên.
Ngoài Nhật Bản, thơ ba câu cũng xuất
hiện trong một số nền văn hoá khác, với những hình thức và đặc điểm riêng. Tại
Việt Nam, tuy không có một thể thơ truyền thống nào tương ứng hoàn toàn với thơ
ba câu, nhưng nhiều nhà thơ hiện đại đã thử nghiệm và sáng tác theo hình thức
này. Nhà thơ Mai Văn Phấn là một trong những người tiên phong trong việc phát
triển thơ ba câu ở Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường mang tính triết lý, đa
nghĩa tuy thế bên cạnh đó cũng gây nhiều tranh cãi trong giới văn học. Thơ ba
câu không chỉ là một hình thức nghệ thuật ngắn gọn mà còn là một phương tiện để
diễn đạt những cảm xúc và suy tư sâu sắc. Sự kết hợp giữa hình ảnh, ngôn ngữ và
ý tưởng trong thơ ba câu tạo nên một sức hút đặc biệt, khiến người đọc không ngừng
khám phá và suy ngẫm.
Thơ ba câu, dù không phải là một thể
thơ chiếm lĩnh vị thế trung tâm trong lịch sử văn học nhiều quốc gia, vẫn sở hữu
một sức hút bền bỉ và một lịch sử phát triển âm thầm nhưng đầy tiềm năng. Sức hấp
dẫn đặc biệt của thơ ba câu nằm ở chính sự giới hạn về hình thức. Chỉ với ba
dòng, người viết buộc phải trở thành một nghệ sĩ bậc thầy trong việc lựa chọn từ
ngữ, sắp xếp câu chữ sao cho mỗi yếu tố đều mang một trọng lượng biểu đạt tối
đa. Không gian hẹp về câu chữ lại mở ra một không gian rộng lớn cho sự gợi mở
và liên tưởng. Mỗi dòng thơ, mỗi hình ảnh như một mảnh ghép của một bức tranh
mà người đọc có thể tự do hoàn thiện bằng trí tưởng tượng và kinh nghiệm cá
nhân. Chính tính chất "mở" này đã tạo nên một mối liên kết đặc biệt
giữa tác giả và độc giả, nơi sự đồng sáng tạo được khuyến khích và trân trọng.
Mặc dù không ồn ào và phô trương như
những thể thơ dài hơi, sự phổ biến của thơ ba dòng vẫn được duy trì và phát triển
một cách lặng lẽ. Trong bối cảnh văn học hiện đại, khi nhịp sống trở nên hối hả
và con người có xu hướng tìm kiếm những hình thức biểu đạt ngắn gọn, súc tích,
thơ ba dòng càng có cơ hội khẳng định giá trị của mình. Nhiều nhà thơ đương đại,
trong đó có những tên tuổi như Mai Văn Phấn ở Việt Nam, đã tìm thấy ở thể thơ
này một phương tiện lý tưởng để chuyển tải những suy tư triết lý, những cảm xúc
tinh tế hay những lát cắt đời sống một cách ấn tượng. Sự xuất hiện của các cộng
đồng yêu thích Haiku và thơ ba câu trên khắp thế giới, sự lan toả của nó trên
các nền tảng trực tuyến cũng cho thấy một sự quan tâm và yêu mến không nhỏ dành
cho hình thức thơ độc đáo này.
Hiệu ứng mà thơ ba câu mang lại cho
người đọc thường là sự ấn tượng mạnh mẽ, đột ngột do tính hàm súc và cô đọng.
Nó yêu cầu người đọc phải tham gia tích cực vào quá trình kiến tạo ý nghĩa, sử
dụng vốn sống, kiến thức và kinh nghiệm cá nhân để lấp đầy những khoảng trống
ngữ nghĩa mà nhà thơ để lại. Điều này khác với các hình thức thơ dài hơn, nơi ý
tứ có thể được trải dài và giải thích rõ ràng hơn.
Tuy nhiên, hình thức thơ ba câu cũng
đặt ra những thách thức đáng kể. Nguy cơ lớn nhất là rơi vào sự nông cạn, sáo rỗng
hoặc trở nên quá tối nghĩa nếu không đạt được sự cân bằng giữa tính tối giản và
chiều sâu nội dung. Để một bài thơ ba câu thực sự thành công, đòi hỏi nhà thơ
phải có tư duy hình tượng sắc bén, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện và khả
năng kiểm soát hiệu quả sự gợi mở để tránh gây khó hiểu hoặc cảm giác hụt hẫng
cho người đọc.
Trong bối cảnh thơ hiện đại Việt
Nam, hình thức thơ ba câu, dù không phải là một thể thơ truyền thống với niêm
luật hay vần điệu cố định, đã nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý, đặc trưng
cho xu hướng tối giản và thực nghiệm cấu trúc trong thi ca. Được định nghĩa bởi
cấu trúc cố định chỉ gồm ba dòng độc lập, nó đặt ra một thách thức cố hữu về sự
cô đọng, buộc nhà thơ phải thực hiện chức năng chắt lọc ngôn ngữ và nén chặt ý
tứ, cảm xúc, hoặc hình ảnh cốt lõi nhất, loại bỏ mọi yếu tố dàn trải hay thừa
thãi. Mục đích chính của hình thức này là ghi nhận và biểu đạt một khoảnh khắc,
một ý niệm, hay một cảm xúc tập trung, phá vỡ cấu trúc tự sự hay miêu tả dài
dòng thường thấy. Chính sự nén chặt này tạo nên một sức căng và tính hàm súc đặc
trưng, dẫn đến hiệu ứng mạnh mẽ trên người đọc, đòi hỏi họ phải tham gia tích cực
vào quá trình giải mã và liên tưởng để lấp đầy khoảng trống ngữ nghĩa – một yếu
tố cấu trúc quan trọng, được nhấn mạnh bởi khoảng trắng trên trang giấy. Là một
phần của thơ hiện đại, thơ ba câu phản ánh tâm thức thời đại với sự phân mảnh
và tốc độ, đồng thời là một sân chơi thực nghiệm quan trọng cho ngôn ngữ tiếng
Việt, dù nó cũng đặt ra thách thức về nguy cơ nông cạn hoặc tối nghĩa nếu thiếu
hàm lượng tư tưởng/cảm xúc hoặc kỹ thuật xử lý chưa tới tầm. Nhìn chung, thơ ba
câu là một hiện tượng đáng chú ý, góp phần đa dạng hóa hình thức và làm sâu sắc
thêm tiềm năng biểu đạt của thơ Việt trong khuôn khổ tối giản, khuyến khích cả
người viết và người đọc khám phá những khả năng mới của thi ca.
Cảm thức thời gian trong văn học hiện
đại Việt Nam đã chuyển dịch từ khách quan sang chủ quan, từ tuyến tính sang
phân mảnh và chồng lớp. Thơ ba câu, với cấu trúc đặc thù của mình, không chỉ thể
hiện rõ nét sự chuyển dịch này mà còn trở thành một công cụ hiệu quả để nắm bắt
và khuếch đại sự phức tạp, tính phù du và chiều sâu tâm lý của cảm thức thời
gian trong bối cảnh hiện đại.
Thơ ba câu, dù không phải là một
"ngôi sao sáng" trên bầu trời văn học, vẫn là một chòm sao nhỏ nhưng
lấp lánh, thơ ca mang đến những điều kì diệu. Sự phổ biến của nó không nằm ở số
lượng tác phẩm đồ sộ hay sự ồn ào trên các diễn đàn văn chương, mà nằm ở khả
năng chạm đến những khoảnh khắc sâu lắng trong tâm hồn người đọc, ở sức mạnh gợi
mở và khả năng khơi dậy những suy tư đa chiều chỉ bằng một vài dòng chữ. Thơ ba
dòng, vì thế, vẫn tiếp tục hành trình âm thầm nhưng bền bỉ của mình, như một
minh chứng cho vẻ đẹp tiềm ẩn của sự giản dị và sức mạnh của sự cô đọng trong
nghệ thuật ngôn từ.
Về bản chất cảm thức thời gian trong
văn học là cách thức tri nhận dòng chảy lịch sử là sự bộc lộ những cảm xúc
riêng tư thông qua đó thể hiện chất riêng khơi nguồn giọt mầm của giai điệu tâm
hồn.
“Thơ vốn là tiếng lòng được giãi bày
một cách ý nhị và tinh tế của người làm thơ. Cảm thức trong thơ luôn là những nỗi
niềm tràn đầy cảm xúc, gợi tả, mang đến cho người đọc những bâng khuâng, xôn
xao. Cảm thức thời gian là cảm thức quen thuộc
trong thơ. Người làm thơ níu vào thời gian, vào năm tháng, vào hồi ức, vào kỷ
niệm…. để bộc lộ lòng mình.” [22; tr 1].
Cảm thức thời gian trong văn học, hơn cả một trục tuyến
tính đơn thuần, là một dòng chảy phức tạp và đa chiều, được nhào nặn bởi ý thức
chủ quan của tác giả, thấm đẫm trải nghiệm tâm lý của nhân vật và gợi mở những
tầng nghĩa sâu xa cho người đọc. Nó không chỉ đơn thuần là thước đo sự kiện diễn
ra theo trình tự, mà còn là một công cụ nghệ thuật mạnh mẽ để kiến tạo không
gian, khắc hoạ tâm trạng và cấu trúc câu chuyện. Thời gian trong văn học
có thể uyển chuyển giữa dòng chảy tuyến tính quen thuộc và những khúc quanh phi
tuyến tính đầy bất ngờ, cho phép tác giả khám phá những ngóc ngách sâu kín của
quá khứ, hé lộ những viễn cảnh tương lai hoặc đơn giản là lặn sâu vào khoảnh khắc
hiện tại. Đặc biệt, "thời gian tâm lý" trở thành một lăng kính độc
đáo, bóp méo hoặc kéo dài những khoảnh khắc trải nghiệm của nhân vật, phản ánh
chân thực những biến động nội tâm. Sự tương giao giữa thời gian lịch sử, mang dấu
ấn của những biến cố khách quan, và thời gian cá nhân, nhuốm màu sắc kỷ niệm và
cảm xúc riêng tư, tạo nên một bức tranh thời gian đa diện và phong phú. Nhịp điệu
trần thuật, từ những trang văn dồn dập đến những đoạn miêu tả tĩnh lặng, cũng
góp phần định hình cảm nhận thời gian của người đọc. Như vậy, cảm thức thời
gian không chỉ là một yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là một phương tiện biểu
đạt tinh tế, góp phần quan trọng trong việc truyền tải thông điệp và khơi gợi
những rung động sâu sắc trong lòng người đọc. Trong mỗi tác phẩm văn học
người nghệ sĩ luôn thể hiện các quan điểm nghệ thuật thông qua các yếu tố thời
gian và không gian chính vì thế sự nhận diện về vấn đề này được đặt lên hàng đầu
trong quá trình khai thác văn chương.
“Cảm thức thời gian trong sáng
tạo nghệ thuật là dấu hiệu cơ bản để nhận biết phẩm chất và năng lực nghệ sĩ của
mỗi nhà thơ nhà văn, thể hiện qua khả năng tri giác về thời gian, dẫn tới việc
sử dụng trường thời gian vốn quy định cách kể và cách tả cũng như cách thức đưa
ra các bình luận ngoại đề hay cho phép tác giả thể hiện trữ tình ngoại đề trong
mỗi tác phẩm văn chương.” [25; tr 3]
Cảm thức thời gian trong văn học,
vượt xa một khái niệm đơn thuần về trình tự sự kiện, là một lăng kính phức tạp
mà qua đó các nhà văn không chỉ đo đếm mà còn cảm nhận, nhào nặn và phô diễn
dòng chảy của thời gian trong tác phẩm của mình. Đó là cách họ nắm bắt và tái
hiện không chỉ nhịp điệu của lịch sử vĩ mô, với những biến động và dấu mốc quan
trọng, mà còn cả những rung động tinh tế của thời gian cá nhân, những khoảnh khắc
lắng đọng cảm xúc, những bước ngoặt định hình số phận con người. Cảm thức này
chi phối cách tác giả lựa chọn điểm nhìn thời gian, cấu trúc cốt truyện, sử dụng
các kỹ thuật như hồi tưởng hay dự báo, và quan trọng hơn cả, cách họ truyền tải
những suy tư sâu sắc về sự hữu hạn, về dòng chảy không ngừng của cuộc đời và những
dấu ấn mà con người để lại trên dòng chảy ấy.
Cảm thức thời gian trong văn học là một phạm trù đa
diện, được kiến tạo từ nhiều lớp lang nhận thức và biểu đạt của nhà văn. Trước
hết, nó thể hiện cách nhìn nhận về dòng chảy thời gian, một sự lựa chọn mang
tính nghệ thuật trong việc nắm bắt quá khứ, hiện tại và tương lai. Có những
ngòi bút tập trung vào một khoảnh khắc cô đọng, khuếch đại ý nghĩa và cảm xúc
trong một điểm thời gian tĩnh tại. Ngược lại, nhiều tác giả lại say mê khám phá
sự vận động không ngừng của thời gian, dõi theo những biến đổi, sự trưởng
thành, suy tàn và tái sinh, vẽ nên bức tranh tiến hoá hoặc suy thoái của nhân vật
và bối cảnh.
“Ở phương Tây, các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như
Proust, Gide, Virginia Volf, Joyce, Dos Passos, Faulkner, Shakespeare… đều đã
có cách biểu đạt, cách hủy hoại thời gian vật lý theo những cách khác nhau. Nhà
thơ có thể cắt bỏ quá khứ và tương lai, rút gọn thời gian vào khoảnh khắc trực
giác của tâm cảm… Ở Việt Nam, tạm không nhắc đến các bậc thi tài trong văn học
Trung đại, các nhà thơ cùng thời với Mai Văn Phấn cũng đã có những quan niệm,
những biểu đạt thời gian khác nhau. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng,
góp phần làm sinh động/ tự hào thêm cho đời sống thi ca Việt không chỉ đối với
bạn đọc trong nước mà còn ở nước ngoài.”[3, tr 5]
Cảm thức thời gian thấm đẫm cảm xúc và trải nghiệm
cá nhân của người nghệ sĩ. Thời gian trong văn học không còn là một khái niệm
khách quan, mà trở thành tấm gương phản chiếu những cung bậc tình cảm sâu kín:
nỗi tiếc nuối những điều đã qua, sự ngọt ngào của hoài niệm về những ký ức đẹp,
nỗi sợ hãi mơ hồ trước tương lai bất định, hay niềm mong đợi tha thiết vào những
điều sắp đến. Chính những lăng kính cảm xúc này nhuộm màu cho cách thời gian được
miêu tả và cảm nhận trong tác phẩm.
“Cảm thức thời gian
trong sáng tạo nghệ thuật là dấu hiệu cơ bản để nhận biết phẩm chất và năng lực
nghệ sĩ của mỗi nhà thơ nhà văn, thể hiện qua khả năng tri giác về thời gian, dẫn
tới việc sử dụng trường thời gian vốn quy định cách kể và cách tả cũng như cách
thức đưa ra các bình luận ngoại đề hay cho phép tác giả thể hiện trữ tình ngoại
đề trong mỗi tác phẩm văn chương. Vấn đề thời gian đã từng là điểm chú ý đặc biệt
của nhiều nhà khoa học phương Tây.” [
25, tr 2]
Cảm thức thời gian là một yếu tố cốt lõi định hình
thế giới quan trong văn học, và trong văn học hiện đại Việt Nam, cảm thức này
đã có những biến chuyển sâu sắc so với truyền thống, dịch chuyển từ cái nhìn
tuyến tính, chu kỳ sang cái nhìn đa diện, phân mảnh và chủ quan hơn, chịu ảnh
hưởng của tư tưởng hiện đại và bối cảnh lịch sử đầy biến động. Trong bối cảnh
chuyển dịch ấy, hình thức thơ ba câu, với tính chất tối giản và thực nghiệm, nổi
lên như một phương tiện đặc sắc để thể hiện cảm thức thời gian hiện đại. Chính
cấu trúc cực kỳ cô đọng chỉ gồm ba dòng này cho phép nhà thơ nắm bắt và tôn
vinh tính đột ngột, sự cô lập nhưng đầy mãnh liệt của một khoảnh khắc hiện tại,
tách nó ra khỏi dòng chảy thời gian khách quan. Dù ngắn gọn, thơ ba câu vẫn có
khả năng kỳ diệu trong việc gợi mở, thậm chí chồng lớp các chiều thời gian -
quá khứ, hiện tại, tương lai - thông qua cách sắp đặt hình ảnh hay ngôn ngữ đầy
hàm súc, qua đó làm nổi bật tính phi tuyến tính và sự phức tạp của thời gian
tâm lý, chủ quan. Có thể nói, thơ ba câu đóng vai trò như một viểu vũ trụ hay một
lăng kính đặc biệt, khuếch đại và chưng cất những đặc điểm nổi bật của cảm thức
thời gian trong văn học hiện đại Việt Nam – sự tôn vinh khoảnh khắc phù du,
tính đứt gãy, sự đồng hiện của các chiều thời gian, và vai trò chủ đạo của cảm
nhận cá nhân, cho thấy khả năng của hình thức thơ tối giản trong việc chuyên chở
những nội dung phức tạp và sâu sắc.
Cảm thức thời gian được hiện thực hoá thông qua các
yếu tố thẩm mỹ tinh tế. Cấu trúc truyện, với sự sắp xếp các chương hồi, sự đan
xen các tuyến thời gian, tạo nên nhịp điệu riêng cho tác phẩm. Ngôn ngữ, với những
từ ngữ gợi tả, những hình ảnh ẩn dụ, có khả năng kéo dài một khoảnh khắc hoặc
lướt nhanh qua cả một giai đoạn. Các kỹ thuật như hồi tưởng, dự báo, hay sự
thay đổi tốc độ trần thuật trở thành những công cụ đắc lực để nhà văn nhào nặn
dòng chảy thời gian theo ý đồ nghệ thuật. Tất cả những yếu tố này, hoà quyện với
phong cách và cá tính độc đáo của mỗi nhà văn, tạo nên một dấu ấn riêng biệt
trong cách họ cảm nhận và thể hiện thời gian, làm nên sự đa dạng và phong phú
cho thế giới văn chương. Thời gian là yếu tố xuyên suốt không chỉ cuộc sống thường
nhật mà còn đóng vai trò nòng cốt trong sáng tạo nghệ thuật nhằm định hình giai
đoạn cảm xúc trong văn chương khai mở tinh tế tâm tư tinh tế độc giả.
“Mai
Văn Phấn thuộc thế hệ những nhà thơ từng thấm đẫm nước mắt của chiến tranh Việt
Nam và khá nổi tiếng bên cạnh Nguyễn Quang Thiều, Trương Đăng Dung, Hồ Thế Hà,
Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Lương Ngọc, Inrasar, Giáng Vân, Đoàn Thị Lam Luyến... Là
thế hệ chuyển giao nhiệm vụ của lịch sử, họ phải gánh chịu/chứng kiến sự hủy diệt
của hàng tấn bom đạn vô nghĩa ngay từ thời khắc họ được/bị sinh ra; và họ cũng
là những người được/bị sống để tiếp tục xác nhận những hậu quả tàn ác, dai dẳng
của chiến tranh để lại trên nhiều phương diện cho đến tận hôm nay. Họ ra đời
trong những khoảnh khắc kì lạ, gắn liền với những chiến dịch chấn động địa cầu.
Sinh mệnh của họ dù không muốn cũng phải cùng chịu đựng những khổ đau của dân tộc
ở thời điểm này. Mai Văn Phấn cũng là một trong những trí thức ưu tú đã từng
bị khủng hoảng sâu sắc trước những biến động của lịch sử ấy.” [ 3; tr 1]
Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không
chỉ là một hình thức thể nghiệm thi ca đơn thuần mà đã định hình một phong cách
độc đáo, đánh dấu một bước chuyển mình đáng chú ý trong thơ ca Việt Nam đương đại.
Được xem là người tiên phong khai phá và phát triển mạnh mẽ thể thơ này, Mai
Văn Phấn đã tiếp thu tinh tuý từ sự cô đọng, hàm súc của Haiku Nhật Bản, nhưng
không hề rập khuôn mà đã nhào nặn, thổi vào đó hơi thở của đời sống hiện đại Việt
Nam cùng dấu ấn cá nhân sâu sắc. Chính sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và
hiện đại này đã tạo nên một trường phái thơ ba dòng mang đậm "chất "
Mai Văn Phấn, vừa khơi gợi những suy tư triết lý sâu xa, vừa phản ánh những lát
cắt đời sống đương thời, đồng thời mở ra những chân trời mới cho sự biểu đạt
nghệ thuật. Tiến trình văn học luôn đòi hỏi cái mới và quá trình băng hoại của
thời gian chính vì thế mỗi nhà văn phải cho mình một điểm tựa một sự khác biệt
trong tư duy để khẳng định chất văn học của mình.
Tính triết lý và khả năng khơi gợi
suy tư đa chiều. Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không dừng lại ở bề mặt của sự vật
hay những rung cảm nhất thời. Thay vào đó, mỗi bài thơ, dù ngắn gọn, lại chứa đựng
một "hạt mầm" ý tưởng, một câu hỏi ngầm về kiếp người, về lẽ tồn tại,
về mối tương quan phức tạp giữa cá nhân và vũ trụ bao la. Ngôn ngữ thơ ông, dù
kiệm lời, lại có sức nặng tư tưởng lớn lao, buộc người đọc phải chậm lại, suy
ngẫm và tự mình kiến tạo những liên tưởng đa chiều. Chẳng hạn, một hình ảnh tưởng
chừng đơn giản như "giọt sương tan" có thể gợi mở về sự mong manh của
kiếp người, sự trôi chảy của thời gian và quy luật vô thường của vũ trụ. Chính
chiều sâu triết lý này đã nâng thơ ba dòng của Mai Văn Phấn lên một tầm vóc mới,
vượt qua khuôn khổ của những ghi chép cảm xúc thông thường.
Sự xuất hiện của bộ phận thơ mới với
tư tưởng làm thơ trước hết phải làm chữ, những sáng tác của họ là một trong những
mũi nhọn đột phá vào quan niệm thơ truyền thống ảnh hưởng trong thơ ông. Họ đi
tìm một con đường riêng mang dấu ấn cá nhân của mình. Mai Văn Phấn đã tìm cho
mình một giọng thơ riêng đầy đặc sắc với rung cảm tinh tế và vẻ đẹp đầy trắc ẩn
của suy tư triết lý.
Nghệ thuật sử dụng hình ảnh ẩn dụ và
tượng trưng giàu sức gợi. Một đặc trưng nổi bật khác trong thơ ba dòng của Mai
Văn Phấn là khả năng sử dụng ngôn ngữ cô đọng, giàu tính biểu tượng. Ông không
trực tiếp diễn giải mà lựa chọn những hình ảnh mang tính ẩn dụ và tượng trưng
cao, khơi gợi những ý nghĩa sâu xa nằm ngoài bề mặt con chữ. Sự kết hợp bất ngờ
giữa các hình ảnh, đôi khi tưởng chừng như không liên quan, lại tạo ra những hiệu
ứng thị giác và cảm xúc mạnh mẽ, đánh thức những giác quan và khơi mở những tầng
nhận thức mới mẻ. Ví dụ, sự tương phản giữa "ánh trăng" và "bóng
tối" có thể không chỉ đơn thuần miêu tả cảnh vật mà còn gợi lên những xung
đột nội tâm, những giằng xé giữa ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn con người.
Chính lối sử dụng hình ảnh độc đáo này đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ
ông, đòi hỏi người đọc phải có sự nhạy cảm và khả năng giải mã để thấu hiểu.
Cấu trúc đột phá và tính đa nghĩa, mở
trong diễn giải. Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn thường phá vỡ những quy tắc truyền
thống về cú pháp và logic thông thường trong thơ. Sự sắp xếp câu chữ đôi khi tạo
ra những kết nối bất ngờ, những "vết nứt" trong mạch ý tưởng, buộc
người đọc phải dừng lại, ngạc nhiên và suy nghĩ theo những hướng khác biệt.
Chính sự đột phá trong cấu trúc này đã mang đến một hơi thở hiện đại cho thơ
ông, thoát khỏi những khuôn mẫu cũ kỹ. Đồng thời, với khuôn khổ ngắn gọn chỉ ba
dòng, thơ Mai Văn Phấn thường mang tính đa nghĩa, mở ra nhiều khả năng hiểu và
diễn giải khác nhau. Sự "mở" này không phải là sự mơ hồ, khó hiểu mà
là một lời mời gọi độc giả tham gia vào quá trình đồng sáng tạo, tự mình khám phá
những tầng ý nghĩa tiềm ẩn trong từng câu chữ, từng hình ảnh.
Sự hoà quyện giữa tinh thần phương
Đông và hơi thở của đời sống đương đại. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tinh
thần thiền vị và triết lý phương Đông, đặc biệt là từ Haiku, thơ ba dòng của Mai
Văn Phấn không hề xa rời đời sống hiện đại Việt Nam. Ông có khả năng tinh tế nắm
bắt và phản ánh những khía cạnh đa dạng của cuộc sống đương thời, từ những lo
toan thường nhật, những biến đổi xã hội đến những vấn đề văn hoá. Điều đáng chú
ý là ông nhìn nhận những điều quen thuộc dưới một góc độ mới lạ, mang đến những
khám phá thú vị và bất ngờ. Chính sự hoà quyện giữa cái tĩnh lặng, sâu lắng của
phương Đông và sự động đậy, phức tạp của đời sống hiện đại đã tạo nên một sức hấp
dẫn đặc biệt cho thơ ông, khiến nó vừa mang tính chiêm nghiệm, vừa gần gũi với
hơi thở thời đại.
Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn là một
hiện tượng độc đáo và đáng chú ý trong văn học Việt Nam đương đại. Với sự tiên
phong khai phá và những đóng góp mang tính cách tân, ông đã tạo ra một "trường
phái" thơ ba dòng mang đậm dấu ấn cá nhân, kết hợp hài hòa giữa truyền thống
và hiện đại, giữa triết lý sâu xa và hơi thở đời sống. Dù vẫn còn những tranh
luận và cách tiếp nhận khác nhau, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của Mai
Văn Phấn trong việc mở rộng biên giới của thơ ca Việt Nam, mang đến những hình
thức biểu đạt mới mẻ, sâu sắc và đầy sức gợi, khẳng định sức sống mãnh liệt của
thơ ca trong bối cảnh văn học đương đại. Mai Văn Phấn trong quá trình sáng tạo
kể đến nay ông có 2 tập thơ ba câu nổi bật trong thi đàn văn học hiện thời là
Thả và Hoa giấu mặt đóng vai trò định hình thể thơ chiếm vị thế quan trọng
trong dòng văn học đổi mới này.
“Có thể thấy
thơ Mai Văn Phấn là một hành trình liên tục cách tân, tìm tòi. Vượt lên những hạn
chế nhất định, mỗi giai đoạn sáng tác của ông đều ghi dấu bằng những tác phẩm
đáng chú ý. Ý thức học hỏi nghiêm túc hướng về những nền thơ lớn trên thế giới,
đặc biệt là thơ Âu – Mỹ hiện đại, cộng với “tham vọng” hướng tới xây dựng một
tiếng thơ Việt “thuần khiết” là động lực thúc đẩy ông không ngừng hăng hái tìm
kiếm và thử nghiệm. Dĩ nhiên, song song với việc tiếp thu có chọn lọc là ý thức
xây dựng một thẩm mĩ quan cá nhân độc lập. Bởi vậy, thế giới thơ ông dù biến đổi
hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới,
không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa
chiều.” [6 ,tr 2].
Thơ ba câu của
Mai Văn Phấn và Nguyễn Anh Nông đều là hai cách tiếp cận độc đáo và sâu sắc đối
với một hình thức thơ tối giản, minh chứng cho sức biểu đạt phi thường của sự
cô đọng trong thơ hiện đại Việt Nam. Cả hai nhà thơ đều đồng thuận ở việc coi
ba dòng thơ là một đơn vị hoàn chỉnh, một bài thơ trọn vẹn, nơi sự hạn chế về số
lượng dòng trở thành một thách thức sáng tạo, đòi hỏi sự chắt lọc ngôn ngữ,
hình ảnh và ý tứ đến mức tinh túy nhất. Họ cùng từ bỏ những khuôn khổ niêm luật
chặt chẽ của thơ truyền thống để tìm đến sự tự do trong nhịp điệu và cách ngắt
dòng, tạo không gian cho ý thơ bung nở trong sự nén chặt.
Thế nhưng,
khi đi sâu vào thế giới nghệ thuật mà mỗi người kiến tạo chỉ bằng ba câu thơ ấy,
sự khác biệt về chủ đề, thi pháp, ngôn ngữ và cảm quan hiện lên rõ nét, làm nên
bản sắc riêng không thể trộn lẫn. Mai Văn Phấn lặn sâu vào miền suy tưởng triết
học, biến ba dòng thơ thành những cú va chạm đột ngột với các ý niệm lớn về tồn
tại, bản thể, thời gian, sự biến đổi và mối quan hệ phức tạp giữa con người với
vũ trụ. Thơ ông thường mang màu sắc siêu thực, với hình ảnh lạ hóa, phi lý, được
ghép nối đầy bất ngờ để tạo ra những liên tưởng đa tầng, thách thức tư duy và
nhận thức của người đọc. Ngôn ngữ của Phấn trong thơ ba câu cô đọng, sắc như
nhát cắt, nhưng mỗi từ, mỗi hình ảnh đều có sức gợi mở khổng lồ, mở ra những
cánh cửa vào không gian chiêm nghiệm sâu thẳm. Đọc thơ ba câu của Mai Văn Phấn
là một hành trình nội tâm đầy thử thách, một cuộc đối thoại với những câu hỏi lớn
được cô đọng đến nghẹt thở, để lại dư âm ám ảnh và thôi thúc suy ngẫm.
Đi ngược lại
với điều đó, Nguyễn Anh Nông neo đậu thơ ba câu của mình vào mạch nguồn của đời
sống vật chất giản dị, của thiên nhiên gần gũi và những rung cảm chân thành của
con người. Ông tìm thấy thi ca không ở những khái niệm trừu tượng mà ở vẻ đẹp
dung dị, cụ thể của một ngọn cỏ, một làn khói chiều, một ánh mắt hay một âm
thanh quen thuộc nơi làng quê. Hình ảnh thơ Nông cụ thể, giàu sức gợi cảm giác,
thấm đẫm hơi thở của đất đai, cây cỏ, con người, mang vẻ đẹp mộc mạc nhưng ẩn
chứa chiều sâu của sự quan sát tinh tế và tâm hồn nhạy cảm. Ngôn ngữ của ông
chân thành, mộc mạc, chảy trôi tự nhiên như hơi thở, dễ dàng chạm đến trái tim
người đọc, gợi lên sự đồng cảm, hoài niệm hay sự bình yên lắng đọng. Đọc thơ ba
câu của Nguyễn Anh Nông là tìm thấy sự an ủi trong những điều bình dị nhất, là
cảm nhận nhịp đập dịu dàng, gần gũi của cuộc sống quanh ta. Có thể ví von rằng, nếu ba câu thơ của Mai
Văn Phấn là những viên kim cương được mài sắc từ khối đá triết lý, lấp lánh ánh
sáng đa diện và khó nắm bắt, lôi cuốn người đọc vào mê cung của ý niệm, thì ba
câu thơ của Nguyễn Anh Nông lại là những đóa hoa đồng nội giản dị mà ngát
hương, cắm rễ sâu vào lòng đất và cuộc đời, mang lại cảm giác thân thuộc và xoa
dịu tâm hồn. Chính sự đối lập đầy thú vị này – một hướng vào chiều sâu siêu
hình của tồn tại, một hướng về vẻ đẹp hữu hình và cảm xúc chân thực của đời sống
– đã làm nên bản sắc riêng không thể trộn lẫn cho thơ ba câu của mỗi nhà thơ, đồng
thời chứng minh sức biểu đạt phong phú, đa dạng và tiềm năng vô tận của hình thức
thơ tưởng chừng rất hạn hẹp này trong hành trình làm mới và định hình diện mạo
thơ ca tiếng Việt đương đại. Cả hai, bằng tài năng và sự kiên định của mình, đã
đóng góp vào việc khẳng định vị thế của thơ ngắn, thơ tối giản như một dòng chảy
quan trọng trong bức tranh toàn cảnh của thơ ca Việt Nam hôm nay.
Thi pháp và cảm thức thời gian đã
phác họa nên một chân dung đáng kể về Mai Văn Phấn, để nhận xét đầy đủ và
"mới hơn" về ông trong bối cảnh văn học đương đại, cần nhấn mạnh vị
thế và tầm ảnh hưởng liên tục của ông trong bức tranh luôn vận động này. Mai
Văn Phấn vẫn giữ vững vị thế là một trong những trụ cột và nguồn cảm hứng quan
trọng bậc nhất của thơ đương đại Việt Nam. Sức hấp dẫn và tầm vóc của ông không
chỉ nằm ở bề dày tác phẩm hay sự đa dạng về thể loại đã được khẳng định, mà còn
ở tinh thần sáng tạo không ngừng nghỉ, khả năng đào sâu vào những vấn đề cốt
lõi của con người và thời đại bằng một thi pháp luôn đổi mới và không ngại thực
nghiệm. Là một nhà thơ thực nghiệm bền bỉ, không ngủ quên trên những thành công
hay phong cách đã định hình. Bên cạnh những hình thức làm nên tên tuổi như thơ
ba câu - nơi ông chứng tỏ khả năng cô đọng tư duy triết học và hình ảnh siêu thực
đến đỉnh cao - Mai Văn Phấn vẫn không ngừng thử nghiệm các cấu trúc mới, pha trộn
thể loại (như thơ văn xuôi, thơ kịch), và tìm kiếm những khả năng biểu đạt chưa
từng có cho ngôn ngữ tiếng Việt. Sự táo bạo trong hình thức này luôn gắn liền với
chiều sâu nội tại, khiến thơ ông luôn tươi mới, đa diện và đòi hỏi sự tiếp nhận
chủ động, thậm chí là nỗ lực giải mã từ phía người đọc. Các chủ đề trong thơ
ông, dù mang tính phổ quát (thời gian, tồn tại, bản thể, mối quan hệ giữa cá
nhân và vũ trụ), vẫn tìm thấy sự cộng hưởng mạnh mẽ với những cảm thức của con
người đương đại trong một thế giới đầy biến động, phân mảnh và phức tạp – từ sự
băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống đến mối quan hệ giữa cá nhân với môi trường xung
quanh, hay sự truy vấn về ngôn ngữ và quá trình sáng tạo.
Dòng thơ ba
câu gây nhiều tranh cãi đối với văn học hiện nay khi người ta cho rằng đây
không phải là thơ hay có cảm nhận thơ của Mai Văn Phấn, độc giả Tùng Lâm bày tỏ:
"Thơ của Mai Văn Phấn có "cảnh". Để dễ hình dung, nếu bạn từng
say sưa đọc một cuốn sách và trong đầu hiện ra những hình ảnh tưởng tượng về
nhân vật, về khung cảnh, cảm xúc bị dắt đi theo câu chữ thì đó chính là đang đi
cảnh trong văn. Thơ tìm cho mình một đối tượng khai thác chiều sâu về nó và
chính dòng thơ này cũng vậy, mỗi thể loại mang cho mình một đặc trưng về kết cấu
riêng buộc người đọc khi tìm đến nó phải thật sự hiểu và say cùng nó. Dòng thơ
ba câu đòi hỏi độc giả phải bỏ cả công và sức để giải mã bề sâu của những con
chữ nhìn có vẻ đơn sơ này.
Nhìn tổng
quan tiến trình sáng tác thơ Mai Văn Phấn là hành trình mài giũa của tư duy
sáng tạo về quan niệm nghệ thuật của nhà thơ mỗi bài thơ là mỗi khoảnh khắc bản
ngã của con người. Thơ ông đòi hỏi một tệp người đọc riêng cho mình khi họ sẵn
sàng đi sâu tìm tòi thông qua từng con chữ đặc trưng ông sáng tạo với thể thơ
ba câu này. “ Mai Văn Phấn bắt đầu làm thơ ở cái tuổi mà sự chín chắn trong
kinh nghiệm sống đã cho phép lí trí của anh tìm ra một lối đi, một cách nhìn cuộc
sống đủ lớn để xác định cho mình một thế giới nghệ thuật riêng biệt”. [13;
tr.103]
Mai Văn Phấn
không chỉ là một nhà thơ của những thành tựu đã đạt được, mà còn là một mạch
nguồn sáng tạo đang chảy mạnh mẽ, góp phần định hình diện mạo và mở ra những
chân trời mới cho thơ đương đại Việt Nam trong thế kỷ 21. Ông là minh chứng sống
động cho thấy sự kết hợp giữa chiều sâu tư tưởng, kỹ thuật bậc thầy và tinh thần
thực nghiệm bền bỉ tạo nên sức sống lâu dài và tầm vóc vượt thời gian cho tác
phẩm nghệ thuật.
Thơ ba câu của Mai Văn Phấn đã nhận
được sự chú ý đáng kể và nhìn chung là những đánh giá rất tích cực từ giới phê
bình và độc giả trong và ngoài nước, được xem là một đóng góp đặc sắc cho diện
mạo thơ đương đại. Các nhận xét đều nhấn mạnh khả năng phi thường của ông trong
việc làm chủ hình thức cực kỳ cô đọng này, nén chặt ý tưởng, cảm xúc và hình ảnh
vào chỉ ba dòng, tạo nên tính hàm súc và sức nặng đáng kinh ngạc. Chiều sâu triết
học, những suy nghiệm về tồn tại, thời gian và vũ trụ được chuyên chở hiệu quả
thông qua hệ thống hình ảnh độc đáo, lạ hóa, đôi khi siêu thực, và ngôn ngữ tạo
hình sắc bén, giàu sức gợi mở. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính tối giản
hình thức, chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong thi pháp này làm cho thơ ông
không chỉ cô đọng mà còn đa tầng ý nghĩa, kích thích mạnh mẽ sự liên tưởng và
tư duy của người đọc. Thơ ba câu của Mai Văn Phấn được coi là một thể nghiệm
nghệ thuật thành công, thể hiện tinh thần thực nghiệm bền bỉ của ông và góp phần
khẳng định tiềm năng biểu đạt của ngôn ngữ tiếng Việt trong khuôn khổ tối giản.
Mặc dù tính hàm súc cao đôi khi đòi hỏi sự nỗ lực nhất định từ phía người đọc để
tiếp cận, nhưng điều này thường được xem là đặc trưng thi pháp, mời gọi sự tham
gia chủ động vào quá trình kiến tạo ý nghĩa. Tóm lại, thơ ba câu của Mai Văn Phấn
được đánh giá là một thành tựu nghệ thuật tiêu biểu, minh chứng cho tài năng
làm chủ hình thức, chiều sâu tư tưởng và khả năng sáng tạo độc đáo, góp phần định
vị ông như một trong những nhà thơ tiên phong và quan trọng của nền thơ đương đại.
CHƯƠNG 2: CẢM THỨC THỜI GIAN NHÌN TỪ ĐỀ TÀI VÀ QUAN NIỆM THƠ MAI VĂN PHẤN
2.1. Cảm thức thời gian nhìn từ phương diện đề tài
Thơ ba câu Mai Văn Phấn “gom tụ
trong mình những xác cảm phong phú của đời sống con người đương đại : âu lo,
hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng với các vấn đề tâm
linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hoá, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến,
tha hương, trở về,…”[13; tr.135]. Những đề tài trong thơ ông tuy không quá cầu
kì hoa mỹ nhưng đi sâu vào từng giai đoạn khoảnh khắc nhỏ bé mà nhiều nhà văn
khác dường như bỏ quên đi, ông đắm chìm vào giai điệu cảm xúc xuất phát từ
phương diện đề tài. Đề tài trong văn học là một khái niệm trung tâm, được hiểu
là phạm vi hiện thực đời sống, lĩnh vực kinh nghiệm con người, vấn đề hoặc hiện
tượng mà tác phẩm tập trung phản ánh, khám phá và thể hiện. Nó đóng vai trò như
chất liệu ban đầu, là điểm khởi phát cho quá trình sáng tạo của nhà văn và là cửa
ngõ để người đọc tiếp cận với thế giới mà tác phẩm xây dựng.
Đề tài có mối liên hệ mật thiết với
chủ đề (tư tưởng, thông điệp chính mà nhà văn muốn truyền tải) nhưng thường được
xem là phạm vi rộng hơn. Đề tài phản ánh mối quan tâm của cá nhân người viết,
góc nhìn của họ về cuộc đời, cũng như những vấn đề nổi cộm, những dòng chảy văn
hóa, xã hội, lịch sử của thời đại mà tác phẩm ra đời. Chính vì lẽ đó, việc
nghiên cứu đề tài giúp hiểu thêm về bối cảnh lịch sử-xã hội của tác phẩm và tư
tưởng của tác giả.
Sự phong phú và đa dạng của đề tài
là vô tận, bao trùm hầu hết mọi khía cạnh của đời sống con người và thế giới
xung quanh, từ những đề tài muôn thuở mang tính kinh điển như tình yêu, cái chết,
chiến tranh, hòa bình, thiện ác, đến những đề tài mới nảy sinh phản ánh sự vận
động của xã hội hiện đại như công nghệ, môi trường, bản sắc trong thế giới toàn
cầu hóa, các vấn đề giới, v.v.
Giá trị và sức hấp dẫn của một tác
phẩm không chỉ nằm ở việc lựa chọn đề tài (đề tài dù độc đáo đến mấy cũng có thể
trở nên nhàm chán nếu xử lý yếu), mà quan trọng hơn gấp bội là ở cách nhà văn
tiếp cận, khai thác, xử lý và đào sâu vào đề tài đó. Cùng một đề tài, các tác
giả khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau, với tài năng, góc nhìn, trải
nghiệm sống và bút pháp riêng biệt, sẽ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn khác
nhau về chiều sâu tư tưởng, sắc thái cảm xúc, cấu trúc nghệ thuật và thông điệp
gửi gắm. Cách xử lý đề tài thể hiện tài năng, tầm vóc và dấu ấn cá nhân của nhà
văn.
Đề tài văn học luôn vận động và biến
đổi theo dòng chảy của lịch sử và sự phát triển của xã hội. Có những đề tài nổi
lên mạnh mẽ trong một giai đoạn lịch sử nhất định, sau đó có thể lắng xuống hoặc
được tái khám phá, biểu đạt dưới những góc nhìn mới mẻ hơn. Sự xuất hiện của
các đề tài mới cũng là dấu hiệu cho thấy văn học đang mở rộng biên độ phản ánh
hiện thực và bắt nhịp với hơi thở của thời đại.
Đề tài là một yếu tố nền tảng, là
cánh cửa mà qua đó văn học kết nối với hiện thực đời sống và con người. Nó cung
cấp chất liệu ban đầu và định hướng cho quá trình sáng tạo, nhưng chính chiều
sâu tư tưởng, sự độc đáo trong góc nhìn, và tài năng nghệ thuật của nhà văn
trong quá trình xử lý đề tài mới là yếu tố quyết định tạo nên giá trị, sức lay
động và tầm vóc lâu bền cho tác phẩm văn học. Đề tài là điểm hẹn của hiện thực
và sáng tạo, nơi cuộc sống được soi chiếu, khám phá và thăng hoa dưới ánh sáng
của nghệ thuật.
“Đề tài không chỉ được khơi gợi, quy
định bởi cuộc sống hiện thực mà còn luôn được xác lập bởi lập trường tư tưởng
thẩm mĩ, cách nhìn, quan niệm nghệ thuật, cá tính, tài năng sáng tạo; phụ thuộc
vào những yêu cầu của thời đại và hoàn cảnh sáng tác riêng của mỗi nhà văn.”
[26; tr 112].
2.1.1. Đề tài thiên nhiên và những khoảnh khắc thường nhật
Trong số vô vàn đề tài làm nên thế
giới văn học, thiên nhiên nổi lên như một trong những đề tài kinh điển, phổ
quát và có sức sống bền bỉ nhất qua mọi thời đại và nền văn hóa. Sự gắn bó máu
thịt của con người với môi trường tự nhiên – nguồn gốc của sự sống, không gian
sinh tồn, nguồn cảm hứng thẩm mỹ và nơi neo đậu cảm xúc – giải thích cho vị thế
trung tâm này. Thiên nhiên trong văn học không chỉ là bối cảnh cho cuộc đời con
người mà còn là nguồn cung cấp vô tận hình ảnh, biểu tượng, và là tấm gương soi
chiếu nội tâm, tư tưởng, và cả những vấn đề xã hội của con người.
Tuy chỉ là một trong vô vàn đề tài
làm nên bức tranh văn học, thiên nhiên luôn giữ vị trí đặc biệt, có sức sống bền
bỉ và là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn cho các thế hệ nhà văn qua mọi thời đại
và nền văn hóa. Mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên không chỉ là sự
tương tác vật lý hay không gian sinh tồn đơn thuần, mà là một mối giao cảm sâu
xa, một sợi dây liên kết nguyên thủy định hình nên cảm xúc, tư tưởng và cả thân
phận con người.
Sự quan tâm sâu sắc của văn học đối
với thiên nhiên bắt nguồn từ nhiều tầng nghĩa. Trước hết, thiên nhiên là cội
nguồn của sự sống, là không gian nguyên sơ nơi con người tìm thấy bản thân và
chiêm nghiệm về sự tồn tại. Vẻ đẹp kỳ vĩ của núi non, sự mênh mông của biển cả,
vẻ dịu dàng của cánh đồng, hay sự khắc nghiệt của bão tố đều gợi lên trong con
người những cung bậc cảm xúc đa dạng, từ kinh ngạc, sợ hãi, đến bình yên, suy
tư về vị trí của mình trong vũ trụ rộng lớn.
Vì lẽ đó, thiên nhiên trong văn học
vượt xa vai trò làm bối cảnh hay phông nền cho câu chuyện. Nó thường được nâng
lên thành một hệ thống biểu tượng đồ sộ, nơi mỗi yếu tố – cây cỏ, dòng sông, ngọn
gió, tia nắng, mưa, tuyết – đều mang trong mình những ý nghĩa ẩn dụ về cuộc đời,
thân phận, tình yêu, cái chết, hay những vấn đề triết lý sâu xa. Thiên nhiên có
thể trở thành tấm gương soi chiếu nội tâm nhân vật (như trong thủ pháp 'cảnh ngụ
tình', khi tâm trạng con người hòa quyện vào cảnh vật), một "nhân vật"
đầy sức mạnh và ý chí riêng (thiên nhiên đối kháng trong các tác phẩm phiêu
lưu, sinh tồn), hay một nguồn minh triết sâu xa, nơi con người tìm kiếm sự hài
hòa, chân lý và giải thoát khỏi những ràng buộc của đời sống xã hội. Nó là nơi
con người chiêm nghiệm về vòng tuần hoàn sinh diệt, về sự phù du của kiếp người
đối lập với sự vĩnh cửu, bao dung nhưng cũng đầy bí ẩn của vũ trụ.
Cách thiên nhiên được khắc họa trong
văn học không đứng yên mà luôn dịch chuyển, phản ánh mối quan hệ không ngừng
thay đổi giữa con người và thế giới tự nhiên qua các kỷ nguyên lịch sử và tư tưởng.
Từ sự hòa hợp, tuẫn theo tự nhiên trong các nền văn minh nông nghiệp cổ xưa, đến
sự bùng nổ tôn vinh cái siêu việt, nguồn cảm hứng vô biên trong thời kỳ Lãng mạn
khi con người đối diện với cách mạng công nghiệp và tìm cách thoát ly khỏi gò
bó xã hội. Sau đó là cái nhìn lạnh lùng, khắc nghiệt, xem thiên nhiên như một yếu
tố quyết định số phận trong chủ nghĩa Tự nhiên, hay sự đoạn tuyệt, lãng quên
thiên nhiên trong bối cảnh đô thị hóa ào ạt của văn học hiện đại đầu thế kỷ 20.
Trong văn học đương đại ngày nay, đề
tài thiên nhiên lại mang một sắc thái mới đầy tính thời sự và cấp bách. Nó
không chỉ là vẻ đẹp để ngắm nhìn, mà còn là đối tượng của nỗi lo âu sâu sắc trước
khủng hoảng môi trường toàn cầu, biến đổi khí hậu, sự mất mát đa dạng sinh học,
và sự xa lạ, đứt gãy giữa con người hiện đại với thế giới tự nhiên hoang dã.
Thiên nhiên trong văn học đương đại có thể xuất hiện như một nạn nhân cần được
bảo vệ, một tiếng chuông cảnh tỉnh về sự hủy diệt, hay một lời nhắc nhở da diết
về vẻ đẹp và sự mong manh của sự sống trên hành tinh. Ngay cả thiên nhiên đô thị,
với những mảng xanh ít ỏi, những con kênh ô nhiễm, những sinh vật vật lộn để tồn
tại giữa không gian nhân tạo, cũng trở thành một đề tài để khám phá mối quan hệ
phức tạp giữa con người và môi trường trong chính không gian sống hàng ngày.
Cách nhà văn khai thác đề tài thiên
nhiên cũng định hình nên phong cách và ngôn ngữ của tác phẩm – từ những câu
thơ, câu văn giàu chất tạo hình, mĩ lệ, bay bổng khi miêu tả vẻ đẹp, đến ngôn
ngữ sắc lạnh, dữ dội khi nói về sự khắc nghiệt, hay sự kết hợp các thuật ngữ
khoa học khi đề cập đến các vấn đề môi trường hiện đại.
Chính sự nhào nặn và đào sâu, đề tài
thiên nhiên không bao giờ cũ hay cạn kiệt. Nó tiếp tục là một nguồn mạch vô tận
để văn học khám phá không chỉ vẻ đẹp và sự bí ẩn của thế giới bên ngoài, mà còn
những chiều sâu của tâm hồn, tư tưởng và những vấn đề cốt lõi của con người
trong mối liên hệ biện chứng với "ngôi nhà chung" của mình. Qua cách
các nhà văn viết về thiên nhiên, ta không chỉ thấy vẻ đẹp muôn hình vạn trạng của
thế giới tự nhiên mà còn hiểu thêm về con người, thời đại, và những thay đổi
trong nhận thức, trách nhiệm và cảm quan của nhân loại trước vẻ đẹp vĩnh cửu và
sự mong manh của thế giới tự nhiên. Đề tài thiên nhiên, vì thế, luôn là một tấm
gương vĩ đại phản chiếu không chỉ vũ trụ mà còn là chính bản thân chúng ta, tiếp
tục là một dòng chảy quan trọng nuôi dưỡng và làm giàu có thêm dòng chảy văn học.
Cách thiên nhiên được khắc họa trong
văn học vô cùng đa dạng, phản ánh góc nhìn và cảm quan của nhà văn qua từng thời
kỳ. Nó có thể là phông nền tươi đẹp hoặc khắc nghiệt cho câu chuyện; là biểu tượng
cho cái đẹp tuyệt đối, sức mạnh nguyên sơ, hoặc sự vô thường của đời sống; là tấm
gương phản chiếu tâm trạng con người (thủ pháp tả cảnh ngụ tình); là một thế lực
đối kháng đầy thách thức buộc con người phải đấu tranh sinh tồn; là nguồn cảm hứng
triết học, nơi con người tìm kiếm sự hài hòa, chân lý; hay trong bối cảnh đương
đại, là đối tượng bị tổn thương bởi tác động của con người, gợi lên ý thức về
môi trường và sự mất kết nối giữa con người hiện đại và thế giới tự nhiên.
Cảm thức về thiên nhiên trong văn học
không đứng yên mà luôn vận động cùng dòng chảy lịch sử, tư tưởng và sự phát triển
khoa học. Nếu như trong văn học cổ, thiên nhiên thường xuất hiện với tính ước lệ,
là biểu tượng cho trật tự vũ trụ hoặc là đối tượng để tuẫn theo, thì đến thời kỳ
Lãng mạn, nó bùng nổ như một nguồn cảm xúc mãnh liệt, biểu tượng cho cái siêu
việt, là nơi con người giải thoát khỏi gò bó xã hội. Văn học hiện thực và tự
nhiên sau đó lại nhìn thiên nhiên dưới góc độ khắc nghiệt, vô cảm, là yếu tố
quyết định số phận. Ngày nay, bên cạnh việc khai thác vẻ đẹp và sự bí ẩn, đề
tài thiên nhiên còn gắn chặt với mối lo ngại về khủng hoảng môi trường, sự mất
đa dạng sinh học, hay vẻ đẹp tiềm ẩn trong chính thiên nhiên đô thị bị lãng
quên.
Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào, đề
tài thiên nhiên vẫn luôn là một mảnh đất màu mỡ cho sự sáng tạo. Nó không chỉ
giúp văn học tái hiện sinh động thế giới vật chất mà còn là phương tiện hiệu quả
để khám phá những chiều sâu tâm hồn, tư tưởng và mối quan hệ phức tạp giữa con
người với môi trường sống của mình. Qua cách các nhà văn khai thác đề tài thiên
nhiên, ta không chỉ thấy vẻ đẹp muôn hình vạn trạng của thế giới tự nhiên mà
còn hiểu thêm về con người và thời đại mà họ đang sống, về những biến chuyển
trong nhận thức và cảm quan của nhân loại trước "ngôi nhà chung" của
mình. Đề tài thiên nhiên vì thế luôn mang tính thời sự và vĩnh cửu, tiếp tục là
nguồn mạch quan trọng nuôi dưỡng dòng chảy văn học.
Thơ ba câu của Mai Văn Phấn đã nhận
được sự chú ý đáng kể và nhìn chung là những đánh giá rất tích cực từ giới phê
bình và độc giả trong và ngoài nước, được xem là một đóng góp đặc sắc cho diện
mạo thơ đương đại. Các nhận xét đều nhấn mạnh khả năng phi thường của ông trong
việc làm chủ hình thức cực kỳ cô đọng này, nén chặt ý tưởng, cảm xúc và hình ảnh
vào chỉ ba dòng, tạo nên tính hàm súc và sức nặng đáng kinh ngạc. Chiều sâu triết
học, những suy nghiệm về tồn tại, thời gian và vũ trụ được chuyên chở hiệu quả
thông qua hệ thống hình ảnh độc đáo, lạ hóa, đôi khi siêu thực, và ngôn ngữ tạo
hình sắc bén, giàu sức gợi mở. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính tối giản
hình thức, chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong thi pháp này làm cho thơ ông
không chỉ cô đọng mà còn đa tầng ý nghĩa, kích thích mạnh mẽ sự liên tưởng và
tư duy của người đọc. Thơ ba câu của Mai Văn Phấn được coi là một thể nghiệm
nghệ thuật thành công, thể hiện tinh thần thực nghiệm bền bỉ của ông và góp phần
khẳng định tiềm năng biểu đạt của ngôn ngữ tiếng Việt trong khuôn khổ tối giản.
Mặc dù tính hàm súc cao đôi khi đòi hỏi sự nỗ lực nhất định từ phía người đọc để
tiếp cận, nhưng điều này thường được xem là đặc trưng thi pháp, mời gọi sự tham
gia chủ động vào quá trình kiến tạo ý nghĩa. Tóm lại, thơ ba câu của Mai Văn Phấn
được đánh giá là một thành tựu nghệ thuật tiêu biểu, minh chứng cho tài năng
làm chủ hình thức, chiều sâu tư tưởng và khả năng sáng tạo độc đáo, góp phần định
vị ông như một trong những nhà thơ tiên phong và quan trọng của nền thơ đương đại.
Với Mai Văn Phấn, quan niệm nghệ thuật
của ông xuất phát từ cái đẹp tựa văn học muôn đời ba yếu tố chân - thiện - mỹ.
Đề tài thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận của nghệ thuật và quá trình sáng tạo,
đây là một đề tài quen thuộc nhưng vẫn là mảnh đất giàu phù sa cần người đào xới
khai thác một cách triệt để. Mọi hình ảnh sự vật trong thơ Mai Văn Phấn như
căng tràn sức sống của sự chuyển động thể hiện bản ngã được nhà thơ kí hoạ
trong mình.
Cây ở nghĩa trang
Lắc lư nhiều hướng
Lá nửa non
Nửa già
(Thả - Mai Văn Phấn)
“Trong thế giới tự nhiên bao la rộng
lớn với muôn loài động, thực vật, vẫn theo lẽ tự nhiên tồn tại từ đời xa xưa
khi tổ tiên chúng ta sống, hay hiện giờ chúng ta có thể nhận biết được những gì
xung quanh chúng ta. Nếu chúng ta nhìn nhận sự việc một cách đơn giản, chỉ nhận
biết bản thân của nó dựa vào bề ngoài hay những thuộc tính biểu hiện vốn có của
nó thì không thể nào có chuyện gọi là nghệ thuật được. Từ đó phải biết khi
chúng ta nhìn vào một đối tượng thì chúng ta tự hỏi xem vật đó là gì? Chứ ít ai
nghĩ đến nó được làm ra hay xuất phát từ đâu? Vậy thì cái đẹp của nó là gì?” [7,
tr 1].
Việc quan sát một cái cây trong
nghĩa trang nơi yên nghỉ của những người đã khuất tạo ra sự tương phản mạnh mẽ
giữa sự tĩnh lặng của cái chết và sự sống động của tự nhiên. Hình ảnh cây “ lắc
lư nhiều hướng” cho thấy sức sống, sự thích nghi và kiên cường của cây trước
môi trường xung quanh dẫu đó là nơi gắn liền với sự kết thúc. Hình ảnh cây hiện
lên với sức sống mãnh liệt dẫu bất cứ đâu thiên nhiên vẫn mang đến sự hiện diện
khơi dậy niềm tin và sự u uất cho nơi đây. Thậm chí, chỉ một vài câu thơ qua đó
người đọc cũng cảm nhận được nhịp nhở của sự sống, hành trình trưởng thành hay
chính là cả một kiếp người.
Sự đối lập giữa “ lá nửa non/ Nửa
già” trong chính trong cùng một thời điểm mang đến sức gợi không chỉ mô tả một
giai đoạn phát triển cụ thể của cây mà còn tượng trưng cho dòng chảy không ngừng
của thời gian và quy luật sinh tồn. Lá non đại diện cho sự khởi đầu, sức sống mới,
trong khi lá già gợi đến sự trưởng thành, sự trải qua và cả sự tàn lụi. Sự tồn
tại đồng thời của cả hai trạng thái này trên cùng một cây có thể liên tưởng đến
như một sự hoà hợp của các giai đoạn khác nhau của cuộc đời, giữa sự sống và
cái chết.
Bối cảnh nghĩa trang là nền tảng tạo
thêm vào một lớp suy tư về sự hữu hạn của cuộc đời. Sự hữu hạn này được đặt cạnh
vòng đời tự nhiên của cây, tạo ra một liên kết mạnh mẽ giữa chu kỳ của tự nhiên
và sự tồn tại của con người. Cây cối, với khả năng tái sinh và phát triển qua
nhiều năm, có thể được xem như một biểu tượng của sự tiếp nối và vĩnh cửu,
trong khi nghĩa trang nhắc nhở về điểm dừng cuối cùng của mỗi cá nhân. Sự đặt cạnh
này không chỉ gợi lên sự suy ngẫm về sự hữu hạn mà còn có thể mang đến một cảm
giác an ủi, rằng cuộc sống và cái chết là những phần không thể tách rời của một
vòng tuần hoàn lớn hơn trong tự nhiên. Thiên nhiên - một mảnh ghép không thể tách rời trong cuộc sống
và chính nó cũng là phương diện thể hiện ẩn thân của cảm xúc con người, thông
qua việc lựa chọn đề tài Mai Văn Phấn đã đưa đến cho độc giả một ánh nhìn mới mẻ
của thiên nhiên qua lăng kính sát sao của mình.
Nơi đầu gió
Vàng mã bén lửa
Gió giật vội
Mang đi
(Thả - Mai Văn Phấn)
Bài thơ gói gọn giây phút đặc biệt
khi cơn gió vội vút qua một sự tương tác giữa nghi lễ của con người và sức mạnh
của thiên nhiên.Việc "vàng mã bén lửa" gợi lên hình ảnh một nghi thức
cúng tế, một hành động thường mang ý nghĩa tâm linh hoặc tưởng nhớ. Tuy nhiên,
sự xuất hiện đột ngột của gió "gió giật vội" và hành động "mang
đi" lại nhấn mạnh tính chất nhất thời, phù du của cả vật phẩm và hành động.
Gió - hiện tượng tự nhiên được đưa vào bài thơ thông qua sự lồng ghép tuy nhiên
đó chưa hẳn là ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm mà còn mang đến sự tác động tự
nhiên và con người luôn song hành tồn tại ảnh hưởng đến hoạt động của con người.
Gió như muốn mang đi sự thương nhớ những người đã khuất nhanh hơn vội vã hơn
qua hành động. Tình yêu thương được gửi vào gió mang đi thật xa thật xa tới tận
chân trời.
Nổi gió
Vàng mã cháy nhanh
Tàn tro
Rải khắp cánh đồng
(Thả - Mai Văn Phấn)
Tương tự với bài thơ trước ở bài Nổi
gió vẫn tiếp tục khai thác chủ đề về thiên nhiên hình tượng gió vẫn được tiếp tục
khai thác triệt để cùng hoạt động con người hoà quyện tạo nên cảnh sắc man mác
buồn. Vàng mã mang đến cảm giác sự bi thương còn đọng lại trong sâu thẳm khi trải
qua sự chia xa. Nhờ việc tác giả chỉ ra sự mạnh mẽ của gió và tính chất nhanh
chóng của ngọn lửa và sự lan toả của tro tàn hoàn toàn phù hợp với khung cảnh của
bài thơ.Thật vậy, sự tập trung vào một khoảnh khắc thoáng qua, một sự kiện cụ
thể trong tự nhiên và gợi lên những suy ngẫm sâu xa là đặc trưng trong thơ của
ông. Điểm nhấn về "sức mạnh của gió" trong câu "Nổi gió"
cho thấy một sự tác động mạnh mẽ từ thế giới tự nhiên, một yếu tố thường được
Mai Văn Phấn quan sát và đưa vào thơ. Tính "nhanh chóng" của ngọn lửa
vàng mã cũng phản ánh sự tức thời của khoảnh khắc điều mà chắc hẳn khó có ai
quan sát chi tiết được như Mai Văn Phấn.
Bình minh
Đánh thức
Con nhện nước
Giữa hoa sen
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
Thiên nhiên luôn mang đến sự trong
trẻo, tinh khôi trong quá trình khai thác tìm hiểu dễ dàng để thi sĩ gửi gắm những
nỗi niềm tâm tư thông qua hình tượng nghệ thuật ấy. “ Bình minh” thời gian đầu
tiên khi những ánh nắng bắt đầu hừng sáng khởi đầu cho sự sống mới được diễn
ra. Những hình ảnh đời thường đẹp, tĩnh lặng ít được chú ý trong văn thơ cùng
thời lại được tác giả dành sự quan tâm đặc biệt bởi sự nhẹ nhàng trong sáng của
đoá sen được đặt làm trung tâm. Với đặc trưng ba câu sức chưa chỉ 8 từ nhưng
khai mở một khung cảnh nên thơ đòi hỏi độc giả phải say và đắm. Bức tranh bình
minh trên hoa sen với con nhện nước mang đến một cảm giác yên bình và sâu lắng,
một trạng thái thường được tìm thấy trong những quan sát tinh tế về thiên
nhiên.
Ngày mới
Hừng đông
Miệng chim non
Hớp những đám mây
(Thả - Mai Văn Phấn)
Cùng khung cảnh ấy tác giả lại quan
sát qua lắng kính mới từ trên cao với hình ảnh thiên nhiên hừng đông qua những
tán cây với chim non đang đưa miệng chờ món ăn ngày mới và cả những đám mây lơ
lửng còn say ngất ngủ nồng. Đề tài thiên nhiên chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu
trong thơ Mai Văn Phấn thông qua những khoảnh khắc thường nhật với nhiều góc độ
quan sát khác nhau.
Đề tài thiên nhiên và những khoảnh
khắc thường nhật đã một phần khắc hoạ thời gian tâm lý được tác giả gửi gắm. Với
phong cách sáng tác chú tâm vào giai đoạn thời gian ngắn cùng sự đa dạng của
các hình ảnh tự nhiên cho thấy sự gắn bó sâu sắc với thế giới tự nhiên như một
nguồn cảm hứng thơ ca khám phá chủ đề. Số lượng lớn các chủ đề tự nhiên, từ côn
trùng đến phong cảnh, cho thấy sự quan sát toàn diện về môi trường, ngụ ý rằng
thiên nhiên là một lăng kính trung tâm mà qua đó Mai Văn Phấn khám phá các chủ
đề rộng lớn hơn. Sự tập trung của Mai Văn Phấn vào các chi tiết nhỏ trong thiên
nhiên cho thấy một con mắt quan sát tinh tường và một sự quan tâm tiềm ẩn đến
việc tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc trong những khía cạnh bình thường của thế giới tự
nhiên như giọt sương hoặc chuyển động cánh của con bướm, khoảnh khắc trời hừng
nắng, gió vút đi, con chim mới bay,lá rơi, cây lim, đồi, hoa ở Côn Sơn,… chứng
minh sự tập trung vào những khía cạnh nhỏ bé và thường bị bỏ qua của thiên
nhiên, ngụ ý rằng những quan sát nhỏ này mang ý nghĩa hoặc phản ánh những chân
lý rộng mở đằng sau sự tĩnh lặng yên bình của nó.
Trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, đề
tài thiên nhiên và khoảnh khắc thường nhật không tồn tại độc lập mà hòa quyện
chặt chẽ, trở thành chất liệu nền tảng để ông kiến tạo nên những suy tưởng sâu
sắc và đầy bất ngờ. Ông thường bắt đầu từ những quan sát giản dị, những chi tiết
nhỏ bé, tưởng chừng như bình phàm của thế giới tự nhiên quanh ta: một chiếc lá
rơi, một hòn đá bên đường, ánh sáng hắt qua kẽ lá, giọt mưa đọng lại, tiếng
chim hót thoáng qua. Đây chính là những "khoảnh khắc thường nhật" của
thiên nhiên, những mảnh vụn của hiện thực cụ thể mà ta có thể dễ dàng bắt gặp
trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, thay vì dừng lại ở việc mô tả hay thể hiện
cảm xúc trực tiếp trước những chi tiết này, Mai Văn Phấn sử dụng chúng như những
điểm kích hoạt, những cánh cửa đột ngột mở ra không gian triết lý, siêu hình. Một
chiếc lá rơi không chỉ là dấu hiệu của mùa thu, mà có thể là biểu tượng cho sự
phù du, sự biến đổi của thời gian, hay quy luật sinh diệt của vũ trụ. Ánh sáng
không chỉ là vật lý, mà là biểu tượng cho nhận thức, sự tồn tại hay bản chất của
hiện thực. Sự giao thoa giữa khoảnh khắc thiên nhiên thường nhật và suy tưởng
sâu xa này diễn ra một cách sắc bén, dồn nén trong khuôn khổ ba dòng thơ. Chính
sự hạn chế về không gian buộc nhà thơ phải ghép nối những yếu tố tưởng chừng xa
lạ (một chi tiết tự nhiên cụ thể + một ý niệm triết lý/siêu hình) một cách cô đọng
nhất, tạo nên hiệu ứng bất ngờ, giàu sức gợi mở và đa tầng ý nghĩa. Thơ ông
không giải thích, mà trình bày sự va đập giữa cái thường nhật, cái hữu hình
(thiên nhiên) và cái trừu tượng, cái vô hình (tư tưởng). Qua những khoảnh khắc
thiên nhiên thường nhật này, Mai Văn Phấn khám phá các chủ đề về sự tương tác
giữa ý thức con người và thế giới vật chất, về tính chủ quan của nhận thức, về
sự chuyển hóa không ngừng của vạn vật. Thiên nhiên không chỉ là đối tượng để
nhìn ngắm, mà là tấm gương phản chiếu nội tâm, là một phần của chính quá trình
tư duy và cảm nhận về tồn tại. Có thể nói, trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, đề
tài thiên nhiên và khoảnh khắc thường nhật là "chất liệu thô" đầy quý
giá, được ông nhào nặn bằng tư duy sắc bén và bút pháp độc đáo để tạo nên những
"viên kim cương" ngôn ngữ - nơi vẻ đẹp giản dị của tự nhiên thường
ngày bỗng chốc mở ra những chân trời suy tưởng rộng lớn và sâu thẳm về thân phận
con người và bản chất vũ trụ. Đây là một đặc trưng làm nên phong cách riêng biệt
và tầm vóc thơ ông.
Mai Văn Phấn nâng tầm những điều
bình thường, cho thấy rằng vẻ đẹp và ý nghĩa có thể được tìm thấy trong những
khía cạnh đơn giản nhất của cuộc sống. Hành động ghi lại những khoảnh khắc dường
như không quan trọng này ngụ ý một niềm tin rằng chúng mang giá trị nội tại hoặc
có thể tiết lộ những hiểu biết sâu sắc hơn về trải nghiệm của con người hoặc bản
chất của thực tại. Các bài thơ như "Thắp hương xong / Dựa lưng / Vào ngôi
mộ bên cạnh" (Viếng mộ ông bà) và
"Thắp hương cha / Tưới xuống đất / Thành tiếng" (Ly rượu) minh hoạ sự tập trung này vào những khoảnh khắc
mang tính nghi lễ nhưng lại rất cá nhân. Những bài thơ này kết nối những hành động
hàng ngày với ý nghĩa cảm xúc hoặc tâm linh sâu sắc hơn, làm nổi bật các lớp ý
nghĩa trong những hành động dường như đơn giản. Qua đó, ta có thể thấy đề tài
thiên nhiên trong thơ ba câu Mai Văn Phấn mang chất riêng sáng tác chú trọng
vào khoảnh khắc đời thường và hiện tượng tự nhiên quen thuộc tạo cảm giác vừa gần
gũi lại vừa xa lạ mới mẻ mà thân thương.
“Thiên
nhiên là một hình tượng trong các tác phẩm văn học. Tuy nhiên trong từng thời
đại hình tượng thiên nhiên lại biểu thị một đặc điểm riêng, mang giá trị
riêng. Trong nền văn học Việt Nam, thiên nhiên là hình tượng xuyên suốt,
là cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn. Đọc những vần thơ, câu văn của
các tác giả ta dễ dàng nhận ra nét đẹp rất đặc trưng cho mỗi giai đoạn, đó là
vẻ đẹp cổ điển trong nền văn học trung đại và vẻ đẹp đa sắc màu của văn học
hiện đại.” [27; tr 3]
Nguyễn
Du đã từng viết trong văn chương ông: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
chính sự lột tả tâm trạng thông qua từng hình ảnh xuất hiện ở thiên nhiên chính
là ngọn nguồn của việc bộc lộ cảm xúc của hình tượng. Mai Văn Phấn, với những
tìm tòi sáng tạo ở thể loại "thơ ba câu", đã tạo nên một cách tiếp
cận đặc biệt trong việc miêu tả và cảm nhận thiên nhiên, khác biệt rõ rệt so
với nhiều nhà thơ đi trước và cả những người cùng thời viết thơ ngắn. Điểm đặc
trưng nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Mai Văn Phấn qua ba câu thơ là sự
tập trung vào những hình ảnh bình dị, nhỏ bé, thậm chí là vô danh của tạo hóa,
được nhìn nhận một cách khách quan và cận cảnh. Thay vì vẽ lên những bức tranh
thiên nhiên hùng vĩ, mỹ lệ mang tính ước lệ như trong thơ cổ hay Thơ mới, Mai
Văn Phấn đi sâu vào khám phá vẻ đẹp và sự vận động nội tại của những sự vật rất
đỗi đời thường: một "chồi non", "mưa bụi", "cây tầm
xuân", hay sự tồn tại của "con cá", "con chào mào".
Thiên nhiên trong thơ ông hiện lên không mang nặng tâm trạng hay cảm xúc chủ
quan của thi sĩ; nó tồn tại với bản thể riêng, quá trình sinh trưởng, vận động
tự nhiên của mình. Chẳng hạn, hình ảnh "cột buồm gãy" hay "buồng
chuối chín cây" không chỉ là vật thể mà còn gợi mở những câu chuyện về số
phận, sự sinh nở, trưởng thành của tạo vật.
Chính
từ sự tối giản và có phần "lạnh lùng" trong việc miêu tả trực tiếp sự
vật ấy, thơ ba câu của Mai Văn Phấn lại mở ra những không gian liên tưởng đa
chiều, gợi những suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lý về cuộc sống, thân phận
con người và vũ trụ. Những hình ảnh thiên nhiên nhỏ bé trở thành điểm neo để
neo đậu những ý niệm lớn lao, phức tạp. Mối liên hệ giữa thiên nhiên và con
người không phải là sự hòa quyện lãng mạn hay đối chiếu mang tính biểu tượng
truyền thống, mà là sự tương tác, thậm chí là va đập giữa bản năng tự nhiên và
ý thức, giữa cái hữu hình và cái vô hình. Quan niệm về sự sống, sự sinh sôi
được thể hiện táo bạo qua những hình ảnh như "con cá động dục lóe sáng mặt
nước" hay "đàn sẻ nâu vội vàng giao hoan chớp mắt", cho thấy một
cái nhìn trần trụi, nguyên bản về năng lượng sống của tự nhiên.
Trong
thơ truyền thống, đặc biệt là các bài tứ tuyệt Đường luật hoặc thơ Nôm, cảnh
thiên nhiên thường được nhìn qua lăng kính tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Buồn cảnh thì cảnh cũng buồn theo, vui cảnh thì cảnh cũng vui lây. Mối quan hệ
giữa con người và thiên nhiên mang tính hòa hợp, đồng điệu, trong đó thiên
nhiên đóng vai trò phông nền hoặc là "người bạn" để thi sĩ gửi gắm
tâm sự. “Thời trung đại, con
người sống dựa nhiều vào tự nhiên, khai thác tự nhiên, vì thế thiên nhiên và
con người luôn có sự tương hợp, gắn bó máu thịt. Nhìn lại những sáng tác của
các tác giả văn học trung đại ta sẽ thấy bức tranh thiên nhiên được cảm nhận ra
sao, đồng thời thấy được nét đẹp riêng biệt của mỗi một giai đoạn văn học cụ thể.”
[ 27; tr 1]
Đến
phong trào Thơ mới, cái tôi cá nhân được đề cao mạnh mẽ. Thiên nhiên càng trở
thành không gian để "cái tôi" bộc lộ cảm xúc. Cảnh vật được cảm nhận
và miêu tả không chỉ đơn thuần là ngoại cảnh mà đã thấm đẫm, nhuốm màu tâm
trạng chủ quan của nhà thơ. Nỗi buồn, cô đơn, tình yêu, hay sự bâng khuâng thường
được thể hiện qua những hình ảnh của chiều thu, lá rụng, dòng sông trôi, ánh
trăng... Phong
trào Thơ mới, tuy phá bỏ nhiều niêm luật cũ, vẫn kế thừa và biến tấu một số
hình ảnh ước lệ, đồng thời tạo ra những biểu tượng mới gắn với cảm quan hiện
đại hơn. Tuy nhiên, xu hướng sử dụng các hình ảnh thiên nhiên quen thuộc
(trăng, hoa, liễu, mây, sương khói, dòng sông, cánh đồng...) để gợi cảm xúc,
tình cảm vẫn rất phổ biến và mang tính tượng trưng cao cho các trạng thái tâm
hồn. có thể
thấy rằng, đối với nhiều nhà thơ truyền thống và Thơ mới, thiên nhiên trong thơ
ngắn chủ yếu phục vụ cho việc bộc lộ và phản chiếu thế giới nội tâm con người
thông qua hệ thống hình ảnh mang tính ước lệ và biểu tượng. Điều này tạo nên sự
khác biệt cơ bản với cách Mai Văn Phấn trong thơ ba câu tiếp cận thiên nhiên
như một thực thể độc lập, tự thân vận động, từ đó gợi mở những suy ngẫm đa
tầng, vượt ra ngoài khuôn khổ của cảm xúc cá nhân hay các biểu tượng quen
thuộc.
Điểm đặc trưng nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của
Mai Văn Phấn qua ba câu thơ là sự tập trung vào những hình ảnh bình dị, nhỏ bé,
thậm chí là vô danh của tạo hóa, được nhìn nhận một cách khách quan và cận
cảnh. Thay vì vẽ lên những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mỹ lệ mang tính ước
lệ như trong thơ cổ hay Thơ mới, Mai Văn Phấn đi sâu vào khám phá vẻ đẹp và sự
vận động nội tại của những sự vật rất đỗi đời thường: một "chồi non",
"mưa bụi", "cây tầm xuân", hay sự tồn tại của "con
cá", "con chào mào". Thiên nhiên trong thơ ông hiện lên không
mang nặng tâm trạng hay cảm xúc chủ quan của thi sĩ; nó tồn tại với bản thể
riêng, quá trình sinh trưởng, vận động tự nhiên của mình. Chẳng hạn, hình ảnh
"cột buồm gãy" hay "buồng chuối chín cây" không chỉ là vật
thể mà còn gợi mở những câu chuyện về số phận, sự sinh nở, trưởng thành của tạo
vật. Chính từ sự tối giản và có phần "lạnh lùng"
trong việc miêu tả trực tiếp sự vật ấy, thơ ba câu của Mai Văn Phấn lại mở ra
những không gian liên tưởng đa chiều, gợi những suy ngẫm sâu sắc mang tính
triết lý về cuộc sống, thân phận con người và vũ trụ. Những hình ảnh thiên
nhiên nhỏ bé trở thành điểm neo để neo đậu những ý niệm lớn lao, phức tạp. Mối
liên hệ giữa thiên nhiên và con người không phải là sự hòa quyện lãng mạn hay
đối chiếu mang tính biểu tượng truyền thống, mà là sự tương tác, thậm chí là va
đập giữa bản năng tự nhiên và ý thức, giữa cái hữu hình và cái vô hình. Quan
niệm về sự sống, sự sinh sôi được thể hiện táo bạo qua những hình ảnh như
"con cá động dục lóe sáng mặt nước" hay "đàn sẻ nâu vội vàng
giao hoan chớp mắt", cho thấy một cái nhìn trần trụi, nguyên bản về năng
lượng sống của tự nhiên.
Các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới
hay các nhà thơ truyền thống khi viết về thiên nhiên trong những bài thơ ngắn
(như tứ tuyệt, hay những đoạn thơ lục bát, năm chữ ngắn gọn) thường khắc họa
thiên nhiên gắn liền với tâm trạng, cảm xúc cá nhân (buồn, vui, cô đơn,
yêu đời) và sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, tượng
trưng (trăng, hoa, liễu, mây khói). Cảnh vật thiên nhiên thường là phông nền
để bộc lộ thế giới nội tâm con người. Với những nhà thơ chịu ảnh hưởng của
Haiku Nhật Bản, họ cũng tập trung vào ghi nhận khoảnh khắc hiện tại của thiên
nhiên và hướng đến sự tĩnh tại, hài hòa, gợi không khí thiền định. Tuy nhiên,
Haiku truyền thống có những quy tắc chặt chẽ về cấu trúc âm tiết và quý ngữ chỉ
mùa, trong khi thơ ba câu của Mai Văn Phấn linh hoạt hơn về hình thức và thường
mang tham vọng gợi mở những tầng nghĩa sâu xa hơn vượt ra ngoài việc chỉ đơn
thuần ghi lại một khoảnh khắc hay cảm nhận thiền tịnh. Dù một số nhà thơ đương
đại khác như Nguyễn Anh Nông cũng thử nghiệm với thơ ngắn, thơ ba câu, cách thức
Mai Văn Phấn kết hợp hình ảnh thiên nhiên tối giản với chiều sâu triết lý và
tính đa nghĩa trong đúng ba dòng thơ tạo nên một bút pháp độc đáo, gần gũi với
tinh thần của nghệ thuật sắp đặt hiện đại. cách miêu tả thiên nhiên trong thơ
ba câu của Mai Văn Phấn là một sự phá cách. Ông rời bỏ lối miêu tả ước lệ, chủ
quan quen thuộc để tìm đến những hình ảnh thiên nhiên bình dị, khách quan, và sử
dụng cấu trúc ba câu thơ tối giản làm đòn bẩy để bật mở những suy tư phức tạp về
bản thể, sự sống và mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên ở một chiều
kích mới mẻ và giàu tính gợi.
2.1.2. Đề tài con người và ký ức
Con người luôn
là trung tâm của sự khai phá đào sâu sáng tạo văn học. Con người trong văn học mang
hình ảnh đại diện cho cái chung cái đồng cảm của một thế hệ người. Người trong
thơ Mai Văn Phấn ẩn mình sau hình tượng em, tôi, cha , bà, mẹ,… không xuất hiện
một cách trực tiếp mà lột tả qua hình ảnh đại diện trong câu thơ.
Chủ đề "con người" luôn chiếm
vị trí quan trọng hàng đầu trong thơ ca muôn đời, song cách các nhà thơ nhìn nhận,
khắc họa và đặt con người trong mối quan hệ với thế giới lại vô cùng đa dạng, đặc
biệt khi so sánh Mai Văn Phấn với các phong trào thơ trước đó. Trong thơ truyền
thống và phong trào Thơ mới, con người thường hiện diện với vị thế là chủ thể
trữ tình nổi bật, là trung tâm của cảm xúc và nhận thức; họ hòa mình vào thiên
nhiên, coi thiên nhiên là bạn tri âm hay phông nền để bộc lộ trực tiếp những buồn
vui, suy tư về đạo lý, lẽ đời thông qua một "cái tôi" rõ nét cùng hệ
thống hình ảnh ước lệ quen thuộc. Tuy nhiên, trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn,
hình ảnh con người thường xuất hiện một cách khác biệt, phù hợp với tinh thần tối
giản và đa nghĩa của thể loại: con người không phải lúc nào cũng nghiễm nhiên
là trung tâm mà đôi khi chỉ là một yếu tố thoáng qua, một phần tử trong bức
tranh rộng lớn của thế giới tự nhiên, hiện diện một cách mờ hóa, phân mảnh qua
một lát cắt hành động hay một trạng thái cô đọng. Mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên cũng không còn là sự hòa hợp lãng mạn thông thường mà là sự tương
tác bất ngờ, chạm đến những vấn đề mang tính bản năng, nguyên thủy, hoặc sự
tương thông ở cấp độ tồn tại. Chính sự dịch chuyển vị trí và cách khắc họa con
người một cách "phi trung tâm hóa", đặt họ ngang hàng với vạn vật và
khám phá mối tương quan mới mẻ, độc đáo với tự nhiên qua ngôn ngữ tối giản, đã
mang đến cho thơ ba câu của Mai Văn Phấn một chiều sâu chiêm nghiệm hiện sinh,
triết lý về thân phận con người trong vũ trụ, tạo nên nét đặc sắc so với cách
miêu tả con người trong các dòng thơ truyền thống và Thơ mới.
Trong thơ truyền thống và phong trào
Thơ mới, con người thường hiện lên với vị thế là chủ thể trữ tình rõ nét, là
trung tâm của cảm xúc và nhận thức. Con người "hòa mình" vào thiên
nhiên, coi thiên nhiên là bạn tri âm, là tấm phông để giãi bày tâm sự, hoặc là
đối tượng để chiêm ngưỡng, suy ngẫm về cuộc đời một cách trực tiếp. Mối quan hệ
giữa con người và thiên nhiên thường là sự tương giao, đồng điệu (buồn trông
phong cảnh hẩm hiu) hoặc đối lập để làm nổi bật thân phận (người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ). Cái tôi trong thơ truyền thống có thể ẩn mình qua các điển cố,
điển tích hay hình tượng ước lệ, còn cái tôi trong Thơ mới lại bộc lộ một cách
trực diện, đầy cảm xúc, thậm chí là phơi trải những rung động cá nhân trước
thiên nhiên và cuộc đời.
Tuy nhiên, trong thơ ba câu của Mai
Văn Phấn, hình ảnh con người thường xuất hiện một cách khác lạ hơn, phù hợp với
tinh thần tối giản và đa nghĩa của thể loại này. Con người có thể không phải là
chủ thể trữ tình rõ nét, mà đôi khi chỉ là một yếu tố xuất hiện thoáng qua, một
phần tử trong bức tranh rộng lớn của thế giới, tương đương với các sự vật tự
nhiên khác. Thay vì một "cái tôi" lớn lao chiêm ngưỡng hay giãi bày,
ta có thể bắt gặp những dáng hình, hành động hay trạng thái mang tính phiếm chỉ
("người đàn bà mang thai đi qua") hoặc một cái tôi ẩn mình, quan sát
("Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ" trong bài "Con chào
mào").
Con người trong thơ Mai Văn Phấn thường
được đặt trong mối tương quan bất ngờ, thậm chí có phần "lạ hóa" với
thiên nhiên, không còn là sự hòa hợp quen thuộc. Mối quan hệ này có thể là sự
va chạm giữa ý định chủ quan của con người và quy luật tự nhiên (ý định
"nhốt" chim chào mào đối lập với sự tự do của nó), sự đối diện giữa
con người và bản năng nguyên thủy của tạo hóa (quan sát "cá động dục"),
hoặc sự hòa quyện ở một cấp độ khác, mang tính bản thể, sinh hóa ("Yêu
nhau. / Đất rùng mình. Sông chảy. / Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung").
Do tính chất cô đọng của thơ ba câu,
chân dung con người không được phác họa đầy đủ mà thường chỉ hiện ra qua một
lát cắt, một khoảnh khắc, một hành động đơn lẻ, nhưng lại mang sức gợi lớn về
trạng thái tồn tại, những chiêm nghiệm thầm kín, hoặc mối liên hệ sâu sắc (đôi khi
là vô thức) với thế giới xung quanh. Con người không chỉ là chủ thể cảm xúc mà
còn là đối tượng được chiêm nghiệm, đặt trong bối cảnh vận động không ngừng của
vũ trụ và tự nhiên.
Trong khi thơ truyền thống và Thơ mới
thường đặt con người vào vị trí trung tâm cảm xúc hoặc hòa mình vào thiên nhiên
quen thuộc, thơ ba câu của Mai Văn Phấn lại có xu hướng "giải trung
tâm" hình ảnh con người, đặt con người như một yếu tố ngang hàng với các sự
vật tự nhiên, khám phá mối tương quan mới mẻ, bất ngờ giữa con người và thiên
nhiên qua những lát cắt hình ảnh và ngôn ngữ tối giản, từ đó gợi mở những suy
tư hiện sinh, triết lý về thân phận và sự tồn tại của con người trong một thế
giới luôn dịch chuyển.
Mặc dù các bài
thơ thường tập trung vào những quan sát bên ngoài, nhưng qua đó cũng có thể gợi
mở sức liên tưởng về những cảm xúc nội tâm và trạng thái tâm lý. "Nhìn lâu / Chiếc đèn lồng / Nỗi cô đơn
hình lục giác" (Hoa Giấu Mặt) liên
kết trực tiếp một đối tượng bên ngoài với một cảm xúc bên trong theo một cách độc
đáo và gợi cảm. Sự mô tả khác thường về nỗi cô đơn như một hình lục giác cho thấy
một cảm giác phức tạp và có lẽ là cô lập. Hình dạng hình học cụ thể được gán
cho nỗi cô đơn làm cho cảm xúc trở nên hữu hình hơn và gợi ý một cảm giác cô lập
có cấu trúc, có lẽ là cứng nhắc. Phong cách tối giản tổng thể và "khoảng
trống giữa những đoạn ba câu" (Phạm
Xuân Nguyên đề cập) mời gọi người đọc diễn giải và phản ánh về những cảm xúc của
riêng họ. Bản chất mở của các bài thơ khuyến khích một trải nghiệm đọc cá nhân
và hướng nội. Việc sử dụng có chủ ý không gian và ngôn ngữ tối thiểu cho phép
người đọc phóng chiếu những cảm xúc và trải nghiệm của riêng họ vào các bài
thơ, khiến việc khám phá cảm xúc trở thành một quá trình hợp tác giữa nhà thơ
và người đọc.
Hình tượng tôi trong bài thơ xuất hiện
ngay từ chính nhan đề bài thơ một cách trực tiếp lột tả câu chuyện qua hình ảnh
ngồi thu mình trên ghế với trời và mây. "Tôi": Sự xuất hiện của nhân
vật "Tôi" ngay đầu bài thơ đặt trọng tâm vào trải nghiệm cá nhân, một
đặc điểm thường thấy trong thơ trữ tình và cũng phù hợp với xu hướng khám phá
thế giới nội tâm trong thơ Mai Văn Phấn. Hành động “thu mình”: gợi lên một cảm
giác như ngại ngần khép mình vào trong. "Vẽ bầu trời" không chỉ là sự
sáng tạo đơn thuần mà còn là biểu hiện của việc kiến tạo một thế giới tinh thần.
Chi tiết đắt giá "Không có chỗ cho mây" mang tính biểu tượng cao nếu mây thường tượng trưng cho những muộn phiền,
lo toan, khó khăn trong cuộc sống, thì việc loại bỏ chúng khỏi bức vẽ bầu trời
của mình cho thấy một khát khao mạnh mẽ về sự thanh lọc tâm hồn, tìm kiếm sự
bình yên, trong sáng tuyệt đối. Đây là hành động có ý thức nhằm kiểm soát và bảo
vệ không gian tinh thần khỏi những yếu tố tiêu cực. Bài thơ càng nhấn mạnh vẻ đẹp
kín đáo, sự mong manh và nhu cầu được che chở, vun đắp cho thế giới nội tại,
nơi mà sự bình yên không mây không chỉ là ước mơ mà còn là một sự lựa chọn. Việc
dẫn dắt con người làm đề tài chính cho tác phẩm văn chương của mình là yếu tố
quan trọng làm nên phong cách sáng tác đặc trưng của Mai Văn Phấn đào và xây một
mảng kí ức che đậy của bản ngã tâm hồn.
Bãi tắm đông người
Tôi lặn xuống
Gặp cá cơm trắng
Bơi khoan thai
(Thả - Mai Văn Phấn )
Một lần nữa hình ảnh nhân vật “ tôi”
lại xuất hiện trong tác phẩm của ông với
phương thức đặc biệt ẩn mình giữa đám đông. Bài thơ "Bãi tắm đông người"
tập trung làm nổi bật đề tài về sự đối lập giữa cuộc sống bề mặt ồn ào, tấp nập
và việc tìm kiếm sự bình yên, tĩnh lặng ở một chiều sâu khác. Mở đầu bằng hình ảnh
"Bãi tắm đông người", bài thơ lập tức đặt người đọc vào không khí xô
bồ, hối hả, đặc trưng cho sự náo nhiệt, thậm chí là ngột ngạt của đám đông hay
cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên, chủ thể trữ tình lại chọn một hành động dứt
khoát: "Tôi lặn xuống". Động thái này không chỉ là di chuyển vật lý
mà còn mang ý nghĩa biểu tượng cho sự rút lui khỏi bề mặt, đi sâu vào bên trong
hoặc tìm đến một không gian khác biệt. Dưới mặt nước, điều mà "Tôi"
tìm thấy là "cá cơm trắng / Bơi khoan thai" – hình ảnh của sự nhỏ bé,
giản dị nhưng lại tràn đầy vẻ thảnh thơi, chậm rãi, hoàn toàn trái ngược với sự
vội vã, chen chúc trên bãi cát. Qua đó, bài thơ thể hiện khát vọng tìm về sự
tĩnh tại, an nhiên giữa dòng đời vạn biến, cho thấy rằng đôi khi, sự bình yên
không nằm ở bề mặt phồn hoa mà ẩn chứa trong những điều giản đơn và ở những
"chiều sâu" mà ta dám tìm đến.
Dặn em
Bông cúc ấy sắp tàn
Nhớ lấy màu hoa
Đan áo
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
"Dặn em" gửi gắm một thông
điệp sâu sắc về cách đối diện với sự phai tàn của cái đẹp và thời gian. Mở đầu
bằng lời nhắn nhủ trìu mến "Dặn em", bài thơ giới thiệu hình ảnh quen
thuộc nhưng đầy suy ngẫm: "Bông cúc ấy sắp tàn". Hoa cúc tàn là biểu
tượng rõ nét cho sự hữu hạn, sự phôi pha của vẻ đẹp và khoảnh khắc. Tuy nhiên,
thông điệp không dừng lại ở đó. Lời dặn tiếp theo – "Nhớ lấy màu hoa"
– là hành động lưu giữ. Nó không phải là níu kéo bông hoa sắp tàn, mà là chắt lọc,
ghi nhớ lại phần tinh tuý nhất, sống động nhất của nó trong ký ức. Và quan trọng
hơn, ký ức đó không chỉ để cất giữ mà còn được sử dụng để "Đan áo".
Hành động "đan áo" mang ý nghĩa sáng tạo, biến cái đẹp phù du của màu
hoa thành một vật hữu ích, ấm áp và bền lâu. Như vậy, bài thơ không chỉ nói về
sự tàn phai, mà còn về sức mạnh của ký ức và khả năng biến ký ức về cái đẹp đã
qua thành một giá trị mới, một sự tồn tại khác mang tính liên tục và bền vững.
Đó là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng về cách trân trọng khoảnh khắc, lưu giữ kỷ niệm và
dùng chính những kỷ niệm ấy để dệt nên cuộc sống của mình.
Kiếp trước
Anh là đám cỏ lan ra lối đi
Em đi hài đỏ
Giẫm lên anh phải không?
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
Tìm về hồi ức với bài thơ "Kiếp
trước", hình ảnh con người được phác hoạ một cách ẩn dụ qua lăng kính của
một tiền kiếp đầy ám ảnh. Nhân vật "Anh" tự nhận mình là "đám cỏ
lan ra lối đi" – một hình ảnh bình dị, thấp kém, dễ bị bỏ qua và chịu sự
tác động trực tiếp từ môi trường xung quanh. Việc là "đám cỏ trên lối
đi" ngụ ý sự hiện diện một cách thụ động, chấp nhận vị trí ở dưới thấp,
nơi dễ dàng bị chà đạp. Điều này khắc hoạ một con người ở kiếp này có thể mang
trong mình cảm giác nhỏ bé, ít được chú ý, hoặc là người luôn chịu đựng, dễ bị
tổn thương bởi người khác. Đối lập với hình ảnh đó là "Em" với đôi
"hài đỏ", biểu tượng cho sự nổi bật, có lẽ là kiêu hãnh, tự tin và có
bước đi rõ ràng trên con đường của mình. Hành động "giẫm lên" của
"Em" đối với "Anh" (đám cỏ) thể hiện sự tương tác một chiều,
nơi "Anh" là người chịu ảnh hưởng, thậm chí là tổn thương (dù vô tình
hay hữu ý) từ bước chân của "Em". Câu hỏi nhẹ nhàng "Giẫm lên
anh phải không?" cuối bài không chứa đựng sự oán trách, mà mang một nỗi niềm
man mác, gợi lại một kỷ niệm sâu sắc, dai dẳng về vai trò và vị trí của cả hai
trong một mối quan hệ. Như vậy, con người trong bài thơ, đặc biệt là nhân vật
"Anh", được thể hiện như một cá thể khiêm nhường, luôn khắc ghi dấu ấn
của người mình quan tâm (nhân vật "Em"), chấp nhận vị trí ở dưới thấp
và mang trong mình ký ức day dứt về sự tác động (có thể là vô tình làm tổn
thương) từ người kia.
Gặp gỡ
Em bay tôi cũng bay
Gợn mây mềm
Giữ hai ta lại
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
Mai Văn Phấn đi sâu vào khám phá một
khía cạnh tinh tế và lãng mạn của sự kết nối giữa con người, vượt lên trên những
ràng buộc vật chất hay lý trí thông thường. Hình ảnh "Em bay tôi cũng
bay" không chỉ đơn thuần là sự đồng hành về mặt lý học, mà là một ẩn dụ
tuyệt đẹp cho sự đồng điệu về tâm hồn, một trạng thái thăng hoa cảm xúc hay
cùng chia sẻ một khát vọng bay bổng, tự do. Hai con người, hai cá thể riêng biệt,
tìm thấy nhau ở một tần số rung động chung, cùng nâng nhau lên khỏi những bộn bề
của mặt đất. Điều đặc biệt nằm ở "Gợn mây mềm" – một biểu tượng mong
manh, phi vật chất, nhưng lại chính là yếu tố "Giữ hai ta lại". Nó
không phải là sợi xích bền chặt hay lời thề non hẹn biển, mà là một thứ gì đó dịu
dàng, nương nhẹ như mây, thể hiện bản chất của mối liên kết này: một sự gắn bó
tự nguyện, dựa trên sự thấu hiểu, đồng cảm và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của
nhau. "Gợn mây mềm" như vòng tay của định mệnh hoặc chính cảm xúc dịu
dàng được chia sẻ, tạo nên một không gian chung, một chốn neo đậu bồng bềnh để
hai tâm hồn đang "bay" không lạc mất nhau. Qua đó, bài thơ khắc hoạ
con người trong khoảnh khắc gặp gỡ diệu kỳ, nơi họ không chỉ tìm thấy sự đồng
điệu mà còn được giữ lại bên nhau bằng chính vẻ đẹp và sự tinh tế của mối liên
kết nảy nở từ những rung động sâu thẳm nhất của trái tim.
Đề tài con người
luôn là vấn đề được quan tâm một cách đặc biệt không chỉ riêng thơ ba câu Mai
Văn Phấn. Nhưng qua góc độ nhìn nhận con người với ký ức cảm xúc về nỗi nhớ, nỗi
đau, nỗi thất vọng vẫn là dòng chảy xuyên suốt trong các thi phẩm ba câu của
ông. Thông qua đề tài này cảm thức thời gian như một lần nữa được khẳng định một
cách rõ nét. Văn học là nhân học, từ cổ chí kim văn chương đều lấy con người
làm đối tượng miêu tả phản ánh và thời gian là chất nguồn cho văn học thể hiện
mình.
Chủ đề thiên nhiên đóng vai trò
trung tâm và được thể hiện một cách đặc sắc, cô đọng trong thể thơ ba câu của
Mai Văn Phấn, nổi bật trong tập "thả". Không dừng lại ở sự miêu tả
đơn thuần, thiên nhiên trong thơ ông hiện lên như những lát cắt sống động của
thực tại, được nắm bắt qua từng khoảnh khắc ngắn gọn, súc tích. Nhà thơ sử dụng
ngôn ngữ giản dị, chắt lọc để gợi tả những hình ảnh, âm thanh, cảm giác quen
thuộc của tự nhiên, từ chiếc lá, hạt sương đến tiếng chim, tạo nên một bức
tranh đa chiều, gần gũi và đầy sức sống. Vượt lên khỏi vẻ đẹp bề mặt, thiên
nhiên trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn thường mang tầng nghĩa biểu tượng và gợi
mở những suy ngẫm sâu sắc về thân phận con người, lẽ đời và vòng tuần hoàn của
sự sống. Sự tương giao giữa con người và thiên nhiên không chỉ là quan sát mà
còn là sự hòa hợp, thậm chí là hóa thân, nơi thiên nhiên trở thành tấm gương phản
chiếu nội tâm và là không gian cho những chiêm nghiệm triết học, có thể thấy ảnh
hưởng của tư duy Á Đông và triết lý Thiền qua cách nhà thơ tập trung vào khoảnh
khắc hiện tại và sự tĩnh lặng. Hình thức thơ tối giản, cô đọng với việc ngắt
dòng độc đáo không chỉ là đặc trưng thi pháp mà còn tăng cường sức gợi của hình
ảnh tự nhiên, buộc người đọc phải chậm lại, suy ngẫm và tự lấp đầy ý nghĩa. Cuối
cùng, thiên nhiên trong thơ ba câu Mai Văn Phấn còn là một không gian tâm linh,
nơi con người tìm thấy sự kết nối thiêng liêng với vạn vật và vũ trụ, cảm nhận
vẻ đẹp ẩn chứa và sự sống vĩnh cửu ngay trong những điều bình dị nhất.
"Thơ ba câu" của Mai Văn
Phấn, vị trí trung tâm của con người không còn được duy trì một cách mặc định.
Con người có thể xuất hiện, nhưng không phải lúc nào cũng là chủ thể duy nhất
chi phối bài thơ. Thay vào đó, hình ảnh con người thường hiện ra một cách mờ
hóa, phân mảnh, thậm chí chỉ là một lát cắt hành động hay một dáng hình lướt
qua ("người đàn bà mang thai đi qua"). Con người dường như được đặt
ngang hàng, là một phần tử trong hệ thống rộng lớn của tự nhiên và vũ trụ,
không đứng trên hay tách biệt khỏi vạn vật. Mối quan hệ giữa con người và thiên
nhiên cũng không còn đơn thuần là sự hòa hợp lãng mạn mà mang tính bản thể hơn,
đôi khi là sự tương tác bất ngờ, lạ hóa, chạm đến những bản năng nguyên thủy
hay quy luật sinh tồn chung của tạo hóa.
Chính sự "phi trung tâm hóa"
con người này cho phép Mai Văn Phấn khám phá những khía cạnh khác của sự tồn tại.
Con người trong thơ ông không chỉ là chủ thể cảm xúc đơn thuần mà còn là đối tượng
để chiêm nghiệm những vấn đề mang tính hiện sinh, triết lý. Thông qua những
hình ảnh con người xuất hiện tối giản trong cấu trúc ba câu thơ cô đọng, bài
thơ gợi mở về thân phận con người trong dòng chảy vũ trụ, về những kết nối vô
hình giữa cá nhân và thế giới, hay về bản chất của sự sống và cái chết theo một
cách nhìn mới mẻ, đôi khi bí ẩn và đa nghĩa. Sự khác biệt cốt lõi nằm ở chỗ:
thơ truyền thống và Thơ mới thường đặt con người vào vị trí làm chủ, làm trung
tâm để quan sát và cảm thụ thế giới, lấy tâm trạng con người làm nền tảng; còn
Mai Văn Phấn, với "thơ ba câu", lại có xu hướng đặt con người vào vị
thế là một phần tử trong hệ thống lớn hơn, khám phá con người qua những lát cắt
tối giản và mối tương quan bất ngờ với tự nhiên để gợi mở những suy tư sâu sắc
hơn về bản thể và sự tồn tại, mang đậm hơi thở của tư duy thi ca đương đại.
So sánh với các nhà thơ cùng viết
hình thức thơ này, đối với Mai Văn Phấn con người thường xuất hiện một cách phiếm
chỉ, mờ hóa hoặc phân mảnh. Họ không phải lúc nào cũng là một "cái
tôi" rõ nét hay một nhân vật cụ thể với đầy đủ cảm xúc được bộc lộ trực tiếp.
Thay vào đó, con người có thể là một hành động, một dáng hình thoáng qua
("người đàn bà mang thai đi qua"), hoặc một trạng thái tồn tại được gợi
lên một cách gián tiếp. Con người được đặt như một phần tử hữu cơ trong hệ thống
tự nhiên và vũ trụ. Mai Văn Phấn thường khám phá con người trong mối tương quan
với vạn vật, xem xét bản năng, trạng thái tồn tại của con người như một phần của
quy luật chung của tạo hóa (liên tưởng từ "cá động dục" đến chiêm
nghiệm về sự sống). Hình ảnh con người (dù mờ nhạt) thường là điểm khởi phát
cho những suy tư mang tính triết lý, hiện sinh sâu sắc. Cái tôi quan sát hay một
hình ảnh con người được đưa ra không chỉ dừng lại ở việc bộc lộ cảm xúc cá nhân
mà mở ra những câu hỏi về bản thể, sự tồn tại, mối liên hệ giữa cá nhân và cái
vô cùng.
Qua thơ ba câu của Nguyễn Anh Nông lại
cho ta thấy về một khía cạnh khác về đề tài này khi ông lột tả con người có thể
xuất hiện rõ nét hơn với vai trò là chủ thể cảm xúc hoặc người quan
sát. Dù vẫn cô đọng, thơ ông có thể trực tiếp hơn trong việc ghi nhận cảm
xúc cá nhân, ký ức hay nỗi niềm gắn với con người ("Dịu dàng ký ức ngày trở
lại / Ôm ngực nhớ cơn ho", "Tha hương bỏ mặc em..."). Mối liên hệ
giữa con người và ngoại cảnh (thiên nhiên, cảnh vật) thường là sự gợi nhắc ký ức,
kỷ niệm hoặc phản chiếu tâm trạng theo hướng trực tiếp hơn. Hình ảnh thiên
nhiên có thể là tác nhân khơi gợi nỗi nhớ, nỗi buồn hay sự chiêm nghiệm mang
tính cá nhân, gắn với một không gian, thời gian cụ thể (khói rơm thơm trên đồng
gợi ký ức). Chủ đề con người thường neo đậu nhiều hơn vào những trải nghiệm cụ
thể của đời sống cá nhân, ký ức (người lính, người xa xứ), hoặc những quan sát
về con người đời thường. Con người được nhìn nhận trong bối cảnh những trải
nghiệm thực tế, dù được cô đọng lại.
Sự khác biệt chính nằm ở chiều sâu
và hướng khai thác chủ đề con người. Mai Văn Phấn có xu hướng sử dụng hình thức
tối giản và việc "phi trung tâm hóa" con người để đẩy suy tư về phía
những vấn đề bản thể, triết lý phổ quát, nhìn nhận con người như một yếu tố
trong bức tranh vũ trụ rộng lớn. Ngược lại, Nguyễn Anh Nông, trong thơ ngắn của
mình, dường như vẫn giữ con người ở vị trí là chủ thể cảm xúc và ký ức rõ nét
hơn, sử dụng cảnh vật để gợi lên những nỗi niềm, suy ngẫm mang tính cá nhân, gắn
với những trải nghiệm cụ thể của cuộc đời con người, dù vẫn tuân thủ nguyên tắc
cô đọng của thơ ngắn.
Có thể nói, nếu Mai Văn Phấn tìm
cách "hòa tan" con người vào dòng chảy vũ trụ để chiêm nghiệm về sự tồn
tại, thì Nguyễn Anh Nông lại tập trung hơn vào việc khắc họa những "dấu vết"
của con người (ký ức, cảm xúc, thân phận) được gợi lên từ tương giao với ngoại
cảnh trong một khoảnh khắc cô đọng.
Với đề tài này, Mai Văn Phấn thể hiện
một cách tiếp cận mang tính khái niệm và kiến tạo sâu sắc, không chỉ dừng lại ở
việc bộc lộ cảm xúc hay miêu tả tâm trạng quen thuộc. Thay vì đặt cái tôi hay một
nhân vật vào vị trí làm chủ đạo để chi phối toàn bộ bài thơ, Mai Văn Phấn có xu
hướng nhìn nhận con người như một yếu tố ngang hàng với các sự vật, hiện tượng
khác trong thế giới. Quá trình sáng tạo đòi hỏi ông phải tìm cách đặt con người
vào một vị trí mới, không còn là "điểm nhìn" duy nhất mà có thể là
"đối tượng" được quan sát, hoặc một "thành tố" trong một hệ
thống tương tác rộng lớn hơn, phù hợp với tinh thần dân chủ hóa chủ thể trong
thơ hiện đại.
Mai Văn Phấn có cách xây dựng mối
liên hệ giữa con người và thế giới (đặc biệt là thiên nhiên) một cách đầy bất
ngờ và mang tính bản thể. Ông không đi theo lối mòn của sự hòa hợp hay đối lập
ước lệ, mà tìm kiếm những kết nối sâu sắc, đôi khi lạ lẫm, giữa bản năng, trạng
thái của con người và quy luật tự nhiên. Việc đặt hình ảnh "tôi" muốn
"nhốt" chim chào mào ngay sau khi miêu tả vẻ đẹp tự do của nó cho thấy
một cái nhìn sắc sảo về bản năng chiếm hữu của con người đối diện với vẻ đẹp của
tạo hóa. Quá trình này đòi hỏi một khả năng quan sát đồng thời cả nội giới và
ngoại giới, và tìm ra những điểm giao thoa không lường trước được. Nhờ nền tảng
tư duy triết học và mỹ học, Mai Văn Phấn sử dụng hình ảnh con người tối giản
như một điểm tựa để mở ra những suy tư về bản thể, hiện sinh và các vấn đề triết
lý phổ quát. Cái tôi xuất hiện trong thơ ông không chỉ là cá nhân đó mà còn là
biểu tượng cho thân phận con người nói chung trong vũ trụ. Quá trình sáng tác
là việc gài gắm những ý niệm sâu sắc vào lớp vỏ ngôn từ cô đọng, biến mỗi bài
thơ ba câu thành một "nghệ thuật sắp đặt" ngôn từ, nơi hình ảnh con
người (dù chỉ là một mảnh) góp phần kiến tạo nên tầng tầng lớp lớp ý nghĩa. Cách
sáng tác về đề tài con người của Mai Văn Phấn trong thơ ba câu là sự kết hợp chặt
chẽ giữa ý niệm về việc dịch chuyển vị thế con người, kỹ thuật cô đọng và phân
mảnh hình ảnh, khả năng tạo dựng mối tương quan bất ngờ, và chiều sâu tư duy
triết học, nhằm mang đến một cái nhìn mới mẻ, đa chiều và đầy tính gợi mở về
con người trong bối cảnh hiện đại.
Con người trong thơ ba câu của ông
thường không xuất hiện ở vị trí trung tâm làm chủ đạo, mà được đặt bình đẳng,
thậm chí là hòa tan, như một phần tử trong dòng chảy rộng lớn của tự nhiên và
vũ trụ. Hình ảnh con người thường rất tối giản, phân mảnh, hoặc chỉ hiện diện
qua những lát cắt hành động, trạng thái mang tính gợi mở thay vì được mô tả đầy
đủ tâm lý hay tính cách. Thông qua cấu trúc ba câu thơ cô đọng, mỗi mảnh ghép về
con người đều được nạp đầy sức gợi, buộc người đọc phải liên tưởng và kiến giải
để hình dung về thân phận, vị trí và những chiêm nghiệm sâu kín của con người
trong bối cảnh đương đại.
Hình tượng con người trong thơ ba
câu Mai Văn Phấn là một hình tượng đã được "giải trung tâm" và
"tái định nghĩa", trở thành một yếu tố quan trọng nhưng không đứng biệt
lập, góp phần kiến tạo nên những tầng nghĩa đa chiều và mang đến một cái nhìn mới
mẻ, giàu suy tưởng về sự tồn tại của con người trong thế giới.
2.2. Cảm thức thời gian từ quan niệm thơ Mai Văn Phấn
2.2.1. Quan niệm thời gian tuyến tính và tuần hoàn trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn
Trong khuôn khổ ngắn gọn của thơ ba
dòng, Mai Văn Phấn đã thể hiện một cách tinh tế cả cảm thức về thời gian tuyến
tính và tuần hoàn, không đối lập mà thường hoà quyện, tạo nên những vệt thời
gian đa chiều và sâu sắc trong thế giới thơ ca độc đáo của ông.
Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn, một thể
nghiệm thi ca đương đại mang tính tối giản và đa nghĩa, không chỉ thu hút độc
giả bởi hình thức cô đọng và hình tượng bất ngờ, mà còn ẩn chứa những quan niệm
phức hợp về thời gian. Trong khuôn khổ kiệm lời của thể loại này, nhà thơ đã
khéo léo lồng ghép và gợi mở cả hai dòng chảy thời gian tưởng chừng đối lập: thời
gian tuyến tính và thời gian tuần hoàn, qua đó phản ánh sâu sắc cái nhìn về sự
tồn tại và vũ trụ.
Thời gian tuyến tính trong thơ ba
dòng Mai Văn Phấn thường được thể hiện qua việc ghi nhận những khoảnh khắc độc
đáo, sự chuyển đổi trạng thái, hoặc một diễn tiến nhất định. Dù bài thơ chỉ vỏn
vẹn ba câu, nhà thơ vẫn có thể kiến tạo cảm giác về sự trôi chảy không ngừng của
thời gian, về cái "đang diễn ra" và cái "sẽ tới". Các động
từ chỉ hành động, sự biến đổi, hoặc sự xuất hiện bất chợt của một sự vật, hiện
tượng tại một thời điểm cụ thể thường là những chỉ dấu quan trọng của dòng chảy
tuyến tính. Ví dụ, một giọt sương tan, một chiếc lá rơi, hay một âm thanh vang
lên đều neo giữ thời gian tại một khoảnh khắc duy nhất, không lặp lại. Quan niệm
này nhấn mạnh tính đơn nhất, không thể đảo ngược của mỗi sự kiện, mỗi trải nghiệm
trong dòng chảy đời sống.
Ngược lại, thời gian tuần hoàn lại
len lỏi qua những hình ảnh thiên nhiên mang tính chu kỳ hoặc những chiêm nghiệm
về sự lặp lại của các quá trình tự nhiên. Các mùa luân chuyển, sự sinh trưởng
và lụi tàn của thực vật, vòng đời của loài vật, hay nhịp điệu ngày đêm... là những
biểu hiện rõ nét của thời gian tuần hoàn trong thơ ông. Thông qua việc chọn lọc
các hình tượng như chồi non, hoa nở, lá rụng, hay hành vi bản năng của loài vật
gắn với sinh sản, nhà thơ gợi nhắc về quy luật tuần hoàn bất biến của tạo hóa.
Thời gian ở đây không chỉ là sự trôi đi mà còn là sự trở lại, sự lặp lại vĩnh cửu
của các chu kỳ tồn tại, mang ý nghĩa về sự tái tạo, sự tiếp nối và tính vĩnh hằng
của vũ trụ. Điểm đặc sắc trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn nằm ở
sự đan cài và tương tác giữa hai quan niệm thời gian này. Một khoảnh khắc
tuyến tính (chiếc lá rơi) có thể mở ra suy ngẫm về chu kỳ của một mùa (mùa thu
đến). Một hình ảnh mang tính tuần hoàn (con cá động dục) lại được đặt trong một
khoảnh khắc cụ thể, gợi lên sự chiêm nghiệm tức thời, độc đáo về bản năng và sự
sống. Nhà thơ không tách rời hai dòng thời gian mà cho chúng hòa quyện, bổ sung
cho nhau, phản ánh một cái nhìn phức hợp về sự tồn tại: cuộc đời vừa là một
dòng chảy tuyến tính với những khoảnh khắc không lặp lại của cá thể, vừa là một
phần của những chu kỳ tuần hoàn vĩ đại, bất tận của vũ trụ.
Trong
khuôn khổ giới hạn của ba dòng thơ, sự thể hiện quan niệm thời gian đòi hỏi kỹ
thuật cô đọng và sức gợi phi thường. Mai Văn Phấn sử dụng hình tượng tối giản
như những "mã hóa" thời gian, buộc độc giả phải dựa vào liên tưởng và
nền tảng tri thức để cảm nhận được cả chiều dài tuyến tính và chiều sâu tuần
hoàn được ẩn chứa. Sự thành công của ông nằm ở chỗ, chỉ với vài nét chấm phá,
ông không chỉ tái hiện khoảnh khắc hay chu kỳ, mà còn gợi mở những suy tư triết
lý về vị trí của con người trong dòng chảy thời gian kép ấy – vừa độc đáo trong
khoảnh khắc hiện tại, vừa là một phần của vòng quay vĩnh cửu. Quan niệm này làm
phong phú thêm tầng nghĩa cho thơ ông, vượt qua lối miêu tả thời gian thông
thường để chạm đến những vấn đề bản thể sâu sắc.
Thời gian tuyến tính trong thơ ba
dòng của Mai Văn Phấn thường được biểu đạt qua những khoảnh khắc "hiện tại"
được nắm bắt một cách sắc nét, gợi mở về một dòng chảy liên tục. Mỗi bài thơ có
thể xem như một "khung hình" ghi lại một điểm thời gian cụ thể, nhưng
lại hàm chứa sự vận động ngầm của quá khứ và hé mở về tương lai. Ví dụ, hình ảnh
một giọt sương tan không chỉ là một khoảnh khắc hiện tại mà còn gợi lên quá
trình hình thành và sự biến mất tất yếu, một đường thẳng thời gian ngắn ngủi
nhưng trọn vẹn. Sự nối tiếp các bài thơ trong một tập cũng có thể tạo nên một cảm
giác về dòng chảy thời gian tuyến tính, khi những khoảnh khắc riêng lẻ liên kết
với nhau, phác hoạ một hành trình, một trạng thái cảm xúc đang diễn tiến.
“Tác giả rất ít dùng đến từ thời
gian “nhưng ý thức tiết kiệm thời gian để sáng tạo, để dành niềm vui cho bè bạn,
cho những cuộc chơi thi sĩ và hơn cả là cho đời sống chung của xã hội con người
hiện tồn trong các bài thơ”. Thơ Mai Văn Phấn cũng đã góp thêm một phương cách
thể hiện trực diện với thời gian, song hành với thời gian, không tiếc nuối thời
gian. Bởi mỗi sát – na trôi qua ông đã tận hiến nghiêm túc, có ý nghĩa trong
sáng tạo nghệ thuật, trong hành xử đẹp với những con người sống bên cạnh mình,
trong xã hội. Những cống hiến và khát vọng của Mai Văn Phấn xứng đáng được bạn
đọc dành cho nhà thơ nhiều sự mến mộ. Nhìn chung, thơ ông mang “căn tính” dân tộc. Xuyên suốt ý tưởng
trong các tập thơ của ông là ước mơ tự do, bình đẳng và dân chủ của dân tộc Việt
Nam. Đó là một khối cảm xúc cô đọng được biểu đạt bằng ngôn từ thông qua thế giới
nội tâm, đồng thời hiển thị những bức tranh sống động về lịch sử, về xã hội
đương thời. Mỗi tập thơ của ông đều chất chứa khát vọng của dân tộc, đồng thời
là một cánh cửa mới được mở ra, giúp người đọc thưởng ngoạn thế giới. Nhiều người
cho rằng, thơ cũng như con người Mai Văn Phấn góp phần giúp người đọc hiểu cuộc
sống và nhiều tầng văn hóa.” [ 3; tr 6]
Tuy nhiên, thời gian tuần hoàn lại
là một yếu tố nổi bật và mang đậm dấu ấn trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn.
Ông thường xuyên khai thác những hình ảnh của thiên nhiên, nơi các chu kỳ lặp
đi lặp lại của mùa, của ngày và đêm, của sự sinh trưởng và tàn lụi trở thành những
biểu tượng mạnh mẽ cho tính tuần hoàn của thời gian. Một cành cây trơ trụi
trong mùa đông không chỉ là một điểm cuối của một chu kỳ mà còn là sự chuẩn bị
cho một mùa xuân mới. Hình ảnh mặt trăng tròn rồi lại khuyết, dòng sông chảy
không ngừng, hay vòng đời của một loài hoa đều gợi lên sự lặp lại vĩnh cửu của
thời gian, nơi sự kết thúc cũng là sự khởi đầu.
Điểm đặc biệt trong thơ ba dòng của
Mai Văn Phấn là sự hoà quyện tinh tế giữa tuyến tính và tuần hoàn. Những khoảnh
khắc hiện tại thường được nhìn nhận trong mối tương quan với vòng tuần hoàn
vĩnh cửu của tự nhiên. Một cảm xúc thoáng qua, một sự kiện nhỏ bé trong đời người
có thể được đặt vào bối cảnh của sự lặp lại vô tận của thời gian vũ trụ, làm nổi
bật cả sự hữu hạn và sự bất diệt. Ví dụ, một nỗi buồn có thể là một khoảnh khắc
tuyến tính, nhưng nó cũng có thể gợi nhớ đến những nỗi buồn đã từng và sẽ còn lặp
lại trong vòng quay của cuộc đời.
Sự biểu đạt thời
gian trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà
còn thể hiện một quan niệm sâu sắc về sự tồn tại. Thời gian không phải là một
đường thẳng đơn điệu mà là một vòng tròn phức tạp, nơi quá khứ, hiện tại và
tương lai đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Việc nắm bắt những khoảnh khắc hiện tại
trong ý thức về sự tuần hoàn của thời gian giúp con người ý thức rõ hơn về vị
trí của mình trong dòng chảy bất tận của vũ trụ, đồng thời trân trọng hơn những
giá trị hiện tại.
Trong không gian nhỏ hẹp của hình thức
thơ ba dòng, Mai Văn Phấn đã vẽ nên một bức tranh thời gian đa dạng và sâu sắc.
Ông không chỉ ghi lại những khoảnh khắc tuyến tính mà còn khám phá những vòng
tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên và tâm hồn con người, tạo nên một cảm thức thời
gian vừa cụ thể vừa mang tính triết lý, góp phần làm nên sự độc đáo và sức hấp
dẫn trong thế giới thơ ca của ông.
Bài thơ ba dòng "Đêm đầu
năm" của Mai Văn Phấn:
Đêm đầu năm
Nghe tiếng sóng
Cầm ngọn nến
Soi về phía biển
(Thả - Mai Văn Phấn)
Dù ngắn gọn, đã mở ra một không gian
cảm xúc và suy tư sâu lắng về thời gian và sự tồn tại. Khoảnh khắc "đêm đầu
năm" được chọn làm điểm tựa, không chỉ xác định một vị trí cụ thể trên
dòng chảy tuyến tính của lịch, đánh dấu sự khởi đầu của một chu kỳ mới, mà còn
gợi lên một không gian tĩnh lặng, trang nghiêm, thường khơi gợi những hoài niệm
và suy tưởng về quá khứ, tương lai. Trong khung cảnh tĩnh mịch ấy, âm thanh
"tiếng sóng" vọng về từ xa không chỉ là một chi tiết hiện thực mà còn
mang tính biểu tượng cho sự vĩnh cửu, cho nhịp điệu không ngừng của tự nhiên, một
dòng chảy thời gian tuần hoàn, vô tận, đối lập với sự hữu hạn của một đêm cụ thể.
Hành động "cầm ngọn nến" của chủ thể trữ tình tạo ra một điểm sáng nhỏ
bé, mong manh trong đêm tối bao la, một biểu tượng cho sự hữu hạn của con người,
của ý thức cá nhân trong vũ trụ rộng lớn. Việc hướng ngọn nến "soi về phía
biển" không chỉ là một hành động vật lý mà còn mang ý nghĩa tượng trưng
sâu sắc. Nó có thể là một sự hướng tới tương lai, một sự khám phá những điều
chưa biết, như con người luôn hướng về phía chân trời. Đồng thời, nó cũng có thể
là một sự suy tư về quá khứ, về những bí ẩn và sức mạnh vĩnh cửu của biển cả,
chứng kiến bao đổi thay của thời gian. Sự tương tác giữa cái hữu hạn (ngọn nến,
đêm đầu năm) và cái vô hạn (tiếng sóng, biển) tạo nên một cảm thức thời gian vừa
tuyến tính (một đêm cụ thể) vừa tuần hoàn (nhịp điệu vĩnh cửu của biển), gợi
lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la nhưng cũng khơi dậy khát vọng
khám phá và kết nối với dòng chảy vĩnh hằng ấy.
Hơn thế nữa, sự đối lập giữa ánh
sáng yếu ớt, hữu hạn của "ngọn nến" và bóng tối bao trùm của
"đêm đầu năm" càng làm nổi bật sự mong manh của con người trước dòng chảy
thời gian vô tận. Ngọn nến, với ánh sáng lung linh, có thể tượng trưng cho ý thức,
cho sự tồn tại ngắn ngủi của cá nhân trong vũ trụ bao la. Hành động "soi về
phía biển" như một nỗ lực của ý thức muốn vươn tới, muốn thấu hiểu cái vô
tận, cái vĩnh hằng của thời gian, được biểu tượng hoá bằng hình ảnh biển cả. Tiếng
sóng, âm thanh vọng về từ cõi xa xăm, vừa mang tính hiện thực của một đêm ven
biển, vừa mang âm hưởng của thời gian vũ trụ, không ngừng vang vọng qua bao thế
hệ. Nó là chứng nhân cho mọi biến đổi, mọi sự trôi chảy, một sự nhắc nhở về
tính tương đối của mọi sự vật hiện tượng trong dòng chảy không ngừng của thời
gian. "Đêm đầu năm", một khởi đầu mới, lại được cảm nhận qua âm thanh
của cái vĩnh cửu, tạo nên một sự giao thoa đặc biệt giữa điểm bắt đầu và sự vô
tận, giữa cá nhân và vũ trụ. Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả một khoảnh khắc
mà còn khơi gợi những suy tư mang tính mới về vị trí của con người trong dòng
chảy thời gian, về sự hữu hạn đối diện với vô hạn, về khát vọng vươn tới và thấu
hiểu những bí ẩn của thời gian và sự tồn tại.
Trong sự tĩnh lặng của "đêm đầu
năm", khi mọi thứ dường như lắng đọng để chuẩn bị cho một chu kỳ mới, hành
động "nghe tiếng sóng" trở nên đặc biệt ý nghĩa. Nó không chỉ là một
cảm nhận thính giác mà còn là một sự lắng nghe vào nhịp điệu sâu thẳm của thời
gian. Tiếng sóng, với sự đều đặn và sức mạnh tiềm ẩn, gợi lên một dòng chảy
liên tục, không ngừng nghỉ, vượt qua mọi sự khởi đầu và kết thúc của con người.
Nó là âm thanh của vĩnh cửu, của sự tuần hoàn bất tận của tự nhiên. Việc chủ thể
trữ tình "cầm ngọn nến" trong đêm tối và hướng về phía biển khơi càng
làm nổi bật sự nhỏ bé, đơn độc của con người trước sức mạnh và sự bao la của thời
gian. Ngọn nến, dù là nguồn sáng duy nhất trong đêm, cũng chỉ là một đốm lửa hữu
hạn, tồn tại trong một khoảnh khắc ngắn ngủi so với sự vĩnh cửu của biển cả.
Hành động soi chiếu ấy có thể được hiểu như một khát vọng tìm kiếm, một nỗ lực
thấu hiểu những bí ẩn của thời gian và sự tồn tại, một sự kết nối mong manh giữa
cái hữu hạn và cái vô hạn. Bài thơ với ba dòng, đã gợi ra một bức tranh mang đậm
tính mở, nơi con người đối diện với dòng chảy thời gian vừa tuyến tính (đêm đầu
năm) vừa tuần hoàn (tiếng sóng, biển), cảm nhận sự hữu hạn của bản thân trong sự
vô tận của vũ trụ, và khơi dậy những suy tư về ý nghĩa của sự khởi đầu và sự tiếp
diễn không ngừng.
Mưa
bụi
Bẻ củi khô
Bàn tay
Ấm
(Thả - Mai Văn Phấn)
Bài thơ ba dòng "Mưa bụi"
của Mai Văn Phấn đã khắc hoạ một khoảnh khắc đời thường nhưng lại gợi lên những
cảm xúc và suy tư sâu lắng về sự tương phản và sức mạnh tiềm ẩn. Bức tranh mở
ra với hình ảnh "mưa bụi", một trạng thái thời tiết nhẹ nhàng, có phần
se lạnh, tạo nên một không gian tĩnh lặng, có lẽ hơi ẩm ướt và có chút cô tịch.
Trong bối cảnh ấy, hành động "bẻ củi khô" của chủ thể trữ tình hiện
lên như một nỗ lực tìm kiếm sự ấm áp, một hành động cụ thể, mang tính vật chất
và có phần khó nhọc (củi "khô" thường khó bẻ). Sự tập trung sau đó
vào chi tiết "bàn tay" đặt người đọc vào một cảm nhận trực tiếp, cận
cảnh về cơ thể. Và rồi, sự xuất hiện bất ngờ của từ "Ấm" ở dòng cuối
cùng tạo ra một sự tương phản mạnh mẽ, một sự chuyển đổi trạng thái đầy ý
nghĩa.
Luận điểm trung tâm của bài thơ nằm ở
sự đối lập giữa cái lạnh lẽo, ẩm ướt của "mưa bụi" và sự khô khốc,
khó khăn của việc "bẻ củi khô" với cảm giác "Ấm" lan toả từ
"bàn tay". Sự ấm áp này không chỉ đơn thuần là một cảm giác vật lý mà
còn mang theo nhiều tầng ý nghĩa ẩn dụ. Nó có thể là hơi ấm từ chính nỗ lực lao
động, từ sự kiên trì vượt qua khó khăn (bẻ củi khô trong mưa bụi). Nó cũng có
thể là hơi ấm của sự sẻ chia, của tình người (bàn tay có thể đang sưởi ấm cho
ai đó, hoặc được sưởi ấm bởi một nguồn nhiệt nào đó). Trong bối cảnh "mưa
bụi" có phần cô đơn, sự "Ấm" của bàn tay trở thành một điểm
sáng, một dấu hiệu của sự sống, của năng lượng và của khả năng vượt lên hoàn cảnh.
Về cảm thức thời gian, bài thơ tập
trung vào một khoảnh khắc hiện tại, diễn ra trong cơn "mưa bụi". Tuy
nhiên, hành động "bẻ củi khô" gợi ý về một quá trình trước đó, một nỗ
lực để có được nguồn nhiên liệu. Cảm giác "Ấm" ở cuối bài thơ không
chỉ là kết quả tức thời của hành động mà còn có thể gợi nhớ về những hơi ấm đã
từng có hoặc một hy vọng về hơi ấm sẽ tiếp tục. Sự ngắn gọn của ba dòng thơ đã
cô đọng một quá trình từ lạnh lẽo, khó khăn đến ấm áp, tạo ra một sự chuyển biến
nhỏ nhưng đầy sức nặng, cho thấy sức mạnh của ý chí và sự trân trọng những cảm
xúc tích cực ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Bài thơ đã chứa đựng một câu
chuyện nhỏ về sự nỗ lực và niềm hy vọng, được thể hiện qua một cảm nhận vật lý
đơn giản nhưng sâu sắc.
Việc
biểu đạt thời gian tuyến tính trong thể thơ cực ngắn đòi hỏi sự tinh
tế đặc biệt. Mai Văn Phấn thường dùng các động từ cô đọng biểu thị hành
động hoặc sự kiện mang tính nhất thời, không lặp lại, hoặc các trạng thái chỉ
xuất hiện trong một khoảnh khắc chuyển tiếp. Chẳng hạn, thay vì miêu tả một quá
trình dài, ông có thể chỉ chọn điểm khởi đầu hay kết thúc của một hành động,
ngụ ý toàn bộ dòng chảy đã/đang/sẽ diễn ra. Cấu trúc câu ngắn gọn, dứt khoát
cũng góp phần tạo cảm giác về sự tuyến tính, về một sự kiện vừa vặn khép lại
trong ba dòng thơ, đánh dấu một mốc thời gian không thể quay lại. Đôi khi, sự
đối lập giữa hai hình ảnh ở các thời điểm khác nhau trong bài thơ (dù không
trực tiếp chỉ thời gian) cũng gợi lên sự chuyển dịch, tiến lên của dòng chảy
tuyến tính.
Đối
với thời gian tuần hoàn, ngoài việc sử dụng các hình ảnh thiên nhiên mang
tính chu kỳ rõ rệt (mùa, ngày đêm, sinh trưởng), nhà thơ còn có thể gợi ý sự
lặp lại thông qua các mô típ hành động, cảm xúc hoặc trạng thái mang tính
phổ quát của con người và vạn vật, những điều đã và sẽ tiếp diễn qua nhiều
thế hệ, nhiều chu kỳ sống. Cách ông nhìn nhận hành vi bản năng của loài vật hay
quá trình sinh nở tự nhiên như một phần của sự sống nguyên thủy cũng là cách
neo giữ ý niệm về sự lặp lại, về dòng chảy tuần hoàn của năng lượng vũ trụ.
Thời gian tuần hoàn trong thơ ông không chỉ là vòng quay của tự nhiên mà còn là
sự lặp lại tiềm ẩn trong kinh nghiệm sống và các quy luật tồn tại.
Sự thú
vị nằm ở chỗ, Mai Văn Phấn thường không trình bày hai khái niệm thời gian
này một cách tách bạch mà lồng ghép chúng một cách hữu cơ. Một khoảnh khắc
tuyến tính có thể hàm chứa cả một chu kỳ tuần hoàn phía sau hoặc phía trước nó.
Chẳng hạn, hình ảnh một bông hoa nở (một khoảnh khắc tuyến tính trong vòng đời
của nó) lại lập tức gợi về chu kỳ của mùa xuân, của sự sống đang trỗi dậy (tính
tuần hoàn). Hoặc một sự kiện mang tính cá nhân, nhất thời của con người (thời
gian tuyến tính của một cá thể) lại được đặt trong bối cảnh rộng lớn của những
quy luật vĩnh cửu, tuần hoàn của tạo hóa. Sự đan xen này tạo ra một trường
liên tưởng phức tạp, thách thức người đọc phải vượt qua cách cảm nhận thời gian
thông thường để thấy được mối liên hệ giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, giữa
khoảnh khắc và vĩnh cửu.
Trong
bối cảnh thơ ba dòng mang tính gợi mở cao, vai trò của người đọc trong việc
kiến tạo và cảm nhận thời gian là vô cùng quan trọng. Nhà thơ chỉ đưa ra những
manh mối, những "tín hiệu" về thời gian thông qua hình ảnh và ngôn
ngữ tối giản. Chính độc giả, dựa trên trải nghiệm và tri thức của mình, sẽ kết
nối các tín hiệu ấy để cảm nhận được dòng chảy tuyến tính của câu chuyện hoặc
nhận ra mô hình tuần hoàn đang ẩn mình phía sau. Điều này biến việc đọc thơ
không chỉ là tiếp nhận mà còn là một quá trình đồng sáng tạo, trong đó ý niệm
về thời gian được hình thành và định hình trong tâm trí người đọc.
Quan
niệm thời gian trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn là sự dung hợp đầy sáng tạo giữa
dòng chảy tuyến tính của khoảnh khắc và sự lặp lại vĩnh cửu của chu kỳ. Bằng
việc sử dụng ngôn ngữ cô đọng và hình tượng giàu sức gợi, nhà thơ không chỉ tái
hiện các chiều kích thời gian mà còn dùng chúng như phương tiện để chiêm nghiệm
về bản chất sự sống, về vị trí mong manh nhưng cũng đầy ý nghĩa của con người
trong vũ trụ, góp phần định hình một thi pháp hiện đại và giàu chiều sâu triết
lý.
Trong
thơ ca Việt Nam, thời gian là một trong những đề tài trung tâm, được thể hiện
qua nhiều góc nhìn và bút pháp khác nhau tùy thuộc vào quan niệm sáng tác của
mỗi nhà thơ và đặc điểm của từng trào lưu văn học. Khi xem xét cách Mai Văn
Phấn tiếp cận và biểu đạt thời gian trong thể loại "thơ ba dòng" độc
đáo của mình, ta có thể thấy sự khác biệt rõ rệt so với quan niệm thời gian
trong thơ truyền thống và phong trào Thơ mới.
Trong
thơ truyền thống, thời gian thường được cảm nhận và biểu đạt theo những mô hình
quen thuộc như sự trôi chảy tuyến tính của đời người và lịch sử, hay sự tuần
hoàn của tự nhiên qua bốn mùa. Thời gian thường được lồng ghép để làm nền cho
việc bộc lộ tâm trạng thi sĩ (buồn thời gian trôi nhanh, tiếc nuối quá khứ)
hoặc để suy ngẫm về quy luật của tạo hóa và số phận con người. Tương tự, trong
phong trào Thơ mới, thời gian là một nỗi ám ảnh lớn của cái tôi cá nhân, gắn
liền với cảm thức về sự phù du của kiếp người, khát khao tận hưởng hiện tại, hoặc
nỗi buồn về sự trôi chảy không ngừng. Dù mang tính chủ quan và hiện đại hơn thơ
truyền thống, thời gian trong Thơ mới chủ yếu vẫn là phương tiện để diễn tả
những cung bậc cảm xúc và suy tư của cá nhân, ít khi trở thành đối tượng chiêm
nghiệm triết học về bản chất của chính nó trong những bài thơ ngắn.
Quan
niệm sáng tác về thời gian của Mai Văn Phấn trong thơ ba dòng lại mang một sắc
thái khác biệt và phức hợp hơn. Ông không chỉ dừng lại ở việc cảm nhận thời
gian theo lối tuyến tính (dòng chảy trôi đi không trở lại) hay tuần hoàn (sự
lặp lại của chu kỳ tự nhiên), mà có ý thức khám phá sự đan cài, tương tác và
thậm chí là căng thẳng giữa hai dòng chảy thời gian này. Bằng cách đặt những
khoảnh khắc độc đáo, nhất thời (tuyến tính) cạnh hoặc lồng ghép với những hình
ảnh gợi ý sự lặp lại, tính chu kỳ (tuần hoàn) trong cùng ba dòng thơ cô đọng,
ông tạo ra một cảm giác về thời gian vừa trôi đi vừa neo đậu, vừa hữu hạn vừa
vĩnh cửu. Đây là một cái nhìn đa chiều, phản ánh sự phức tạp của thời gian
trong cảm quan hiện đại. Cách ông thể hiện quan niệm thời gian cũng gắn liền
với đặc trưng của thể thơ ba dòng. Hình thức cực ngắn buộc nhà thơ phải chắt
lọc tối đa ngôn ngữ và hình ảnh, biến chúng thành những tín hiệu gợi mở về thời
gian. Một hình ảnh thiên nhiên tối giản, một hành động nhỏ bé của con người hay
vạn vật không chỉ miêu tả sự vật mà còn đồng thời chuyên chở ý niệm về thời
gian (khoảnh khắc tức thời, hay một phần của chu kỳ lớn hơn). Quá trình sáng
tác ở đây là sự kiến tạo có chủ đích, sử dụng cấu trúc và ngôn từ để gợi lên
những tầng nghĩa về thời gian, buộc độc giả phải tham gia vào quá trình giải mã
và cảm nhận. Thời gian không được "kể" ra mà được "gợi" lên
từ sự sắp đặt tài tình của các yếu tố.
Sự
khác biệt cốt yếu nằm ở chỗ, nếu thơ truyền thống và Thơ mới chủ yếu xem thời
gian như một bối cảnh hay phương tiện để thể hiện tâm trạng và suy ngẫm về con
người trong dòng chảy ấy, thì Mai Văn Phấn lại có quan niệm sáng tác coi thời
gian là một đối tượng chiêm nghiệm bản thể. Ông đi sâu vào khám phá chính quy
luật vận hành, bản chất phức hợp của thời gian (tính tuyến tính và tuần hoàn)
và mối liên hệ nội tại của nó với sự tồn tại của vạn vật. Điều này mang đến cho
thơ ba dòng của ông một chiều sâu triết lý đặc sắc, góp phần làm phong phú thêm
cách thức biểu đạt một trong những khái niệm trừu tượng và quan trọng nhất
trong văn học. Thời gian trong văn học và thời gian hiện thực dẫu sao vẫn có
mối quan hệ tương trợ lẫn nhau và là cách thức nhận ra đặc trưng một khi hiện
tượng phá vỡ thời gian diễn ra đẩy người đọc phải bám víu vào một trong hai nền
tảng cho việc giải nghĩa những ô chữ bí mật mà tác giả giấu nhẹm trong văn
chương của mình. Mai Văn Phấn ẩn thời gian của mình trong khoảnh khắc hiện hữu
của hình tượng thiên nhiên qua mặt trời, trăng, mây, sao, gió,... hay chính cả
sự ngả mình của những tán cây và cả khói sương chiều. Tất cả những điều ấy có
thể nói lên được tài năng và sự chọn lọc của tác giả đã vượt ra ngoài khuôn khổ
của thời gian có sẵn, dòng chảy của ông như được hình thành từ con chữ từ sự
lắng đọng, từ độ trễ, từ cái đứng yên cũng đủ để thời gian trong thơ ba câu thể
hiện mình.
2.2.2. Thời gian xóa nhòa ranh giới thực trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn
Thời gian tâm lý trong thơ ba dòng của
Mai Văn Phấn là một khía cạnh tinh tế và sâu sắc, thường được thể hiện một cách
gián tiếp qua hình ảnh, cảm xúc và sự tương tác giữa chủ thể trữ tình với thế
giới xung quanh. Với khuôn khổ ba câu, Mai Văn Phấn không miêu tả trực tiếp
dòng chảy ý thức hay những biến động nội tâm phức tạp, mà thay vào đó, ông sử dụng
những khoảnh khắc ngoại cảnh, những chi tiết nhỏ bé để gợi lên những trạng thái
tâm lý khác nhau, nơi thời gian có thể co giãn, ngừng đọng hoặc trôi đi một
cách chủ quan.
Trong dòng chảy thi ca hiện đại, Mai
Văn Phấn nổi lên như một nhà thơ có những cách tân táo bạo về cả hình thức và nội
dung, đặc biệt qua thể loại thơ ba dòng. Không chỉ thể hiện quan niệm phức hợp
về thời gian tuyến tính và tuần hoàn, thời gian trong thơ ông còn mang một chức
năng đặc biệt: xóa nhòa hoặc làm mờ đi ranh giới giữa các lớp thực tại, khiến
cái "thực" trở nên đa diện, lung linh và khó nắm bắt trong khuôn khổ
nhận thức thông thường.
Sự xóa nhòa này được kiến tạo thông
qua nhiều phương thức biểu đạt tinh tế trong cấu trúc ba dòng thơ cô đọng. Một
trong những cách thức hiệu quả là sự đối lập hoặc lồng ghép bất ngờ các hình ảnh
thuộc về những bình diện thời gian và không gian khác nhau. Chỉ với vài từ ngữ,
nhà thơ có thể đặt cạnh nhau một sự vật đang hiện hữu ở thực tại trước mắt với
một ký ức xa xăm, một giấc mơ lướt qua, hay một suy tưởng mang tính viễn cảnh.
Sự song hành đột ngột của các yếu tố từ quá khứ, hiện tại, tương lai, hoặc từ
không gian vật lý và không gian tâm tưởng (ký ức, mộng tưởng) khiến cho ranh giới
giữa "thực tại khách quan" và "thực tại chủ quan" trở nên mờ
ảo. Cái đang diễn ra ở hiện tại có thể bỗng chốc tan biến hoặc bị chi phối bởi
sức gợi của ký ức, và ngược lại, ký ức dường như sống động như đang diễn ra ở
đây và lúc này.
Hơn nữa, chính sự đan cài giữa thời
gian tuyến tính và tuần hoàn cũng góp phần vào việc làm nhòa ranh giới thực.
Khi một khoảnh khắc hiện tại (mang tính tuyến tính) được đặt trong bối cảnh của
một chu kỳ tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên, tính "thực" và duy nhất của
khoảnh khắc ấy dường như bị làm loãng đi, trở thành một điểm nhỏ bé trong dòng
chảy vô tận. Ngược lại, sự sống động của một chu kỳ tuần hoàn có thể khiến cho
cái thực tại tuyến tính hiện tại mang cảm giác lặp lại, không còn hoàn toàn mới
mẻ và độc lập. Sự tương tác này tạo ra một cảm giác về thời gian như một dòng
chảy liên tục biến đổi, nơi các mốc phân định thực tại không còn rõ ràng.
Trong nhiều bài thơ ba dòng, ta có
thể thấy sự ghép nối đột ngột các hình ảnh thuộc về những khoảnh khắc thời gian
khác nhau (quá khứ - hiện tại - tương lai) hoặc các không gian thực tại khác
nhau (thế giới vật lý - ký ức - giấc mơ - suy tưởng). Ví dụ, một dòng thơ miêu
tả cảnh vật đang diễn ra, dòng thơ tiếp theo có thể gợi về một ký ức gắn với cảnh
ấy từ rất lâu, và dòng cuối cùng là một suy tưởng vượt thoát khỏi cả hai bình
diện đó. Sự kết hợp này khiến cho ranh giới giữa "cái đang tồn tại ở đây
và lúc này" với "cái đã từng tồn tại" hoặc "cái chỉ tồn tại
trong tâm tưởng" bị lu mờ, tạo cảm giác thực tại hiện tại không hoàn toàn
rắn chắc. Mai Văn Phấn thường lồng ghép hai loại thời gian. Điều này cũng có thể
dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới thực. Ví dụ, khi một sự kiện mang tính cá nhân,
nhất thời (thực tại tuyến tính của cá thể) được miêu tả bằng ngôn ngữ gợi về
tính vĩnh cửu, lặp lại của chu kỳ tự nhiên (thời gian tuần hoàn), tính "thực"
và duy nhất của sự kiện đó có thể bị suy giảm, mang màu sắc siêu thực hoặc biểu
tượng. Ngược lại, một hình ảnh chu kỳ quen thuộc (mặt trời mọc/lặn, lá rụng)
khi được nhìn bằng một góc độ đột ngột, bất ngờ trong ba dòng thơ, có thể khiến
cái "thực" của quy luật tự nhiên trở nên lạ lẫm, như lần đầu tiên được
cảm nhận.
Ngăn cách
Hoàng hôn vây quanh sân
Đàn chim
Bên ngoài đập cánh
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
Yếu tố thời gian xuất hiện cụ thể
trong bài thơ “hoàng hôn”, đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra hình ảnh
dòng chảy cảm xúc. Hoàng hôn không chỉ đơn thuần là bối cảnh cho bức tranh mà
còn là một lực lượng tích cực góp phần làm lu mờ các phân định rạch ròi của thực
tại. Hoàng hôn là thời khắc chuyển tiếp tự nhiên, nơi ánh sáng ban ngày mờ dần
và bóng tối bắt đầu bao trùm. Về mặt vật lý, điều này trực tiếp dẫn đến sự giảm
thiểu khả năng quan sát rõ nét các chi tiết và ranh giới. Các đường nét của
"sân" và khu vực "bên ngoài" trở nên kém sắc nét, khoảng
cách và chiều sâu không gian trở nên mơ hồ hơn. Ranh giới vật lý phân chia
"trong" và "ngoài" trở nên ít rõ ràng dưới ánh sáng nhá
nhem. Đây là sự xóa nhòa ranh giới thực ở cấp độ thị giác và không gian. Hoàng
hôn là biểu tượng cho ranh giới giữa ngày và đêm, giữa sự sống động và sự tĩnh
lặng, giữa thế giới hiện hữu rõ ràng và thế giới của bóng tối, của tiềm thức hoặc
điều chưa biết. Việc bài thơ được đặt vào đúng thời khắc giao thoa này tăng cường
cảm giác về một trạng thái "ở giữa", không hoàn toàn thuộc về bên này
hay bên kia. Điều này cộng hưởng mạnh mẽ với chủ đề "Ngăn cách", một
trạng thái không trọn vẹn, nằm lưng chừng giữa kết nối và chia lìa. Thời gian
chuyển tiếp của hoàng hôn làm nổi bật và khuếch đại tính mơ hồ, lưỡng diện của
sự ngăn cách. Hoàng hôn thường đi kèm với những trạng thái cảm xúc và suy tư
mang tính nội tâm. Ánh sáng yếu dần dễ khiến con người hướng vào bên trong. Cảm
giác "Ngăn cách" được đặt trong không khí hoàng hôn trở nên sâu lắng
và mang tính chủ quan hơn. Thực tại bên ngoài (đàn chim đập cánh bên ngoài) được
cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn qua lăng kính của trạng thái tâm lý bị
"ngăn cách". Điều này dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới giữa thực tại
khách quan (cảnh vật) và thực tại chủ quan (cảm giác, tâm trạng). Cảnh vật dường
như bị nhuốm màu cảm xúc, và cảm xúc được vật chất hóa thông qua cảnh vật, khiến
ranh giới giữa thế giới bên ngoài và thế giới nội tâm trở nên mờ nhạt.
Như vậy, trong bài thơ "Ngăn
cách", hoàng hôn không chỉ đánh dấu một thời điểm cụ thể mà còn là một yếu
tố tích cực làm tan chảy sự phân định rõ ràng của thực tại. Nó làm nhòe đi ranh
giới vật lý, biểu tượng hóa trạng thái lưỡng lự, và góp phần hòa trộn thực tại
khách quan với cảm giác chủ quan về sự ngăn cách, khiến cho bức tranh thơ trở
nên đa nghĩa và đầy ám ảnh về những rào cản vô hình trong cuộc sống.
Ngôn ngữ và hình tượng trong thơ Mai
Văn Phấn cũng hỗ trợ đắc lực cho quá trình xóa nhòa ranh giới thực. Nhà thơ thường
sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi, đa nghĩa, và đôi khi mang tính siêu thực
hoặc tượng trưng, khiến cho sự vật không chỉ là chính nó ở bình diện thực tại
mà còn mở ra những liên tưởng đến các bình diện ý nghĩa khác, các trạng thái tồn
tại khác. Việc kết hợp các yếu tố tưởng chừng phi lý hay không liên quan trong
ba dòng thơ tạo ra một không gian thơ nơi các quy luật logic và phân định thực
tại thông thường bị thách thức.
Đánh chiêng
Chiếc dùi
Cuốn áo cũ
Tiếng ngân mồ hôi người
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
Chính cấu trúc ba dòng thơ tối giản
đã tạo điều kiện cho sự xóa nhòa này, bằng cách đặt những mảnh ghép từ các bình
diện khác nhau vào cận kề nhau mà không có lời giải thích hay liên kết rõ ràng.
Điều này buộc người đọc phải tự kết nối, và trong quá trình đó, trải nghiệm một
thực tại không còn đơn giản, phẳng lặng mà là một dòng chảy phức hợp, nơi các
ranh giới giữa quá khứ - hiện tại, thực - ảo, bên trong - bên ngoài liên tục được
làm mờ và tái định nghĩa. Qua thủ pháp này, Mai Văn Phấn không chỉ thể hiện một
cái nhìn hiện đại về thời gian mà còn gợi mở những suy tư sâu sắc về bản chất
phù du và đa tầng của thực tại, về cách nhận thức của con người trước dòng chảy
vĩnh cửu của tồn tại.
Sự mờ ảo ranh giới thực được thể hiện
qua việc lồng ghép nhiều bình diện thời gian khác nhau trong cùng ba dòng thơ
ngắn ngủi. Hình ảnh "áo cũ" ở dòng thứ hai lập tức đưa người đọc về với
thời gian quá khứ, gợi lên lịch sử, dấu vết của người đã sử dụng chiếc áo, những
câu chuyện gắn với nó. Tiếp theo, hành động "Đánh chiêng" và hình ảnh
"mồ hôi người" ở dòng thứ ba lại neo chặt bài thơ vào thời gian hiện
tại, là khoảnh khắc của nỗ lực vật lý tức thời và sự gắng sức đang diễn ra. Tuy
nhiên, "Tiếng ngân" – kết quả của hành động – lại là yếu tố tồn tại
vượt ra ngoài khoảnh khắc hiện tại, kéo dài sang tương lai gần như một dư âm, sự
vang vọng.
Chính sự sắp đặt tài tình này đã tạo
ra một sự đồng hiện của các lớp thời gian: quá khứ (áo cũ), hiện tại tức thời
(đánh, mồ hôi), và sự kéo dài của hiện tại vào tương lai gần (tiếng ngân) cùng
tồn tại trong khoảnh khắc cảm nhận. Thời gian không còn là dòng chảy tuyến tính
đơn giản mà là một cấu trúc đa lớp, nơi các điểm mốc dường như chồng lấn lên
nhau. Sự tương tác này làm tan chảy cảm giác về một dòng chảy thời gian rạch
ròi, khiến ranh giới giữa "cái đã qua", "cái đang là", và
"cái có thể đến" trong tức khắc trở nên lu mờ.
Sự chồng lấn thời gian này còn lan tỏa
và góp phần xóa nhòa nhiều ranh giới thực tại khác. Mối liên hệ giữa "mồ
hôi người" (biểu trưng cho nỗ lực, nguyên nhân, thuộc về thực tại vật lý
và cá nhân ở hiện tại) với "tiếng ngân" (biểu trưng cho kết quả, sự
lan tỏa, thuộc về thực tại âm thanh và có tính cộng hưởng trong tương lai gần)
đã làm mờ đi ranh giới nhân quả thông thường. Nỗ lực và thành quả dường như đồng
hiện trong khoảnh khắc cảm nhận. Tương tự, chiếc dùi (vật thể vô tri) được cuốn
áo cũ (dấu vết quá khứ, hơi ấm con người) khiến ranh giới giữa vật thể và lịch
sử/con người trở nên mờ đi, vật thể mang linh hồn và ký ức của chủ thể.
Qua bài thơ "Đánh chiêng",
Mai Văn Phấn đã cho thấy khả năng bậc thầy trong việc sử dụng thời gian như một
công cụ thi pháp. Bằng cách lồng ghép và đối chiếu các bình diện thời gian khác
nhau trong cấu trúc thơ ba dòng cực kỳ cô đọng, ông không chỉ tạo ra cảm giác về
một dòng chảy thời gian phi tuyến tính mà còn qua đó làm nhòa đi nhiều ranh giới
thực tại khác như vật chất/phi vật chất, nguyên nhân/kết quả, cá nhân/lịch sử.
Điều này không chỉ làm tăng chiều sâu và tính đa nghĩa cho bài thơ mà còn minh
chứng cho quan niệm nghệ thuật hiện đại của ông về một thực tại đa lớp, phức tạp
và luôn dịch chuyển trong dòng chảy của thời gian.
Ranh giới thực ẩn hiện bằng thủ pháp
xử lý thời gian và hình ảnh, Mai Văn Phấn không chỉ thể hiện một cái nhìn hiện
đại về sự phức tạp của thực tại (không chỉ là cái nhìn thấy mà còn là cái cảm
thấy, cái nhớ, cái mơ), mà còn mời gọi độc giả chiêm nghiệm sâu sắc hơn về bản
chất của ký ức, vai trò của thời gian trong việc định hình nhận thức, và mối
liên hệ giữa các tầng lớp tồn tại. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo
nên chiều sâu tư tưởng và tính đa nghĩa, đầy ám ảnh trong thơ ba dòng của ông.
Một trong những biểu hiện rõ rệt của
thời gian tâm lý trong thơ ông là sự cô đọng của ký ức và hoài niệm. Một hình ảnh
thoáng qua, một âm thanh bất chợt có thể khơi gợi cả một dòng chảy ký ức trong
tâm trí chủ thể trữ tình, làm mờ đi ranh giới giữa quá khứ và hiện tại. Thời
gian tâm lý ở đây không tuân theo trật tự tuyến tính mà đan xen, chồng chất, tạo
nên những vệt thời gian riêng tư và đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ, một mùi hương
quen thuộc có thể đưa tâm trí trở về một thời điểm đã xa, làm sống lại những cảm
xúc tưởng chừng đã ngủ yên.
Bên cạnh đó, sự kéo dài hoặc rút ngắn
thời gian theo trạng thái cảm xúc cũng là một đặc điểm nổi bật. Trong những khoảnh
khắc cô đơn, chờ đợi hoặc đau khổ, thời gian dường như đóng băng, mỗi giây phút
trôi qua nặng nề và chậm chạp. Ngược lại, khi đắm chìm trong niềm vui, sự say
mê hoặc những trải nghiệm tích cực, thời gian lại trôi đi vội vã, không để lại
dấu vết. Mai Văn Phấn thường sử dụng những hình ảnh tĩnh lặng, vắng vẻ để gợi
lên sự lay động thời gian tâm lý trong những trạng thái tiêu cực, và những hình
ảnh động, tươi sáng để diễn tả sự trôi nhanh của thời gian trong những cảm xúc
tích cực.
Sự gián đoạn và đứt gãy trong cảm nhận
thời gian cũng có thể được tìm thấy trong thơ ông. Một sự kiện bất ngờ, một cảm
xúc mạnh mẽ có thể làm gián đoạn dòng chảy thời gian tâm lý, tạo ra những khoảng
trống, những vết nứt trong ý thức. Thời gian không còn là một dòng chảy liên tục
mà trở thành những mảnh vỡ, những khoảnh khắc rời rạc, phản ánh sự xáo trộn
trong tâm hồn.
Ngoài ra, sự mơ hồ giữa thực tại và ảo
ảnh, giữa giấc mơ và tỉnh thức cũng góp phần tạo nên một không gian thời gian
tâm lý đặc biệt trong thơ Mai Văn Phấn. Trong những trạng thái lim dim, giữa ý
thức và vô thức, cảm nhận về thời gian trở nên nhoè nhoẹt, không còn rõ ràng.
Quá khứ, hiện tại và tương lai có thể hoà lẫn vào nhau, tạo ra những trải nghiệm
thời gian phi tuyến tính và mang đậm tính chủ quan.
Thời gian tâm lý trong thơ ba dòng của
Mai Văn Phấn không được diễn tả một cách trực diện mà được khéo léo gợi lên qua
những chi tiết ngoại cảnh, những hình ảnh biểu tượng và những trạng thái cảm
xúc. Với sự cô đọng và hàm súc của thể thơ, ông đã tạo ra một không gian nội
tâm sâu sắc, nơi thời gian không còn là một thước đo khách quan mà trở thành một
dòng chảy biến ảo, phản ánh những phức tạp và tinh tế của tâm hồn con người. Họ
có thể bỏ qua thời gian đứng yên vượt qua dòng chảy để cảm nhận thơ Mai Văn Phấn
theo một hướng đào và mở.
CHƯƠNG 3: CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG
THƠ BA CÂU MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ MỘT SỐ
PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
3.1. Ngôn từ
chỉ thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn
“Thơ là một hình thức sáng tác văn học
đầu tiên của loài người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất, dài thuật ngữ
thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để
tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu
thơ ngày nay thì thật không dễ.” [10, tr 1]
“Thơ Mai Văn Phấn có sự hòa hợp với
thời gian, thích nghi với sự vận hành của thời gian, chủ động đón đợi thời
gian, bình tĩnh chờ thời gian đến, cảm nghiệm, trải nghiệm thời gian trong từng
cung bậc cảm xúc của con người. Nhà thơ không sợ hãi trốn chạy khỏi thời gian,
cũng không chạy đua hay đố kỵ với thời gian, không tiếc nuối thời gian. Thi sĩ
thấy rõ mình đang hành xử đúng mực với từng sát- na thời gian, chiêm nghiệm, trải
nghiệm; chơi với nó một cách thú vị như trò xúc xắc. Thời gian trong thơ ông
chính là con người!” [10, tr 4]
Trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn,
"cảm thức thời gian" không phải là một dòng chảy tuyến tính, dễ đoán
mà là một phức thể được dệt nên từ sự tương giao, chồng xếp của các lớp thời
gian, thường được biểu đạt đầy ám ảnh và tinh tế thông qua việc sử dụng ngôn từ
và ngữ pháp. Đặc trưng tính cực ngắn của thể thơ ba dòng không giới hạn khả
năng biểu đạt này, ngược lại, nó buộc nhà thơ phải chưng cất ngôn ngữ đến mức tối
đa, khiến mỗi lựa chọn từ ngữ hay cấu trúc ngữ pháp đều trở nên đắt giá và đa
nghĩa trong việc định hình cảm nhận về thời gian của người đọc. Có những bài
thơ Mai Văn Phấn chỉ gói gọn trong năm chữ nhưng khả năng gợi tả bề chìm lại đến
trăm chữ giải nghĩa mới thành.
Có thể thấy sự thành công trong việc
lựa chọn và đặt để từ ngữ chỉ thời gian và trạng thái thời gian. Bên cạnh các từ
ngữ trực tiếp như "hôm qua", "bây giờ", "sắp",
"vẫn", "chợt", "bỗng", nhà thơ còn khai thác triệt
để những từ ngữ mang tính biểu tượng cao, tự thân đã hàm chứa ý niệm về quá
trình và sự biến dịch của thời gian. Chẳng hạn, các danh từ chỉ thực thể có
vòng đời ngắn ngủi như "giọt sương", "cánh hoa" gợi cảm
giác về sự phù du, khoảnh khắc vụt tan; trong khi "hạt mầm", "rễ
cây" lại mang ý niệm về sự khởi đầu, âm thầm sinh sôi theo thời gian. Việc
đặt cạnh nhau những biểu tượng của sự sống (khởi đầu) và sự tàn lụi (kết thúc)
trong cùng một bài thơ ba dòng tạo ra một trường lực mạnh mẽ về cảm thức thời
gian trôi chảy, xoay vần. Đôi khi, chỉ một từ ngữ chỉ trạng thái như
"còn" sau một hình ảnh gợi sự mất mát cũng đủ sức neo giữ ký ức về một
thời đã qua, tạo ra sự giằng xé giữa hiện tại và quá khứ.
Cộng hưởng với đó yếu tố ngữ pháp, đặc
biệt là thì, thể và dạng thức động từ, đóng vai trò kiến tạo nên nhịp điệu và cảm
giác về thời gian trong thơ ông. Trong tiếng Việt, việc sử dụng các chữ như
"đã", "đang", "sẽ" là phương tiện chính để xác định
thời gian và thể của hành động. Mai Văn Phấn sử dụng chúng một cách có ý thức để
định vị sự việc trong dòng chảy quá khứ, hiện tại hay tương lai, hoặc nhấn mạnh
sự tiếp diễn ("đang"), sự hoàn thành ("đã"), hay khả năng xảy
ra ("sẽ"). Tuy nhiên, một thủ pháp đặc sắc, thường thấy trong thơ ba
dòng của ông và thơ hiện đại nói chung, là việc lược bỏ tối đa các hạt chỉ thì.
Sự vắng mặt của "đã", "đang", "sẽ" khiến cho hành
động hay trạng thái được miêu tả thoát ly khỏi một mốc thời gian cụ thể, trở
nên phiếm định hoặc mang tính vĩnh cửu trong khoảnh khắc được thơ hoá. Lúc này,
trọng tâm không nằm ở việc "khi nào" sự việc xảy ra, mà là
"chính sự việc đó" hoặc "trạng thái đó" tồn tại như một
chân lý cô đọng, một biểu tượng vượt thời gian. Hơn nữa, việc lựa chọn giữa động
từ chỉ hành động (gợi sự dịch chuyển, biến đổi trong thời gian) và động từ chỉ
trạng thái (gợi sự tồn tại tĩnh tại, bền vững) cũng góp phần tạo nên những sắc
thái cảm thức thời gian đa dạng. Một hành động vụt qua có thể được ghi lại bằng
động từ dứt khoát, trong khi một trạng thái kéo dài lại dùng động từ mang tính
tồn tại.
Đặc biệt quan trọng là sự tương tác
và đối sánh ngữ pháp giữa ba dòng thơ. Chính cấu trúc độc đáo này mang lại khả
năng biểu đạt thời gian phân mảnh và đa chiều. Nhà thơ có thể đặt một hình ảnh
quá khứ ở dòng đầu, một hành động đang diễn ra ở dòng giữa, và một suy ngẫm
mang tính chiêm nghiệm về dòng chảy thời gian ở dòng cuối. Sự chuyển dòng đột
ngột về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp tạo ra những cú "nhảy cóc" về thời
gian trong nhận thức của người đọc. Việc kết thúc dòng thứ hai bằng một động từ
ở thể hoàn thành "đã xong" và bắt đầu dòng thứ ba bằng một trạng thái
ở hiện tại tiếp diễn "vẫn đang" có thể tạo ra cảm giác về sự tiếp nối
không ngừng nghỉ, về cái đã qua vẫn còn ảnh hưởng đến cái đang hiện hữu. Hoặc
ngược lại, việc đặt một hình ảnh sống động ở hiện tại (có thể dùng
"đang") ở dòng đầu và kết thúc bằng một trạng thái tĩnh tại (dùng động
từ trạng thái, không hạt chỉ thì) ở dòng cuối có thể gợi cảm giác thời gian như
ngừng lại, cô đặc toàn bộ bài thơ vào một khoảnh khắc vĩnh cửu. Cấu trúc này
khuyến khích người đọc tự mình nối kết, lấp đầy những khoảng trống thời gian,
qua đó cảm nhận sự chồng xếp, đan xen của quá khứ, hiện tại và tương lai trong
tâm tưởng chủ thể trữ tình.
Với khuôn khổ cực kỳ cô đọng chỉ ba
dòng, mỗi từ, mỗi cấu trúc đều được chắt lọc tối đa, trở thành phương tiện hiệu
quả để nhà thơ biểu đạt những lát cắt, những lớp lang phức tạp của thời gian.
Chính sự kiệm lời của thể thơ đã biến các lựa chọn ngôn ngữ thành điểm nhấn
quan trọng, định hình nhận thức của người đọc về dòng chảy (hoặc sự ngưng đọng)
của thời gian trong bài thơ. Một trong những phương thức quan trọng là việc sử
dụng các từ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp gợi về thời gian. Bên cạnh những từ chỉ
thời gian mang tính điểm như "khoảnh khắc", "chốc lát", hay
các từ chỉ quá trình như "đang", "sắp", "vẫn",
"rồi", Mai Văn Phấn còn khéo léo cài cắm các từ ngữ chỉ sự vật, hiện
tượng tự thân đã chứa đựng quá trình thời gian. Đó có thể là "hạt mầm"
mang ý niệm về sự khởi đầu và lớn lên, "lá khô" gợi sự lụi tàn và kết
thúc, hay "vệt nắng xiên" neo giữ thời gian ở một buổi cụ thể trong
ngày. Sự xuất hiện hoặc đối sánh những từ ngữ này trong ba dòng thơ ngắn tạo
nên những liên tưởng, dịch chuyển tinh tế về dòng chảy tự nhiên, chu kỳ hay trạng
thái của thời gian.
Ngữ pháp đóng vai trò then chốt
trong việc định hình cảm thức thời gian. Mặc dù tiếng Việt không có hệ thống biến
đổi động từ phức tạp theo thì, việc sử dụng các hạt như "đã",
"đang", "sẽ" hay "vẫn còn" có sức mạnh biểu đạt rất
lớn trong thơ ba dòng. "Đã" neo bài thơ vào ký ức, "đang"
giữ chặt ở hiện tại, còn "sẽ" mở ra cánh cửa tương lai. Tuy nhiên, một
đặc điểm nổi bật trong thơ cô đọng là việc lược bỏ các hạt chỉ thì, tạo ra một
cảm giác về "thời gian phiếm định" hoặc vượt thoát khỏi sự ràng buộc
tuyến tính. Hành động hay trạng thái được miêu tả dường như tồn tại ở mọi thời
điểm, hoặc chỉ tập trung vào bản chất cốt lõi, không bị chi phối bởi quá khứ
hay tương lai. Bên cạnh đó, việc lựa chọn giữa động từ chỉ hành động (gợi sự
chuyển động, diễn tiến trong thời gian) và động từ chỉ trạng thái (gợi sự tĩnh
tại, tồn tại bền vững) cũng góp phần tạo nên những sắc thái khác nhau cho cảm
thức thời gian.cấu trúc ba dòng thơ là một yếu tố ngữ pháp đặc thù cho phép nhà
thơ tạo ra hiệu ứng thời gian độc đáo thông qua sự tương tác và đối sánh giữa
các dòng. Mỗi dòng thơ có thể chứa đựng một lát cắt thời gian riêng biệt (quá
khứ - hiện tại - tương lai), một trạng thái khác nhau của cùng một sự vật theo
thời gian, hoặc một mối quan hệ nhân quả/tiếp nối được ngưng đọng. Việc đặt các
yếu tố ngôn ngữ và hình ảnh gợi thời gian ở những vị trí chiến lược trong ba
dòng tạo nên những cú "nhảy cóc", những lớp lang thời gian chồng xếp
lên nhau, buộc người đọc phải tự lấp đầy những khoảng trống và cảm nhận dòng chảy
thời gian không theo quy luật thông thường, mà mang tính chủ quan, phân mảnh và
giàu suy ngẫm, phản ánh rõ nét phong cách và cảm thức thời gian đặc trưng trong
thơ ba dòng của Mai Văn Phấn.
Thông qua việc sử dụng có ý thức và
sáng tạo các từ ngữ chỉ thời gian và trạng thái, khai thác hiệu quả thì, thể động
từ (bao gồm cả việc lược bỏ hạt chỉ thì), và đặc biệt là vận dụng linh hoạt cấu
trúc tương tác giữa ba dòng thơ, Mai Văn Phấn đã xây dựng nên một "cảm thức
thời gian" rất riêng trong thơ ba dòng của mình. Đó là một cảm thức không
đơn thuần là đo đếm mà là sự trải nghiệm sâu sắc về khoảnh khắc phù du, về sự
biến dịch không ngừng, và về khả năng ký ức neo giữ hay biến đổi dòng chảy thời
gian, tạo nên những tầng nghĩa phức điệu và ám ảnh về sự tồn tại của con người
trong vũ trụ thời gian.
Thể loại thơ ba câu độc đáo của Mai
Văn Phấn, ngôn từ đóng vai trò cốt lõi, là yếu tố định hình nên phong cách và
chuyên chở những tầng nghĩa phức điệp. Ngôn từ trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn
mang tính tối giản và cô đọng đến mức cao độ. Số lượng từ trong mỗi dòng và mỗi
bài thơ được chắt lọc gắt gao, loại bỏ tối đa những yếu tố thừa thãi. Mỗi từ ngữ
đứng trong bài thơ dường như đã trải qua một quá trình "nén chặt" về
nghĩa, buộc phải chuyên chở trọng lượng biểu đạt lớn hơn nhiều so với dung lượng
thực tế của nó. Sự kiệm lời này không phải là nghèo nàn về chữ nghĩa, mà là một
thủ pháp có ý thức nhằm tạo ra mật độ ý tưởng và cảm xúc, đồng thời tạo ra khoảng
trống cho người đọc tham gia vào quá trình kiến tạo nghĩa. Nhà thơ đã sử dụng vốn
từ ngữ và hình ảnh rất đỗi bình dị, gần gũi với đời sống thường ngày và thiên
nhiên quen thuộc. Đó có thể là những sự vật cụ thể như "chiếc dùi",
"áo cũ", "sân", "đàn chim", "mồ hôi",
hay những hiện tượng tự nhiên như "hoàng hôn", "tiếng
ngân". Tính chất "bình dân" của vốn từ này đối lập với chiều sâu
tư tưởng mà bài thơ hướng tới, tạo nên sự bất ngờ và thú vị. Nhà thơ tìm thấy
chất thơ và khả năng gợi mở không giới hạn ở ngay những điều giản đơn nhất xung
quanh con người.
Gây dấu ấn trong ngôn từ của Mai Văn
Phấn là khả năng tạo ra sự bất ngờ và đa nghĩa thông qua việc sắp đặt, đối chiếu
các từ ngữ và hình ảnh tưởng chừng không liên quan hoặc ở những bình diện khác
nhau. Ông thường đặt cái cụ thể bên cạnh cái trừu tượng ("tiếng ngân mồ
hôi người"), cái vật chất bên cạnh cái tinh thần ("cuốn áo cũ"
cho chiếc dùi), hay các yếu tố thuộc về những chiều kích thời gian, không gian
khác biệt ("Hoàng hôn vây quanh sân / Đàn chim / Bên ngoài"). Cách kết
hợp "lạ hóa" này phá vỡ lối tư duy logic thông thường, kích thích
liên tưởng đa chiều và mở ra những tầng nghĩa vượt ra ngoài nghĩa đen của từ ngữ.
Chính sự tối giản, bình dị nhưng được sắp đặt đầy chủ ý đã khiến ngôn từ của
ông trở nên giàu sức gợi. Mỗi từ, mỗi hình ảnh không chỉ miêu tả sự vật mà còn
là "chìa khóa" để mở ra những liên tưởng về cảm xúc, suy tư triết học,
hoặc những trạng thái tồn tại phức tạp. Ví dụ, "áo cũ" không chỉ là
chiếc áo, nó gợi về thời gian, thân phận, ký ức. "Mồ hôi người" không
chỉ là mồ hôi, nó biểu trưng cho nỗ lực, sự sống, giá trị. Ngôn từ hoạt động
như những "tín hiệu", đòi hỏi người đọc phải "giải mã" và lấp
đầy những khoảng trống ý nghĩa.
Ngôn từ trong thơ ba câu Mai Văn Phấn
là sự kết hợp tài tình giữa tính tối giản, bình dị với khả năng kiến tạo bất ngờ
và đa nghĩa. Bằng việc chắt lọc từ ngữ, sử dụng hình ảnh quen thuộc nhưng sắp đặt
theo cách lạ hóa, ông đã biến những điều đơn giản trở thành điểm khởi phát cho
những suy tư sâu sắc về con người, thời gian và bản thể. Ngôn từ của ông không
phô trương nhưng sắc bén, không dàn trải nhưng hàm súc, tạo nên sức hấp dẫn
riêng biệt và góp phần định hình một thi pháp hiện đại, giàu tính gợi mở trong
thơ Việt.
3.2. Hình thức và bố cục mang tính vụt tắt trong thơ ba
câu
Trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn,
cảm thức về "tính vụt tắt" không chỉ là nội dung được biểu đạt mà còn
là đặc điểm thấm đẫm trong chính hình thức và bố cục của bài thơ. Thể thơ cực
ngắn này, với chỉ vỏn vẹn ba dòng, tự thân nó đã là một biểu hiện của sự cô đọng,
của việc chắt lọc khoảnh khắc. Bài thơ bắt đầu và kết thúc rất nhanh, tạo nên một
nhịp điệu gấp gáp, một "lát cắt" sắc lẹm giữa dòng chảy vô tận của
ngôn từ và cảm xúc, qua đó thể hiện trực quan nhất tính chất phù du, chớp
nhoáng của khoảnh khắc, của hiện tại.
Sự cô đọng của hình thức buộc nhà
thơ phải nén chặt ý tưởng và hình ảnh. Thay vì trải dài, phân tích hay diễn tả
quá trình, Mai Văn Phấn tập trung vào việc ghi lại những "điểm chạm"
đột ngột, những giao thoa bất ngờ. Ba dòng thơ như ba cú lia máy nhanh, bắt lấy
những khoảnh khắc chợt hiện, chợt tan. Tính "vụt tắt" không chỉ nằm ở
chủ đề mà còn ở cách bài thơ hiển hiện – nó xuất hiện nhanh, để lại ấn tượng mạnh
rồi kết thúc, giống như cách một cảm xúc chợt đến rồi đi, hay một hình ảnh
thoáng qua trong tâm trí.
Quan trọng hơn, bố cục và cách ngắt
dòng trong thơ ba dòng đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra cảm giác về sự
vụt tắt và tính đột ngột. Ranh giới giữa các dòng thơ là những khoảng lặng ngắn,
những nhịp ngừng đầy chủ ý. Sự chuyển tiếp từ cuối dòng này sang đầu dòng kế tiếp
thường tạo ra một cú nhảy về hình ảnh, không gian, thời gian hoặc cảm xúc.
Chính những cú nhảy bất ngờ này, sự va đập giữa các yếu tố được đặt ở cạnh nhau
qua vạch ngăn dòng, đã tái hiện lại tính chất bất ngờ, khó nắm bắt của những
khoảnh khắc "vụt tắt" trong cuộc sống và tâm tưởng. Dòng thứ hai có
thể đột ngột lật ngược hình ảnh của dòng thứ nhất, hoặc dòng thứ ba mở ra một
chân trời ý nghĩa hoàn toàn khác biệt, khiến người đọc cảm nhận rõ rệt sự chuyển
giao nhanh chóng, sự biến mất của trạng thái trước để nhường chỗ cho trạng thái
sau một cách chớp nhoáng.
Hơn nữa, độ dài ngắn của mỗi dòng
(thường là khá ngắn) cùng với việc bố trí thành ba dòng riêng biệt trên trang
giấy tạo nên một cấu trúc thị giác mang tính phân mảnh. Ba dòng thơ đứng độc lập
nhưng lại liên kết chặt chẽ, như ba mảnh ghép của một khoảnh khắc duy nhất, hoặc
ba khoảnh khắc kế tiếp nhau chỉ trong gang tấc. Sự phân tách rõ ràng về mặt thị
giác này càng nhấn mạnh tính "vụt tắt" của mỗi dòng, mỗi ý, đồng thời
cũng thể hiện sự hữu hạn, đếm được của những khoảnh khắc được thơ ca lưu giữ, đối
lập với sự vô hạn và trôi chảy không ngừng của thời gian thực.
“Tĩnh lặng có lẽ vẫn là thời gian có
ý nghĩa nhất đối với con người. Đó là thời gian để con người lắng đọng, sống chậm
hơn, có điều kiện để sống cho mình và chia sẻ cảm xúc sống với người. Con người
sống bên nhau trong thực tế bằng xương bằng thịt nhưng nhiều khi chưa hẳn đã thấu
hiểu, đã chia sẻ được cùng nhau. Họ cần những khoảng lặng với vô vàn những câu
hỏi động, hay nói cách khác họ chỉ gặp và an ủi được nhau trong những phút tĩnh
lặng với thời gian. Tĩnh lặng với thời gian trong thơ Mai Văn Phấn gắn liền với
những khắc khoải của nhà thơ về tồn tại, về đời người. Những khoảnh khắc tĩnh lặng
trong thơ ông không phụ thuộc nhiều vào quy luật tuần hoàn của vũ trụ, không bị
chi phối nhiều bởi vòng cung thời gian.” [3, tr 2]
Trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn,
"tính vụt tắt" không chỉ là nội dung mà còn là thủ pháp nghệ thuật được
thể hiện thông qua chính hình thức và bố cục. Thoạt hình qua hình thức chung của
bài thơ ai nấy cũng không khỏi bất ngờ với số lượng từ chứa đựng trong nó, những
bài thơ như những chiếc ruộng bật thang tách dòng hay như những nốt nhạc gieo
nhịp theo hệ thống hình thức của bài thơ.
Sự cô đọng của thể thơ, những cú ngắt
dòng đột ngột tạo nên sự va đập và chuyển dịch nhanh chóng, cùng với cấu trúc
thị giác phân mảnh, tất cả hoà quyện để kiến tạo nên một thứ ngôn ngữ thơ ca có
khả năng nắm bắt và truyền tải một cách mạnh mẽ, trực quan nhất cảm thức về những
khoảnh khắc chợt hiện, chợt tan, về sự phù du và vẻ đẹp mong manh của sự tồn tại
trong dòng chảy vô thường của thời gian. Giai điệu trong thơ cũng từ đó mà được
hình thành qua chính sự tác động lẫn nhau của từng câu thơ, bài thơ đọc xuôi
hay ngược, thuận hay nghịch cũng tạo ra bản thể mới về hình thức cấu tạo ngôn từ
. Mỗi bài thơ là một góc nhìn một tâm trạng được bộc lộ qua số lượng và hệ thống
hình thức thơ.
3.3. Nhịp điệu và cấu trúc thơ theo âm hưởng thời gian
trong thơ ba câu
Trong thi ca Mai Văn Phấn, đặc biệt
là ở thể thơ ba dòng đầy tính thách thức, nhịp điệu và cấu trúc thơ không chỉ
đơn thuần là khung xương định hình bài thơ, mà còn là những yếu tố nghệ thuật đắc
lực, trực tiếp kiến tạo và truyền tải âm hưởng thời gian một cách sâu sắc và ám
ảnh. Chính sự tương tác nhuần nhuyễn giữa tiết tấu bên ngoài và cách tổ chức ý
tứ bên trong đã định hình nên cảm thức đặc trưng về dòng chảy (hoặc sự ngưng đọng)
của thời gian trong tâm thức người đọc.
Nhịp điệu trong thơ ba dòng Mai Văn
Phấn thường được cảm nhận như một nhịp đập dồn nén, gấp gáp, phản chiếu chính
tính chất "vụt tắt" của khoảnh khắc. Số lượng tiếng ít ỏi trong mỗi
dòng cùng với sự ngắt dòng thường xuyên (hai lần trong một bài thơ ngắn ngủi) tạo
nên một tiết tấu nhanh, không cho phép người đọc dừng lại quá lâu ở bất cứ điểm
nào. Nhịp điệu này mô phỏng lại tốc độ lướt qua của thời gian, sự trôi nhanh
không thể níu giữ của những khoảnh khắc phù du. Đáng chú ý hơn là vai trò của
các khoảng lặng được tạo ra bởi vạch ngăn dòng. Đây không chỉ là nơi kết thúc
câu thơ, mà là những "điểm dừng năng lượng", nơi ý tứ của dòng trước
còn đang ngân vang trong khi dòng sau đã chuẩn bị xuất hiện. Những khoảng lặng
này, dù ngắn ngủi, lại là nơi cảm giác về sự đứt gãy, về khoảng cách thời gian
giữa các khoảnh khắc được cảm nhận rõ nét nhất. Chúng nhấn mạnh rằng thời gian
không phải là một dòng chảy liên tục, mượt mà, mà là sự nối tiếp của những lát
cắt, những điểm đoạn, và chính trong những khoảng trống ấy, cái "vụt tắt"
trở nên hữu hình. Nhịp điệu nhanh cùng với những khoảng lặng nhấn nhá tạo nên một
tiết tấu độc đáo, vừa hối hả, vừa gợi suy ngẫm về sự hữu hạn.
Song hành cùng nhịp điệu, cấu trúc
ba dòng là nơi "âm hưởng thời gian" được kiến trúc một cách tài hoa.
Cách nhà thơ phân bổ hình ảnh, hành động, trạng thái hay suy tưởng vào từng
dòng tạo nên những mô hình thời gian phức tạp, vượt ra ngoài khuôn khổ tuyến
tính thông thường. Đôi khi, cấu trúc là một sự nén tuyến tính đến cực điểm:
dòng đầu là khởi điểm, dòng giữa là quá trình ngắn ngủi, và dòng cuối là kết thúc
hoặc dư âm tức thời. Nhưng phổ biến hơn, cấu trúc được sử dụng để tạo ra sự chồng
xếp, đan cài của các lớp thời gian. Dòng đầu neo giữ hiện tại, dòng thứ hai bất
ngờ mở ra cánh cửa ký ức về quá khứ, và dòng thứ ba lại hướng tới một dự cảm
tương lai hoặc một chân lý vượt thoát thời gian. Chính sự sắp đặt "phi tuyến
tính" này – đặt quá khứ, hiện tại, tương lai cùng tồn tại hoặc va chạm
trong ba dòng ngắn ngủi – mô phỏng lại cách thời gian vận hành trong tâm thức
con người: không tuần tự mà hỗn độn, ký ức ùa về bất chợt, suy nghĩ lướt nhanh
giữa các chiều thời gian. Cấu trúc ba dòng trở thành một sân khấu nhỏ nơi các
"vai diễn" thời gian luân chuyển, tương tác, tạo nên những "cú
nhảy cóc" bất ngờ, buộc người đọc phải chủ động kết nối và cảm nhận sự đa
tầng của dòng chảy thời gian nội tại. Hơn nữa, sự đối sánh giữa các yếu tố được
đặt ở cuối dòng trên và đầu dòng dưới là một thủ pháp cấu trúc mạnh mẽ, đặc biệt
hiệu quả trong việc gợi cảm giác về thời gian. Việc đặt cạnh nhau hình ảnh của
sự đầy đặn (ở một thời điểm) và sự trống rỗng (ở thời điểm tiếp theo) chỉ cách
nhau một vạch ngăn dòng tạo nên một cú sốc thị giác và ý nghĩa, nhấn mạnh sự biến
đổi nhanh chóng, sự mất mát xảy ra chỉ trong tích tắc. Hay việc dòng cuối lặp lại
hoặc biến tấu một yếu tố ở dòng đầu tạo nên cấu trúc vòng tròn, gợi cảm thức về
sự tuần hoàn của thời gian, về những chu kỳ lặp đi lặp lại trong cuộc sống.
“Thời gian và sự biến đổi của vũ trụ,
của thế giới luôn là vấn đề quan trọng được các thi sĩ quan tâm. Bản chất của đối
thoại là hỏi, nghe, trả lời, đồng ý…Con người khi đã ra đi nhưng những cuộc đối
thoại có ý nghĩa với đời sẽ luôn ở lại. Mỗi nhà thơ đều trải nghiệm, đối thoại
với thời gian theo cách của mình…Thời gian với nhà thơ Mai Văn Phấn không chỉ
là thực tại khách quan mà còn là sự hiện diện của một thứ quyền uy huyền bí vượt
trên mọi danh xưng hiện hữu. Nỗi sợ phải chết, nỗi cô đơn và bất lực của con
người trước quy luật thời gian luôn song hành với con người trong khát vọng trở
thành bất tử.” [3, tr 2]
Dù không tuân thủ niêm luật hay vần
điệu chặt chẽ của các thể thơ truyền thống, nhịp điệu và cấu trúc vẫn đóng vai
trò quan trọng, góp phần kiến tạo và truyền tải âm hưởng thời gian cùng với
quan niệm về sự xóa nhòa ranh giới thực. Bản chất cấu trúc ba dòng thơ đã là một
yếu tố định hình mạnh mẽ. Sự ngắn gọn, cô đọng của cấu trúc này tạo ra một
khuôn khổ chặt chẽ, đối lập với sự vô hạn của thời gian. Mỗi dòng thơ, và đặc
biệt là những khoảng lặng được tạo ra bởi ngắt dòng, chia bài thơ thành những
đơn vị nhỏ, có thể gợi cảm giác về sự phân mảnh của thời gian tuyến tính, về việc
ghi nhận từng khoảnh khắc, từng lát cắt của thực tại. Sự chuyển tiếp nhanh
chóng giữa các dòng cũng tạo ra một nhịp điệu gấp gáp, có thể phản ánh sự trôi
chảy thoắt ẩn thoắt hiện của khoảnh khắc.
Tuy không có nhịp điệu cố định theo
số âm tiết, nhịp điệu nội tại của bài thơ được tạo nên bởi độ dài ngắn không đều
của các dòng, cách phân bố từ ngữ, và đặc biệt là sự ngắt nghỉ ở cuối mỗi dòng.
Nhịp điệu này thường không êm đềm, liền mạch như lục bát hay song thất lục bát,
mà có thể đứt nối, bất ngờ, phản ánh chính sự phi tuyến tính, gián đoạn và phức
tạp trong cảm nhận thời gian của nhà thơ. Sự đối lập về độ dài giữa các dòng
(ví dụ: dòng ngắn bất ngờ sau dòng dài hơn) có thể tạo ra một "khoảng lơ lửng"
về nhịp, tương ứng với khoảnh khắc thời gian ngưng đọng hoặc dịch chuyển đột ngột.
Dù không theo khuôn mẫu truyền thống,
nhịp điệu và cấu trúc ba dòng thơ của Mai Văn Phấn là một bộ phận hữu cơ trong
việc biểu đạt quan niệm thời gian phức hợp và sự xóa nhòa ranh giới thực. Cấu
trúc cô đọng và nhịp điệu linh hoạt, thường bất ngờ của ông tạo ra không gian để
các bình diện thời gian và thực tại khác nhau có thể cùng tồn tại, tương tác và
làm mờ ranh giới của nhau, qua đó truyền tải một cách hiệu quả những suy tư sâu
sắc về tồn tại và vũ trụ.
Giờ tụng niệm
Tiếng chim ríu rít
Khói hương
Chỉ nhớ cầu cho lá non
(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)
Cấu trúc ba dòng thơ và cách ngắt
dòng tạo ra khung sườn nhịp điệu cơ bản. Dòng đầu tiên, "Tiếng chim ríu
rít", giới thiệu một âm thanh sống động, ngoại cảnh với nhịp điệu nhanh, rộn
ràng, gợi cảm giác về một khoảnh khắc đầy sức sống của hiện tại tự nhiên. Dòng
thứ hai, "Khói hương", ngắn gọn và đột ngột, tạo ra một nhịp ngắt
abrupt, làm chậm lại hoặc tĩnh lại nhịp điệu trước đó, tập trung sự chú ý vào một
hình ảnh mang tính biểu tượng, tĩnh tại của nghi lễ. Dòng cuối cùng, "Chỉ
nhớ cầu cho lá non", là dòng dài nhất, mang nhịp điệu trải dài, suy tư và
có phần trầm lắng hơn, chứa đựng ý thức và hành động của con người. Sự thay đổi
đột ngột về độ dài và nhịp điệu giữa các dòng này không chỉ đơn thuần là hình
thức mà còn phản ánh sự dịch chuyển giữa các không gian (ngoài trời, trong
không gian nghi lễ, trong tâm tưởng) và các trạng thái tồn tại.
Nhịp điệu nội tại của bài thơ, được
tạo nên từ việc lựa chọn từ ngữ và cách phân bố chúng trên từng dòng, cũng góp
phần tạo nên âm hưởng thời gian phức tạp. Nhịp điệu nhanh, dồn dập của
"ríu rít" đối lập mạnh mẽ với sự tĩnh tại được gợi lên từ "Khói
hương" và nhịp điệu có thể chậm rãi, thành kính của hành động "cầu
cho". Sự tương phản nhịp điệu này không chỉ làm nổi bật sự đối lập giữa thế
giới tự nhiên sống động và không gian nghi lễ mà còn gợi ý về sự cùng tồn tại của
những dòng thời gian khác nhau: thời gian rộn rã của tự nhiên, thời gian thiêng
liêng được neo giữ của nghi lễ, và thời gian của suy tư nội tâm. Sự tương tác
giữa cấu trúc dòng và nhịp điệu nội tại đã tạo nên âm hưởng thời gian đặc
trưng, góp phần xóa nhòa ranh giới thực trong bài thơ. Việc đặt "Tiếng
chim ríu rít" (gắn với thời gian tuần hoàn của ngày/mùa và không gian bên
ngoài) ở dòng đầu tiên, ngay sau nhan đề "Giờ tụng niệm" (gắn với một
thời điểm cụ thể, tuyến tính và không gian nghi lễ), tạo ra một sự va chạm thời
gian và không gian đầy thi vị. Nhịp ngắt ở cuối dòng 1 và sự chuyển sang dòng 2
ngắn gọn buộc người đọc phải nhảy nhịp, dịch chuyển đột ngột từ thế giới âm
thanh rộn rã sang hình ảnh tĩnh của khói hương, từ bên ngoài vào không gian bên
trong. Nhịp điệu này phản ánh sự cùng tồn tại của các bình diện thực tại khác
nhau trong cùng một khoảnh khắc "Giờ tụng niệm". Nhịp điệu lắng đọng
của dòng cuối cùng, "Chỉ nhớ cầu cho lá non", nơi ý thức con người hướng
về một phần mong manh của tự nhiên, đã kết nối khoảnh khắc thời gian tuyến tính
của giờ tụng niệm với thời gian tuần hoàn của sự sinh trưởng tự nhiên. Cấu trúc
dòng dài hơn cho phép ý nghĩa này được mở ra đầy đủ, và nhịp điệu trầm lắng củng
cố cảm giác về sự chiêm nghiệm sâu sắc. Như vậy, nhịp điệu và cấu trúc trong
bài thơ không chỉ miêu tả thời gian mà còn tái tạo trải nghiệm về thời gian như
một dòng chảy đa lớp, nơi các ranh giới giữa thiêng liêng/đời thường, con người/tự
nhiên, khoảnh khắc/chu kỳ được làm mờ đi, tạo nên chiều sâu và sức gợi đặc biệt
cho bài thơ.
Nhịp điệu nhanh, dứt khoát cùng những
khoảng lặng nhấn nhá, kết hợp với cấu trúc ba dòng được tổ chức linh hoạt theo
nhiều mô hình (tuyến tính nén, phi tuyến tính, chồng xếp, đối sánh, vòng tròn),
đã biến hình thức thơ ba dòng của Mai Văn Phấn thành một công cụ đắc lực để
không chỉ miêu tả mà còn tái tạo trực tiếp "âm hưởng thời gian" – một
thứ âm hưởng vừa gấp gáp, vừa đứt gãy, vừa chồng xếp lớp lang, vừa mang tính chủ
quan sâu sắc. Bằng cách làm chủ nhịp điệu và cấu trúc, nhà thơ đã kiến tạo một
không gian thơ nơi thời gian không phải là khái niệm trừu tượng mà là một trải
nghiệm thẩm mỹ, một âm thanh, một cảm giác mà người đọc trực tiếp cảm nhận được
qua hình thức và bố cục của bài thơ. Đó là minh chứng cho thấy hình thức thơ,
trong bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ, có thể trở thành phương tiện biểu đạt
ý niệm triết học một cách đầy hiệu quả và lay động
KẾT LUẬN
Cảm thức thời gian trong thơ ba câu của
Mai Văn Phấn, một khía cạnh quan trọng góp phần định hình phong cách và chiều
sâu tư tưởng trong sáng tác của ông. Từ việc khảo
sát các phương thức biểu hiện đa dạng, có thể khẳng định rằng, trong khuôn khổ
vỏn vẹn ba dòng, nhà thơ đã không chỉ miêu tả về thời gian mà còn kiến tạo nên
một trải nghiệm thẩm mỹ về thời gian đầy khác biệt: đó là một dòng chảy phi tuyến
tính, phân mảnh, mang đậm dấu ấn chủ quan và luôn thường trực cảm thức về sự
phù du, vụt tắt của khoảnh khắc.
Mai Văn Phấn bằng sự làm chủ tuyệt vời
hình thức và ngôn ngữ của thể thơ ba dòng, đã vượt qua những giới hạn về dung
lượng để thể hiện một "cảm thức thời gian" đầy ám ảnh và triết lý.
Ông không đo đếm thời gian bằng đồng hồ, mà bằng những rung động, bằng sự hiện
diện và biến mất của vạn vật trong khoảnh khắc. Sự thành công của ông không chỉ
khẳng định sức biểu đạt tiềm tàng của thể thơ cực ngắn mà còn đóng góp vào dòng
chảy chung của thi ca đương đại Việt Nam trong việc khám phá và thể hiện những
vấn đề trừu tượng như thời gian qua lăng kính chủ quan, giàu hình ảnh và cảm
xúc.
Khoá luận tốt nghiệp với đề tài
"Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn" được thực hiện nhằm
mục đích khảo sát, phân tích và làm sáng tỏ những biểu hiện đặc trưng của cảm
thức thời gian trong một bộ phận tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ đương đại Mai
Văn Phấn – thể thơ ba câu. Bằng cách đi sâu vào từng khía cạnh biểu đạt nghệ
thuật như cấu trúc hình thức, hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ và các thủ pháp tu từ,
công trình nghiên cứu này mong muốn góp phần nhận diện sâu sắc hơn về thế giới
quan, thi pháp và vị trí của Mai Văn Phấn trong dòng chảy văn học hiện đại, đồng
thời cung cấp một góc nhìn chuyên biệt về cách thời gian được cảm nhận và tái tạo
trong một thể thơ độc đáo.
Qua quá trình khảo sát và phân tích
các văn bản thơ ba câu của Mai Văn Phấn, bài nghiên cứu đã rút ra những kết luận
quan trọng về cảm thức thời gian trong thi phẩm ba câu của ông. Trước hết, cảm
thức thời gian không chỉ giới hạn ở dòng chảy tuyến tính thông thường mà được
biểu hiện đa chiều, phức tạp và giàu tính triết lý. Đó là sự nhận diện về thời
gian như một dòng chảy vô tận của vũ trụ và lịch sử, song hành với sự cảm nghiệm
sâu sắc về tính hữu hạn, mong manh của thời gian cá nhân và thân phận con người.
Đặc biệt, thơ ba câu của Mai Văn Phấn làm nổi bật cảm thức về "khoảnh khắc"
– nơi thời gian như ngừng đọng, chứa đựng những chiêm nghiệm sâu sắc, sự bùng vỡ
cảm xúc, hoặc sự giao thoa đột ngột giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Cấu
trúc cô đọng, hàm súc của thể thơ ba câu đóng vai trò then chốt trong việc định
hình cách biểu đạt này, tạo nên sự súc tích, đa nghĩa và gợi mở liên tưởng mạnh
mẽ về sự dịch chuyển, ngưng đọng hay chồng lớp của thời gian. Các thủ pháp nghệ
thuật hiện đại được sử dụng một cách linh hoạt, góp phần làm phong phú thêm tầng
nghĩa về thời gian trong tác phẩm.
Mai Văn Phấn là một trong những tên
tuổi hàng đầu của thơ ca Việt Nam đương đại, với khối lượng tác phẩm đồ sộ và
nhiều thể nghiệm nghệ thuật táo bạo, trong đó thơ ba câu là một nét đặc sắc
riêng, thể hiện nỗ lực cách tân hình thức thơ. Việc đi sâu vào một khía cạnh cốt
lõi như cảm thức thời gian trong một thể loại cụ thể giúp công trình nghiên cứu
có trọng tâm rõ ràng, tránh sự dàn trải, đồng thời làm nổi bật được những đóng
góp độc đáo của nhà thơ trong việc thể hiện một đề tài muôn thưở bằng hình thức
mới lạ. Luận văn đã góp phần giải mã thêm một lớp nghĩa quan trọng trong thơ
Mai Văn Phấn, đặt cảm thức thời gian của ông vào bối cảnh thơ ca đương đại, qua
đó khẳng định giá trị và sức sáng tạo của nhà thơ trên hành trình tìm tòi những
khả năng biểu đạt mới.
Tuy bài nghiên cứu đã đạt được những
kết quả nhất định trong phạm vi và giới hạn của một khóa luận tốt nghiệp, đề
tài "Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn" vẫn mở ra nhiều
hướng nghiên cứu đầy tiềm năng cho các công trình khoa học tiếp theo. Các nghiên
cứu sau này có thể mở rộng phạm vi khảo sát, so sánh cảm thức thời gian trong
thơ ba câu với các thể loại thơ khác của Mai Văn Phấn hoặc với các nhà thơ cùng
thế hệ để thấy rõ hơn những ảnh hưởng, tiếp biến và sáng tạo cá nhân. Bên cạnh
đó, việc đi sâu vào phân tích mối tương quan giữa cảm thức thời gian và các yếu
tố khác như không gian, ký ức, thân phận con người hay yếu tố siêu hình trong
thơ ông cũng là một hướng tiếp cận đầy triển vọng. Nghiên cứu về sự tiếp nhận
và ảnh hưởng của cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn đối với độc giả và
thi giới phê bình cũng là một lĩnh vực cần được khai thác để có cái nhìn toàn
diện hơn về giá trị tác phẩm.
Với những phân tích và đánh giá đã
trình bày, bài nghiên cứu hy vọng đã cung cấp một góc nhìn hệ thống và khoa học
về cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn, góp phần vào việc nghiên cứu
và đánh giá đúng mức vị trí của nhà thơ trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
Công trình này cũng được xem như một điểm khởi đầu, khơi gợi những tìm tòi,
khám phá sâu sắc hơn về thế giới nghệ thuật phong phú và độc đáo của Mai Văn Phấn
trong tương lai, đóng góp vào việc nghiên cứu thơ ca đương đại Việt Nam.

SV Nguyễn Thị Khánh Ly
TÀI LIỆU THAM KHẢO