image advertisement

image advertisement
image advertisement





























 

Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn (Khóa luận tốt nghiệp) - Nguyễn Thị Khánh Ly

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

KHOA NGỮ VĂN

---œ&---

 

 

 

Nguyễn Thị Khánh Ly

 

 

 

CẢM THỨC THỜI GIAN

TRONG THƠ BA CÂU MAI VĂN PHẤN

 

 

 

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

 

 

 

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Thái Phan Vàng Anh

 

Huế, tháng 5 năm 2025

 

 

 

PGS.TS Thái Phan Vàng Anh (phải) và Nguyễn Thị Khánh Ly


 

 

LỜI CẢM ƠN

 

Để hoàn thành được bản khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn", em hiểu rằng đây không chỉ là kết quả nỗ lực của cá nhân mà còn là sự kết tinh của rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn của nhiều phương diện. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin được gửi lời tri ân chân thành đến tất cả thầy cô, khoa đã đồng hành cùng em trên chặng hành trình này.

Đầu tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và trân trọng nhất đến Ban Giám hiệu Trường Đại Học Sư Phạm Huế và Khoa Ngữ Văn đã cung cấp một môi trường học tập và nghiên cứu chuyên nghiệp, năng động, trang bị cho em  nền tảng kiến thức vững chắc cùng những kỹ năng cần thiết trong suốt những năm học vừa qua. Chương trình đào tạo chất lượng, cơ sở vật chất hiện đại và sự quan tâm sâu sát từ phía Nhà trường và Khoa là tiền đề không thể thiếu để em có thể tiếp cận, nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.

Đặc biệt và quan trọng nhất, em xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn và sâu sắc nhất đến PGS. TS Thái Phan Vàng Anh – người đã tận tình nhận lời hướng dẫn và đồng hành cùng em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận. Từ những ngày đầu định hình ý tưởng, xác định đề tài, cho đến khi xây dựng dàn ý, thu thập dữ liệu và hoàn thiện bản thảo cuối cùng, Cô luôn là người Cô cô mẫu mực, kiên nhẫn và tận tâm. Những buổi trao đổi, những góp ý chuyên môn sâu sắc, những câu hỏi gợi mở và cả những lời động viên kịp thời của Cô không chỉ giúp em tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong nghiên cứu mà còn truyền cho em niềm hứng thú, sự tự tin và phương pháp tư duy khoa học trong suốt khoảng thời gian 4 năm này. Có thể nói, nếu không có sự hướng dẫn quý báu của Cô, công trình này khó lòng có thể hoàn thành một cách tốt đẹp.

Em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể Quý Thầy, Cô giáo trong Khoa Ngữ Văn đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm quý báu cho em trong suốt chặng đường đại học. Những bài giảng tâm huyết của Thầy, Cô đã trang bị cho em nền tảng lý luận vững chắc và mở mang kiến thức, tạo cơ sở vững chắc để em có thể tiếp cận và giải quyết vấn đề nghiên cứu trong khoá luận. Xin trân trọng cảm ơn Quý Thầy, Cô trong Hội đồng chấm khoá luận đã dành thời gian đọc, đánh giá và đưa ra những nhận xét, góp ý quý báu để em có thể nhìn nhận những điểm còn hạn chế và hoàn thiện hơn nữa công trình nghiên cứu của mình.

Hành trình làm khoá luận không chỉ cần sự hỗ trợ về mặt học thuật mà còn cần một chỗ dựa tinh thần vững chắc. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất đến Gia đình – đặc biệt là bố mẹ – những người đã luôn là nguồn động lực lớn nhất, là bến bờ yêu thương và tin tưởng vô điều kiện. Tình yêu thương, sự quan tâm, động viên kịp thời và cả sự hy sinh thầm lặng của bố mẹ đã tiếp thêm sức mạnh, giúp em vượt qua những áp lực, khó khăn trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành tốt đẹp khoá luận này. Em cũng xin cảm ơn những người thân khác trong gia đình đã luôn ủng hộ và tạo điều kiện tốt nhất cho em.

Một lần nữa, em xin trân trọng cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ, hỗ trợ và tình cảm quý báu đã nhận được. Những đóng góp này không chỉ giúp em hoàn thành khoá luận mà còn là bài học quý giá về sự biết ơn và tinh thần đoàn kết hợp tác.

Xin trân trọng!

Sinh viên thực hiện

 

 Nguyễn Thị Khánh Ly

 

 

 

MỤC LỤC

 

A. MỞ ĐẦU

 

1. Lí do chọn đề tài

2. Lịch sử vấn đề

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. Phương pháp nghiên cứu

5. Đóng góp của khoá luận

6. Cấu trúc khoá luận

 

B. NỘI DUNG

 

CHƯƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

1.1. Khái quát về thơ ba câu

1.2. Cảm thức thời gian trong văn học

1.3. Tổng quan về Mai Văn Phấn và thơ ba dòng của ông

 

CHƯƠNG 2: CẢM THỨC THỜI GIAN NHÌN TỪ ĐỀ TÀI VÀ QUAN NIỆM THƠ MAI VĂN PHẤN 

2.1. Cảm thức thời gian nhìn từ phương diện đề tài

2.1.1. Đề tài thiên nhiên và những khoảnh khắc thường nhật

2.1.2. Đề tài con người và ký ức

2.2. Cảm thức thời gian từ quan niệm thơ Mai Văn Phấn

2.2.1. Quan niệm thời gian tuyến tính và tuần hoàn trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn

2.2.2. Thời gian xoá nhoà ranh giới thực trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn

 

CHƯƠNG 3:  CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ BA CÂU MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

 

3.1. Ngôn từ chỉ thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn

3.2. Hình thức và bố cục mang tính vụt tắt trong thơ ba câu

3.3. Nhịp điệu và cấu trúc thơ theo âm hưởng thời gian trong thơ ba câu

 

C. KẾT LUẬN

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO

 


A. MỞ ĐẦU

 

1. Lí do chọn đề tài

 

Thơ ca Việt Nam đương đại là một bức tranh đa sắc, liên tục dịch chuyển và không ngừng tìm tòi những con đường biểu đạt mới mẻ, phá vỡ những khuôn mẫu cũ để phản ánh chân thực nhịp sống và tư duy của thời đại. Trong bối cảnh năng động ấy, sự xuất hiện và định hình của thể loại thơ ba câu – một dạng thức thơ ngắn gọn, súc tích, chịu ảnh hưởng từ cấu trúc của haiku Nhật Bản nhưng đã được các nhà thơ Việt Nam tiếp biến và sáng tạo nên bản sắc riêng – đã trở thành một hiện tượng thi ca đáng chú ý. Thể loại này đặt ra những thách thức và đồng thời mở ra những khả năng biểu đạt độc đáo, đòi hỏi người sáng tác phải cô đọng tối đa cảm xúc và ý tưởng chỉ trong ba dòng thơ ít ỏi. Sự xuất hiện của thơ ba câu đáp ứng một nhu cầu thẩm mỹ và biểu đạt mới. Trong nhịp sống hiện đại hối hả, thơ ba câu với dung lượng cực kỳ giới hạn (chỉ ba dòng) buộc nhà thơ phải chắt lọc tối đa ngôn từ, hình ảnh và cảm xúc. Nó đòi hỏi một tư duy thơ cô đọng, khả năng nắm bắt và cô kết khoảnh khắc, tạo ra những cú "chạm" bất ngờ vào tâm thức người đọc. Chính sự ngắn gọn này đã tạo nên sức hấp dẫn riêng, khác biệt với sự dàn trải của thơ tự do hay khuôn khổ của thơ truyền thống. Tuy nhiên, so với các thể loại truyền thống hay thơ tự do dài hơn, thơ ba câu vẫn là một lĩnh vực tương đối mới mẻ và cần được nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa về đặc điểm thi pháp, cấu trúc, dung lượng biểu đạt, cũng như sự tiếp nhận và ảnh hưởng của nó trong đời sống văn học hiện tại.

Trong dòng chảy thơ ca đương đại đầy sôi động ấy, Mai Văn Phấn nổi lên như một giọng thơ tiêu biểu, giàu sức sáng tạo và luôn tìm tòi những thể nghiệm mới mẻ. Ông không chỉ khẳng định vị thế của mình qua các tập thơ với dung lượng dài mà còn là một trong những nhà thơ có nhiều tìm tòi và thành công với thể loại thơ ba câu. Thơ ba câu của Mai Văn Phấn mang đậm dấu ấn cá nhân, vừa kế thừa tinh thần cô đọng của thể thơ truyền thống, vừa mở ra những không gian liên tưởng hiện đại, giàu chất suy tưởng.

Khi tiếp cận với thế giới thơ ba câu của Mai Văn Phấn, người đọc dễ dàng nhận thấy "cảm thức thời gian" là một điểm nhấn nổi bật, xuyên suốt và mang nhiều tầng nghĩa. Thời gian trong thơ ông không chỉ là dòng chảy tuyến tính của quá khứ - hiện tại - tương lai, mà còn là sự lắng đọng, là khoảnh khắc giao thoa, là sự tương tác giữa hữu hạn và vô hạn, giữa cá nhân và vũ trụ. Cảm thức thời gian này được thể hiện qua những hình ảnh, biểu tượng, và cách tổ chức ngôn ngữ đặc trưng trong vỏ bọc cô đọng của thể thơ ba câu.

Xuất phát từ những nhận định trên, ta nhận thấy tầm quan trọng của việc nghiên cứu một hiện tượng thơ đương đại và một khía cạnh đặc sắc trong sáng tác của nhà thơ Mai Văn Phấn, em đã quyết định lựa chọn đề tài: "Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn" để làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.

Việc nghiên cứu đề tài này không chỉ góp phần làm sáng tỏ một khía cạnh độc đáo trong thi pháp Mai Văn Phấn, đặc biệt là trong thể loại thơ ba câu, mà còn đóng góp vào việc nghiên cứu về cảm thức thời gian - một chủ đề lớn trong văn học nói chung và thơ ca đương đại Việt Nam nói riêng. Kết quả nghiên cứu có thể cung cấp thêm tư liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu về thơ Mai Văn Phấn cũng như thể loại thơ ba câu trong nhà trường và các công trình nghiên cứu văn học khác.

 

2. Lịch sử vấn đề

 

Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ tiêu biểu sau 1975, thuộc thế hệ người trải qua giai đoạn gian khổ của chiến tranh bên cạnh những nhà thơ như Trương Đăng Dung, Hồ Thế Hà, Giáng Vân, Hoàng Vũ Thuật, Đoàn Thị Lam Quyến,…Họ sống cống hiến cho nghệ thuật nước nhà chứng kiến tàn tích của chiến tranh gây ra bên trong họ mang những ám ảnh tâm lý về sự sống và cái chết chính điều đó cũng được bộc lộ trong sáng tác qua phương diện khắc hoạ thời gian. Từ trước đến nay đã có nhiều bài tiểu luận, luận văn, nghiên cứu, tham luận đánh giá vị trí và tầm quan trọng của thơ ông trong diễn dàn văn học.

Cảm thức thời gian là một trong những vấn đề trung tâm của triết học và văn học, luôn nhận được sự quan tâm sâu sắc của giới nghiên cứu. Trong lịch sử nghiên cứu văn học Việt Nam, chủ đề này đã được xem xét ở nhiều giai đoạn khác nhau, từ văn học trung đại với quan niệm thời gian vũ trụ, tuần hoàn, đến văn học hiện đại với sự xuất hiện của thời gian tâm lý, thời gian xã hội, thời gian tuyến tính hay phi tuyến tính.

* Những bài viết về cảm thức thời gian trong Thơ hiện đại Việt Nam:

Cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Thị Việt Nga, Nhà sáng tác Nguyễn Thị Lan đã đề cập đến các tín hiệu của thời gian, đây là một trong số những điểm đặc trưng đầi tiên khi nhắc đến thời gian trong văn học qua hệ thống quý ngữ chỉ mùa, sự biến đổi thời gian không chỉ qua thiên nhiên mà lẫn cả con người. Qua bài viết ta thu nhận được kết cấu thời gian qua hệ thống tín hiệu tiêu biểu để từ đó phân tích cảm thức thời gian đạt được hiệu quả tối ưu nhất.

Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố, Cao Thị Hồng đã có nhận xét rằng: “Trong sáng tạo thi ca cảm thức về thời gian là một trong những phẩm tính thể hiện tài năng của người nghệ sĩ.” Quan niệm này cũng được thể hiện sâu sắc trong thơ Mai Văn Phấn khi ông đặc tả thời gian để thể hiện phong cách sáng tác của mình. [ 17, tr 2] Thời gian là yếu tố mang tính xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm, cách thức thể hiện dòng chảy ấy đều mang một sắc thái riêng biệt định hình hướng phong thái cá nhân của mình.

Cảm thức thời gian và suy nghiệm phận người trong thơ Trương Đăng Dung, Nguyễn Thị Liên Tâm cho rằng “Thời gian hữu hạn hay vô thủy vô chung? Thời gian vô tình hay hữu ý? Tất cả đều tùy thuộc vào cách tiếp nhận của từng cá thể con người trong những hoàn cảnh cụ thể. Thời gian chuyển dịch từ ánh bình minh rực rỡ đến khoảnh khắc ráng chiều vàng đẫm, hay khi màn đêm buông xuống…là thời gian phận người tiếp xúc với những giá trị đời thường.” [ 16, tr 1]

Cảm thức thời gian trong thơ Lưu Trọng Lư, Trần Nhật Thu “Viết về thời gian, không nhà thơ nào có thể giữ cho mình sự tĩnh lặng tuyệt đối” [ 19; tr 3] . Chắc cũng chính về lẽ đó mà trong các sáng tác thơ đều hoà hợp giữa yếu tố động và tĩnh tạo nên sắc thái hoà quyện trong văn chương giữa động và tĩnh, giữa nhộn nhịp và bình yên.

Cảm thức thời gian trong thơ Đỗ Trung Lai, Trần Thị Thuý Liễu và Trần Thị Huyền “ Thời gian nghệ thuật là thời gian được cảm nhận bằng tâm lý qua chuỗi liên tục các biến cố có ý nghĩa thẩm mĩ xảy ra trong thế giới nghệ thuật. Do được cảm nhận bằng tâm lý nên thời gian nghệ thuật có thể trùng khít với thời gian tự nhiên… Thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học được biểu hiện bằng nhiều phương diện. Với những tác giả có cá tính và có ý thức, họ luôn tìm ra những phương thức thể hiện mới lạ và độc đáo.” [ 20; tr 3] Thời gian trong văn chương mang tính tương đối, chính nhà văn vẽ nên cho mình một cuộc đời một thước đo thời gian cho chính mỗi đứa con tinh thần để nó sống và được sống chảy theo dòng tuyến tính đấy.

 

* Những công trình nghiên cứu, đánh giá về thơ Mai Văn Phấn và cảm thức thời gian trong thơ ông :

Mai Văn Phấn - Những chặng đường sáng tạo thơ, PGS.TS Đào Duy Hiệp có nhận xét: “ Mai Văn Phấn đã cắm một cột mốc đáng ghi nhận trên hành trình chinh phục ngôi đền thơ hiện đại. Đến nay đã ngót ba mươi năm. Chặng đường thơ sắp tới của anh còn dài và xa trước mặt. Mà cột mốc hôm nay đã đánh dấu một trưởng thành” [ 8, tr.75] Mai Văn Phấn tự chọn cho mình một hướng đi riêng tuy cô độc chịu nhiều sự dèm pha, phê bình qua nhiều phương diện khác nhau nhưng chính ông đã và đang tiếp tục chinh phục những cột mộc văn chương đáng nể phục trong tiến trình văn học của mình.

Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, PGS.TS Hồ Thế Hà đã xác định quan điểm của mình: “Càng về sau, Mai Văn Phấn càng ý thức thể hiện tâm thức hậu hiện đại trong sáng tạo thông qua hệ ngôn từ và hình ảnh lạ đã làm cho thơ anh không dễ đọc, không dễ hiểu ngay tức thì. Và đó cũng chính là điều làm nên thi pháp riêng Mai Văn Phấn. Cái chung được biểu hiện kết tinh và đa dạng qua nhiều cái riêng đã làm cho trữ lượng thơ anh qua các giai đoạn càng lấp lánh, toả phát. Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ.” [13, tr.227] Ông nổi bật trên văn đàng với chất riêng bởi yếu tố “ vụt tắt” đặc trưng trong thơ ba câu, dòng thơ kén người sáng tác thơ ông mang sự mới mẻ cho luồng văn học hiện đại.

Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn (một vấn đề cần quan tâm trong nghiên cứu và dạy học tác phẩm thơ hiện đại ở chương trình Ngữ Văn hiện nay), TS. Mai Thị Liên Giang : “Thời gian với nhà thơ Mai Văn Phấn không chỉ là thực tại khách quan mà còn là sự hiện diện của một thứ quyền uy huyền bí vượt trên mọi danh xưng hiện hữu. Nỗi sợ phải chết, nỗi cô đơn và bất lực của con người trước quy luật thời gian luôn song hành với con người trong khát vọng trở thành bất tử. Kể cả khi chết đi rồi con người vẫn chưa thôi trực tiếp đối mặt với những đau thương ai oán của thời gian kiếp người. Nhà thơ tự do sống trong thời gian sáng tạo nhưng thời gian của vũ trụ vẫn cứ phải luôn tồn sinh bên cạnh họ.” [ 3, tr 2]. Thời gian trong thơ ông như nhân chứng của mọi khoảnh khắc sự chứng kiến chỉ nó là tồn tại mãi cô đơn mãi chứng kiến mọi niềm vui, nỗi đau, tan vỡ của bao cảnh sắc thế gian.

Hoa giấu mặt tập thơ đánh giấu sự trưởng thành trong tiến trình sáng tác Mai Văn Phấn với dòng thơ 3 câu ngắn gọn, tối giản. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thanh Tâm trong công trình nghiên cứu Mai Văn Phấn và hành trình vào cõi khác đã thốt lên rằng tập thơ chính là “nỗi niềm của bao thế hệ về sự sống đắm chìm vào cõi an nhiên về tâm thức”.[ 11; tr 12]

“ Thả” – Tâm thế sáng tạo mới trên hành trình thơ Mai Văn Phấn, Phạm Bá Cương “ Thả là một quan niệm sống, một triết lí sáng tạo nghệ thuật đặc sắc trên hành trình sáng tạo thơ của Mai Văn Phấn. Bằng tâm thế thả, nhà thơ dần hướng đến một lối viết tự nhiên, tinh gọn, không bị gò ép bởi lí thuyết. Thả hướng con người đến sự tự do trong sáng tác và những giây phút bừng ngộ trong đời sống hằng ngày. Thả còn là hành trình trở về với thiên nhiên để cảm nhận sự biến thiên của sự sống, là sự tỉnh thức trong những hoạt động nhỏ nhặt thường ngày, để rồi, nhà thơ có thể mở ra những của ngõ của thế giới tâm linh và vô thức để đi sâu vào trong nội tâm. Có thể thấy, thả chính là hành trình nhà thơ đi tìm lại căn tính bản ngã sống và sáng tạo của chính mình.” [ 21; tr 12].

Mai Văn Phấn, cuộc đời quyến rũ , Nguyễn Đức Tùng “Thơ Mai Văn Phấn giàu liên tưởng và nhiều biểu tượng văn hóa gốc. Có thể cho rằng thơ anh xuất phát từ các nguyên mẫu văn hóa, và vì truyền thống Việt Nam là một truyền thống nhiều hòa hợp hơn xung đột, nhiều pha trộn hơn tinh khiết, nên các nguyên mẫu ấy không đồng nhất. Có thể thấy tuổi thơ của anh là tuổi thơ êm đềm, dù khó khăn hay nhọc nhằn, vì ký ức trong anh là ký ức đẹp, như mặt trời phản chiếu trong mặt nước yên tĩnh, bát ngát cô quạnh hơn là bão tố, tan vỡ. Tất nhiên những đau khổ của con người có thể mang vẻ ngoài yên tĩnh, những bi kịch nội tâm xáo trộn nhiều hơn biển cả, nhưng người đọc chờ đợi điều ấy thể hiện nhiều hơn trong thơ anh, nếu quả thực chúng đã từng chiếm giữ những khoảnh khắc quan trọng nhất của đời người.” [22, tr 3].

Thơ ba câu như Mai Văn Phấn phổ biến thế giới: Tối giản nhưng không dễ nuốt, Hương Hồ đã cho chúng ta một cách nhìn mới về thơ ba câu Mai Văn Phấn với sự biến đổi của thể thơ ba câu bắt nguồn từ văn hoá Nhật Bản với một vẻ đẹp hiện hữu trong sự tinh gọn, giản đơn của ngôn từ, thông qua sự sáng tạo độc đáo thay đổi cách cảm thụ phù hợp hơn với thị hiếu người Việt từ đó hướng đến khả năng khai thác xây dựng của người đọc đối với thể thơ ba câu mới mẻ này.

Thơ ba câu của Mai Văn Phấn gây tranh cãi, Tâm Anh đã khẳng định thơ ông phá vỡ cấu trúc truyền thống mang đặc sắc riêng với sự cảm nhận thơ ca là dân chủ song nên có nền tảng kiến thức thì mới khai mở những ô cửa kí mã của tác giả Mai Văn Phấn có thể nói ông đã mang đến một hình thức tiếp nhận mới cho Thơ hiện đại sau 1975 một định hướng tiếp xúc văn học cởi mở hơn theo năm tháng.

 

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 

* Đối tượng nghiên cứu: Khoá luận tốt nghiệp chọn Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn là đối tượng nghiên cứu.

* Phạm vi nghiên cứu:

Tìm hiểu về cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn, khoá luận nghiên cứu khảo sát thông qua các tập thơ:

 

1. Hoa giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn, 2012.

2. Thả, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2015.

 

4. Phương pháp nghiên cứu

 

Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

* Phương pháp so sánh: Nhờ phương pháp này, người viết đặc trên mối quan hệ tương đồng và khác biệt để làm nổi bật những đặc trưng của thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn.

* Phương pháp hệ thống: Phương pháp giúp sự sắp xếp hệ thống thông tin cụ thể đưa ra các dẫn chứng đi đúng tiến trình có hiệu quả trong quá trình nghiên cứu.

* Phương pháp thống kê, phân loại: Thông qua phương pháp những thi liệu xuất hiện, các dẫn chứng, nhận xét trong các tập thơ, qua đó phân loại chúng một cách có trình tự.

* Phương pháp phân tích, tổng hợp: Đặc trưng của phương pháp cho phép đi sâu khai phá vấn về từ chi tiết cụ thể đến cô đọng hàm xúc nhờ vậy bài nghiên cứu về đề tài này sẽ đạt được hiệu quả đóng góp hiệu quả.

 

5. Đóng góp của khoá luận

 

Khoá luận đã nêu lên cái nhìn đa điện về Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn thông qua hai tập thơ ba câu được xuất bản và mang đến sự nổi bật cho tác giả. Qua đó nâng cao sự nhận diện và vị thế của nhà thơ trong tiến trình văn học hiện nay.

 

6. Cấu trúc khoá luận

 

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, khoá luận chia làm ba chương:

Chương 1: Thơ Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ đương đại.

Chương 2: Cảm thức thời gian nhìn từ đề tài và quan niệm thơ Mai Văn Phấn.

Chương 3: Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ một số phương thức thể hiện.

 

 

 

NỘI DUNG

 

CHƯƠNG 1: THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG DÒNG CHẢY THƠ ĐƯƠNG ĐẠI

 

Thơ ba câu là một trong những hình thức thơ ngắn gọn và cô đọng, xuất hiện trong một số nền văn học. Dù giới hạn trong ba dòng, thể thơ này có khả năng biểu đạt súc tích, giàu hình tượng và hàm chứa nhiều tầng nghĩa. Với đặc điểm ngắn gọn, thơ ba câu vừa tạo không gian cho những hình ảnh tinh tế vừa mở ra những liên tưởng phong phú, đôi khi mang tính triết lý, gây bất ngờ. Nhiều tác giả đã phát triển thơ ba câu theo những cách thức riêng, phản ánh tư duy thẩm mỹ cũng như đặc trưng văn hoá.

"Thơ ba câu, với tôi, là một vẻ đẹp bất chợt ta nhận ra, hoặc vô tình nhặt lên từ những điều bình dị quanh mình. Nhà thơ người Anh Susan Blanshard gọi đó là "những bí mật của ánh sáng". [21; tr 2]

Thơ ba câu, với vẻ đẹp tinh tế và sức mạnh biểu đạt cô đúc, là một hình thức nghệ thuật độc đáo xuất hiện trong nhiều nền văn hoá, đặc biệt là trong văn hoá Nhật Bản với thơ haiku. Gói gọn trong dung lượng ba dòng ngắn ngủi, thơ ba câu vẫn có khả năng truyền tải những cảm xúc sâu sắc, những hình ảnh sống động, những khoảng trống thoả sức để người đọc, người nghe lắng mình vào những suy tư của tâm trí.

Đặc điểm nổi bật của thơ ba câu chính là sự ngắn gọn. Mỗi bài thơ chỉ gồm ba dòng thơ mỗi dòng từ 3 đến 4 chữ, đòi hỏi người viết phải chắt lọc, mài giũa ngôn từ một cách tinh tế, sử dụng những hình ảnh gợi cảm để khơi gợi trí tưởng tượng của người đọc. Sự hàm súc trong ngôn ngữ giúp thơ ba câu chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, cho phép người đọc tự do suy ngẫm và khám phá. Không chỉ vậy, nhiều bài thơ ba câu còn mang tính triết lý sâu sắc, thể hiện những suy tư về cuộc sống, con người và vũ trụ. Chính vì đặc tính như thế nên thể loại thơ này kén chọn hơn hẳn bởi làm thế nào để chọn được từ hay từ chất quả là một điều khó.

Trong văn hoá Nhật Bản, Haiku là một ví dụ điển hình cho thể thơ ba câu. Với cấu trúc 5-7-5 âm tiết, Haiku thường tập trung vào việc miêu tả thiên nhiên và khơi gợi những cảm xúc tinh tế. Những bài Haiku nổi tiếng của Matsuo Basho đã trở thành kinh điển, thể hiện sự hoà quyện giữa con người và thiên nhiên.

Ngoài Nhật Bản, thơ ba câu cũng xuất hiện trong một số nền văn hoá khác, với những hình thức và đặc điểm riêng. Tại Việt Nam, tuy không có một thể thơ truyền thống nào tương ứng hoàn toàn với thơ ba câu, nhưng nhiều nhà thơ hiện đại đã thử nghiệm và sáng tác theo hình thức này. Nhà thơ Mai Văn Phấn là một trong những người tiên phong trong việc phát triển thơ ba câu ở Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường mang tính triết lý, đa nghĩa tuy thế bên cạnh đó cũng gây nhiều tranh cãi trong giới văn học. Thơ ba câu không chỉ là một hình thức nghệ thuật ngắn gọn mà còn là một phương tiện để diễn đạt những cảm xúc và suy tư sâu sắc. Sự kết hợp giữa hình ảnh, ngôn ngữ và ý tưởng trong thơ ba câu tạo nên một sức hút đặc biệt, khiến người đọc không ngừng khám phá và suy ngẫm.

Thơ ba câu, dù không phải là một thể thơ chiếm lĩnh vị thế trung tâm trong lịch sử văn học nhiều quốc gia, vẫn sở hữu một sức hút bền bỉ và một lịch sử phát triển âm thầm nhưng đầy tiềm năng. Sức hấp dẫn đặc biệt của thơ ba câu nằm ở chính sự giới hạn về hình thức. Chỉ với ba dòng, người viết buộc phải trở thành một nghệ sĩ bậc thầy trong việc lựa chọn từ ngữ, sắp xếp câu chữ sao cho mỗi yếu tố đều mang một trọng lượng biểu đạt tối đa. Không gian hẹp về câu chữ lại mở ra một không gian rộng lớn cho sự gợi mở và liên tưởng. Mỗi dòng thơ, mỗi hình ảnh như một mảnh ghép của một bức tranh mà người đọc có thể tự do hoàn thiện bằng trí tưởng tượng và kinh nghiệm cá nhân. Chính tính chất "mở" này đã tạo nên một mối liên kết đặc biệt giữa tác giả và độc giả, nơi sự đồng sáng tạo được khuyến khích và trân trọng.

Mặc dù không ồn ào và phô trương như những thể thơ dài hơi, sự phổ biến của thơ ba dòng vẫn được duy trì và phát triển một cách lặng lẽ. Trong bối cảnh văn học hiện đại, khi nhịp sống trở nên hối hả và con người có xu hướng tìm kiếm những hình thức biểu đạt ngắn gọn, súc tích, thơ ba dòng càng có cơ hội khẳng định giá trị của mình. Nhiều nhà thơ đương đại, trong đó có những tên tuổi như Mai Văn Phấn ở Việt Nam, đã tìm thấy ở thể thơ này một phương tiện lý tưởng để chuyển tải những suy tư triết lý, những cảm xúc tinh tế hay những lát cắt đời sống một cách ấn tượng. Sự xuất hiện của các cộng đồng yêu thích Haiku và thơ ba câu trên khắp thế giới, sự lan toả của nó trên các nền tảng trực tuyến cũng cho thấy một sự quan tâm và yêu mến không nhỏ dành cho hình thức thơ độc đáo này.

Hiệu ứng mà thơ ba câu mang lại cho người đọc thường là sự ấn tượng mạnh mẽ, đột ngột do tính hàm súc và cô đọng. Nó yêu cầu người đọc phải tham gia tích cực vào quá trình kiến tạo ý nghĩa, sử dụng vốn sống, kiến thức và kinh nghiệm cá nhân để lấp đầy những khoảng trống ngữ nghĩa mà nhà thơ để lại. Điều này khác với các hình thức thơ dài hơn, nơi ý tứ có thể được trải dài và giải thích rõ ràng hơn.

Tuy nhiên, hình thức thơ ba câu cũng đặt ra những thách thức đáng kể. Nguy cơ lớn nhất là rơi vào sự nông cạn, sáo rỗng hoặc trở nên quá tối nghĩa nếu không đạt được sự cân bằng giữa tính tối giản và chiều sâu nội dung. Để một bài thơ ba câu thực sự thành công, đòi hỏi nhà thơ phải có tư duy hình tượng sắc bén, kỹ năng sử dụng ngôn ngữ điêu luyện và khả năng kiểm soát hiệu quả sự gợi mở để tránh gây khó hiểu hoặc cảm giác hụt hẫng cho người đọc.

Trong bối cảnh thơ hiện đại Việt Nam, hình thức thơ ba câu, dù không phải là một thể thơ truyền thống với niêm luật hay vần điệu cố định, đã nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý, đặc trưng cho xu hướng tối giản và thực nghiệm cấu trúc trong thi ca. Được định nghĩa bởi cấu trúc cố định chỉ gồm ba dòng độc lập, nó đặt ra một thách thức cố hữu về sự cô đọng, buộc nhà thơ phải thực hiện chức năng chắt lọc ngôn ngữ và nén chặt ý tứ, cảm xúc, hoặc hình ảnh cốt lõi nhất, loại bỏ mọi yếu tố dàn trải hay thừa thãi. Mục đích chính của hình thức này là ghi nhận và biểu đạt một khoảnh khắc, một ý niệm, hay một cảm xúc tập trung, phá vỡ cấu trúc tự sự hay miêu tả dài dòng thường thấy. Chính sự nén chặt này tạo nên một sức căng và tính hàm súc đặc trưng, dẫn đến hiệu ứng mạnh mẽ trên người đọc, đòi hỏi họ phải tham gia tích cực vào quá trình giải mã và liên tưởng để lấp đầy khoảng trống ngữ nghĩa – một yếu tố cấu trúc quan trọng, được nhấn mạnh bởi khoảng trắng trên trang giấy. Là một phần của thơ hiện đại, thơ ba câu phản ánh tâm thức thời đại với sự phân mảnh và tốc độ, đồng thời là một sân chơi thực nghiệm quan trọng cho ngôn ngữ tiếng Việt, dù nó cũng đặt ra thách thức về nguy cơ nông cạn hoặc tối nghĩa nếu thiếu hàm lượng tư tưởng/cảm xúc hoặc kỹ thuật xử lý chưa tới tầm. Nhìn chung, thơ ba câu là một hiện tượng đáng chú ý, góp phần đa dạng hóa hình thức và làm sâu sắc thêm tiềm năng biểu đạt của thơ Việt trong khuôn khổ tối giản, khuyến khích cả người viết và người đọc khám phá những khả năng mới của thi ca.

Cảm thức thời gian trong văn học hiện đại Việt Nam đã chuyển dịch từ khách quan sang chủ quan, từ tuyến tính sang phân mảnh và chồng lớp. Thơ ba câu, với cấu trúc đặc thù của mình, không chỉ thể hiện rõ nét sự chuyển dịch này mà còn trở thành một công cụ hiệu quả để nắm bắt và khuếch đại sự phức tạp, tính phù du và chiều sâu tâm lý của cảm thức thời gian trong bối cảnh hiện đại.

Thơ ba câu, dù không phải là một "ngôi sao sáng" trên bầu trời văn học, vẫn là một chòm sao nhỏ nhưng lấp lánh, thơ ca mang đến những điều kì diệu. Sự phổ biến của nó không nằm ở số lượng tác phẩm đồ sộ hay sự ồn ào trên các diễn đàn văn chương, mà nằm ở khả năng chạm đến những khoảnh khắc sâu lắng trong tâm hồn người đọc, ở sức mạnh gợi mở và khả năng khơi dậy những suy tư đa chiều chỉ bằng một vài dòng chữ. Thơ ba dòng, vì thế, vẫn tiếp tục hành trình âm thầm nhưng bền bỉ của mình, như một minh chứng cho vẻ đẹp tiềm ẩn của sự giản dị và sức mạnh của sự cô đọng trong nghệ thuật ngôn từ.

Về bản chất cảm thức thời gian trong văn học là cách thức tri nhận dòng chảy lịch sử là sự bộc lộ những cảm xúc riêng tư thông qua đó thể hiện chất riêng khơi nguồn giọt mầm của giai điệu tâm hồn.

“Thơ vốn là tiếng lòng được giãi bày một cách ý nhị và tinh tế của người làm thơ. Cảm thức trong thơ luôn là những nỗi niềm tràn đầy cảm xúc, gợi tả, mang đến cho người đọc những bâng khuâng, xôn xao. Cảm thức thời gian là cảm thức quen thuộc trong thơ. Người làm thơ níu vào thời gian, vào năm tháng, vào hồi ức, vào kỷ niệm…. để bộc lộ lòng mình.” [22; tr 1].

Cảm thức thời gian trong văn học, hơn cả một trục tuyến tính đơn thuần, là một dòng chảy phức tạp và đa chiều, được nhào nặn bởi ý thức chủ quan của tác giả, thấm đẫm trải nghiệm tâm lý của nhân vật và gợi mở những tầng nghĩa sâu xa cho người đọc. Nó không chỉ đơn thuần là thước đo sự kiện diễn ra theo trình tự, mà còn là một công cụ nghệ thuật mạnh mẽ để kiến tạo không gian, khắc hoạ tâm trạng và cấu trúc câu chuyện. Thời gian trong văn học có thể uyển chuyển giữa dòng chảy tuyến tính quen thuộc và những khúc quanh phi tuyến tính đầy bất ngờ, cho phép tác giả khám phá những ngóc ngách sâu kín của quá khứ, hé lộ những viễn cảnh tương lai hoặc đơn giản là lặn sâu vào khoảnh khắc hiện tại. Đặc biệt, "thời gian tâm lý" trở thành một lăng kính độc đáo, bóp méo hoặc kéo dài những khoảnh khắc trải nghiệm của nhân vật, phản ánh chân thực những biến động nội tâm. Sự tương giao giữa thời gian lịch sử, mang dấu ấn của những biến cố khách quan, và thời gian cá nhân, nhuốm màu sắc kỷ niệm và cảm xúc riêng tư, tạo nên một bức tranh thời gian đa diện và phong phú. Nhịp điệu trần thuật, từ những trang văn dồn dập đến những đoạn miêu tả tĩnh lặng, cũng góp phần định hình cảm nhận thời gian của người đọc. Như vậy, cảm thức thời gian không chỉ là một yếu tố cấu thành tác phẩm mà còn là một phương tiện biểu đạt tinh tế, góp phần quan trọng trong việc truyền tải thông điệp và khơi gợi những rung động sâu sắc trong lòng người đọc. Trong mỗi tác phẩm văn học người nghệ sĩ luôn thể hiện các quan điểm nghệ thuật thông qua các yếu tố thời gian và không gian chính vì thế sự nhận diện về vấn đề này được đặt lên hàng đầu trong quá trình khai thác văn chương.

“Cảm thức thời gian trong sáng tạo nghệ thuật là dấu hiệu cơ bản để nhận biết phẩm chất và năng lực nghệ sĩ của mỗi nhà thơ nhà văn, thể hiện qua khả năng tri giác về thời gian, dẫn tới việc sử dụng trường thời gian vốn quy định cách kể và cách tả cũng như cách thức đưa ra các bình luận ngoại đề hay cho phép tác giả thể hiện trữ tình ngoại đề trong mỗi tác phẩm văn chương.” [25; tr 3]

Cảm thức thời gian trong văn học, vượt xa một khái niệm đơn thuần về trình tự sự kiện, là một lăng kính phức tạp mà qua đó các nhà văn không chỉ đo đếm mà còn cảm nhận, nhào nặn và phô diễn dòng chảy của thời gian trong tác phẩm của mình. Đó là cách họ nắm bắt và tái hiện không chỉ nhịp điệu của lịch sử vĩ mô, với những biến động và dấu mốc quan trọng, mà còn cả những rung động tinh tế của thời gian cá nhân, những khoảnh khắc lắng đọng cảm xúc, những bước ngoặt định hình số phận con người. Cảm thức này chi phối cách tác giả lựa chọn điểm nhìn thời gian, cấu trúc cốt truyện, sử dụng các kỹ thuật như hồi tưởng hay dự báo, và quan trọng hơn cả, cách họ truyền tải những suy tư sâu sắc về sự hữu hạn, về dòng chảy không ngừng của cuộc đời và những dấu ấn mà con người để lại trên dòng chảy ấy.

Cảm thức thời gian trong văn học là một phạm trù đa diện, được kiến tạo từ nhiều lớp lang nhận thức và biểu đạt của nhà văn. Trước hết, nó thể hiện cách nhìn nhận về dòng chảy thời gian, một sự lựa chọn mang tính nghệ thuật trong việc nắm bắt quá khứ, hiện tại và tương lai. Có những ngòi bút tập trung vào một khoảnh khắc cô đọng, khuếch đại ý nghĩa và cảm xúc trong một điểm thời gian tĩnh tại. Ngược lại, nhiều tác giả lại say mê khám phá sự vận động không ngừng của thời gian, dõi theo những biến đổi, sự trưởng thành, suy tàn và tái sinh, vẽ nên bức tranh tiến hoá hoặc suy thoái của nhân vật và bối cảnh.

“Ở phương Tây, các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng như Proust, Gide, Virginia Volf, Joyce, Dos Passos, Faulkner, Shakespeare… đều đã có cách biểu đạt, cách hủy hoại thời gian vật lý theo những cách khác nhau. Nhà thơ có thể cắt bỏ quá khứ và tương lai, rút gọn thời gian vào khoảnh khắc trực giác của tâm cảm… Ở Việt Nam, tạm không nhắc đến các bậc thi tài trong văn học Trung đại, các nhà thơ cùng thời với Mai Văn Phấn cũng đã có những quan niệm, những biểu đạt thời gian khác nhau. Mỗi nhà thơ đều có một phong cách riêng, góp phần làm sinh động/ tự hào thêm cho đời sống thi ca Việt không chỉ đối với bạn đọc trong nước mà còn ở nước ngoài.”[3, tr 5]

Cảm thức thời gian thấm đẫm cảm xúc và trải nghiệm cá nhân của người nghệ sĩ. Thời gian trong văn học không còn là một khái niệm khách quan, mà trở thành tấm gương phản chiếu những cung bậc tình cảm sâu kín: nỗi tiếc nuối những điều đã qua, sự ngọt ngào của hoài niệm về những ký ức đẹp, nỗi sợ hãi mơ hồ trước tương lai bất định, hay niềm mong đợi tha thiết vào những điều sắp đến. Chính những lăng kính cảm xúc này nhuộm màu cho cách thời gian được miêu tả và cảm nhận trong tác phẩm.

“Cảm thức thời gian trong sáng tạo nghệ thuật là dấu hiệu cơ bản để nhận biết phẩm chất và năng lực nghệ sĩ của mỗi nhà thơ nhà văn, thể hiện qua khả năng tri giác về thời gian, dẫn tới việc sử dụng trường thời gian vốn quy định cách kể và cách tả cũng như cách thức đưa ra các bình luận ngoại đề hay cho phép tác giả thể hiện trữ tình ngoại đề trong mỗi tác phẩm văn chương. Vấn đề thời gian đã từng là điểm chú ý đặc biệt của nhiều nhà khoa học phương Tây.” [ 25, tr 2]

Cảm thức thời gian là một yếu tố cốt lõi định hình thế giới quan trong văn học, và trong văn học hiện đại Việt Nam, cảm thức này đã có những biến chuyển sâu sắc so với truyền thống, dịch chuyển từ cái nhìn tuyến tính, chu kỳ sang cái nhìn đa diện, phân mảnh và chủ quan hơn, chịu ảnh hưởng của tư tưởng hiện đại và bối cảnh lịch sử đầy biến động. Trong bối cảnh chuyển dịch ấy, hình thức thơ ba câu, với tính chất tối giản và thực nghiệm, nổi lên như một phương tiện đặc sắc để thể hiện cảm thức thời gian hiện đại. Chính cấu trúc cực kỳ cô đọng chỉ gồm ba dòng này cho phép nhà thơ nắm bắt và tôn vinh tính đột ngột, sự cô lập nhưng đầy mãnh liệt của một khoảnh khắc hiện tại, tách nó ra khỏi dòng chảy thời gian khách quan. Dù ngắn gọn, thơ ba câu vẫn có khả năng kỳ diệu trong việc gợi mở, thậm chí chồng lớp các chiều thời gian - quá khứ, hiện tại, tương lai - thông qua cách sắp đặt hình ảnh hay ngôn ngữ đầy hàm súc, qua đó làm nổi bật tính phi tuyến tính và sự phức tạp của thời gian tâm lý, chủ quan. Có thể nói, thơ ba câu đóng vai trò như một viểu vũ trụ hay một lăng kính đặc biệt, khuếch đại và chưng cất những đặc điểm nổi bật của cảm thức thời gian trong văn học hiện đại Việt Nam – sự tôn vinh khoảnh khắc phù du, tính đứt gãy, sự đồng hiện của các chiều thời gian, và vai trò chủ đạo của cảm nhận cá nhân, cho thấy khả năng của hình thức thơ tối giản trong việc chuyên chở những nội dung phức tạp và sâu sắc.

Cảm thức thời gian được hiện thực hoá thông qua các yếu tố thẩm mỹ tinh tế. Cấu trúc truyện, với sự sắp xếp các chương hồi, sự đan xen các tuyến thời gian, tạo nên nhịp điệu riêng cho tác phẩm. Ngôn ngữ, với những từ ngữ gợi tả, những hình ảnh ẩn dụ, có khả năng kéo dài một khoảnh khắc hoặc lướt nhanh qua cả một giai đoạn. Các kỹ thuật như hồi tưởng, dự báo, hay sự thay đổi tốc độ trần thuật trở thành những công cụ đắc lực để nhà văn nhào nặn dòng chảy thời gian theo ý đồ nghệ thuật. Tất cả những yếu tố này, hoà quyện với phong cách và cá tính độc đáo của mỗi nhà văn, tạo nên một dấu ấn riêng biệt trong cách họ cảm nhận và thể hiện thời gian, làm nên sự đa dạng và phong phú cho thế giới văn chương. Thời gian là yếu tố xuyên suốt không chỉ cuộc sống thường nhật mà còn đóng vai trò nòng cốt trong sáng tạo nghệ thuật nhằm định hình giai đoạn cảm xúc trong văn chương khai mở tinh tế tâm tư tinh tế độc giả.

“Mai Văn Phấn thuộc thế hệ những nhà thơ từng thấm đẫm nước mắt của chiến tranh Việt Nam và khá nổi tiếng bên cạnh Nguyễn Quang Thiều, Trương Đăng Dung, Hồ Thế Hà, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Lương Ngọc, Inrasar, Giáng Vân, Đoàn Thị Lam Luyến... Là thế hệ chuyển giao nhiệm vụ của lịch sử, họ phải gánh chịu/chứng kiến sự hủy diệt của hàng tấn bom đạn vô nghĩa ngay từ thời khắc họ được/bị sinh ra; và họ cũng là những người được/bị sống để tiếp tục xác nhận những hậu quả tàn ác, dai dẳng của chiến tranh để lại trên nhiều phương diện cho đến tận hôm nay. Họ ra đời trong những khoảnh khắc kì lạ, gắn liền với những chiến dịch chấn động địa cầu. Sinh mệnh của họ dù không muốn cũng phải cùng chịu đựng những khổ đau của dân tộc ở thời điểm này. Mai Văn Phấn cũng là một trong những trí thức ưu tú đã từng bị khủng hoảng sâu sắc trước những biến động của lịch sử ấy.” [ 3; tr 1]

Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không chỉ là một hình thức thể nghiệm thi ca đơn thuần mà đã định hình một phong cách độc đáo, đánh dấu một bước chuyển mình đáng chú ý trong thơ ca Việt Nam đương đại. Được xem là người tiên phong khai phá và phát triển mạnh mẽ thể thơ này, Mai Văn Phấn đã tiếp thu tinh tuý từ sự cô đọng, hàm súc của Haiku Nhật Bản, nhưng không hề rập khuôn mà đã nhào nặn, thổi vào đó hơi thở của đời sống hiện đại Việt Nam cùng dấu ấn cá nhân sâu sắc. Chính sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại này đã tạo nên một trường phái thơ ba dòng mang đậm "chất " Mai Văn Phấn, vừa khơi gợi những suy tư triết lý sâu xa, vừa phản ánh những lát cắt đời sống đương thời, đồng thời mở ra những chân trời mới cho sự biểu đạt nghệ thuật. Tiến trình văn học luôn đòi hỏi cái mới và quá trình băng hoại của thời gian chính vì thế mỗi nhà văn phải cho mình một điểm tựa một sự khác biệt trong tư duy để khẳng định chất văn học của mình.

Tính triết lý và khả năng khơi gợi suy tư đa chiều. Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không dừng lại ở bề mặt của sự vật hay những rung cảm nhất thời. Thay vào đó, mỗi bài thơ, dù ngắn gọn, lại chứa đựng một "hạt mầm" ý tưởng, một câu hỏi ngầm về kiếp người, về lẽ tồn tại, về mối tương quan phức tạp giữa cá nhân và vũ trụ bao la. Ngôn ngữ thơ ông, dù kiệm lời, lại có sức nặng tư tưởng lớn lao, buộc người đọc phải chậm lại, suy ngẫm và tự mình kiến tạo những liên tưởng đa chiều. Chẳng hạn, một hình ảnh tưởng chừng đơn giản như "giọt sương tan" có thể gợi mở về sự mong manh của kiếp người, sự trôi chảy của thời gian và quy luật vô thường của vũ trụ. Chính chiều sâu triết lý này đã nâng thơ ba dòng của Mai Văn Phấn lên một tầm vóc mới, vượt qua khuôn khổ của những ghi chép cảm xúc thông thường.

Sự xuất hiện của bộ phận thơ mới với tư tưởng làm thơ trước hết phải làm chữ, những sáng tác của họ là một trong những mũi nhọn đột phá vào quan niệm thơ truyền thống ảnh hưởng trong thơ ông. Họ đi tìm một con đường riêng mang dấu ấn cá nhân của mình. Mai Văn Phấn đã tìm cho mình một giọng thơ riêng đầy đặc sắc với rung cảm tinh tế và vẻ đẹp đầy trắc ẩn của suy tư triết lý.

Nghệ thuật sử dụng hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng giàu sức gợi. Một đặc trưng nổi bật khác trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn là khả năng sử dụng ngôn ngữ cô đọng, giàu tính biểu tượng. Ông không trực tiếp diễn giải mà lựa chọn những hình ảnh mang tính ẩn dụ và tượng trưng cao, khơi gợi những ý nghĩa sâu xa nằm ngoài bề mặt con chữ. Sự kết hợp bất ngờ giữa các hình ảnh, đôi khi tưởng chừng như không liên quan, lại tạo ra những hiệu ứng thị giác và cảm xúc mạnh mẽ, đánh thức những giác quan và khơi mở những tầng nhận thức mới mẻ. Ví dụ, sự tương phản giữa "ánh trăng" và "bóng tối" có thể không chỉ đơn thuần miêu tả cảnh vật mà còn gợi lên những xung đột nội tâm, những giằng xé giữa ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn con người. Chính lối sử dụng hình ảnh độc đáo này đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ ông, đòi hỏi người đọc phải có sự nhạy cảm và khả năng giải mã để thấu hiểu.

Cấu trúc đột phá và tính đa nghĩa, mở trong diễn giải. Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn thường phá vỡ những quy tắc truyền thống về cú pháp và logic thông thường trong thơ. Sự sắp xếp câu chữ đôi khi tạo ra những kết nối bất ngờ, những "vết nứt" trong mạch ý tưởng, buộc người đọc phải dừng lại, ngạc nhiên và suy nghĩ theo những hướng khác biệt. Chính sự đột phá trong cấu trúc này đã mang đến một hơi thở hiện đại cho thơ ông, thoát khỏi những khuôn mẫu cũ kỹ. Đồng thời, với khuôn khổ ngắn gọn chỉ ba dòng, thơ Mai Văn Phấn thường mang tính đa nghĩa, mở ra nhiều khả năng hiểu và diễn giải khác nhau. Sự "mở" này không phải là sự mơ hồ, khó hiểu mà là một lời mời gọi độc giả tham gia vào quá trình đồng sáng tạo, tự mình khám phá những tầng ý nghĩa tiềm ẩn trong từng câu chữ, từng hình ảnh.

Sự hoà quyện giữa tinh thần phương Đông và hơi thở của đời sống đương đại. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tinh thần thiền vị và triết lý phương Đông, đặc biệt là từ Haiku, thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không hề xa rời đời sống hiện đại Việt Nam. Ông có khả năng tinh tế nắm bắt và phản ánh những khía cạnh đa dạng của cuộc sống đương thời, từ những lo toan thường nhật, những biến đổi xã hội đến những vấn đề văn hoá. Điều đáng chú ý là ông nhìn nhận những điều quen thuộc dưới một góc độ mới lạ, mang đến những khám phá thú vị và bất ngờ. Chính sự hoà quyện giữa cái tĩnh lặng, sâu lắng của phương Đông và sự động đậy, phức tạp của đời sống hiện đại đã tạo nên một sức hấp dẫn đặc biệt cho thơ ông, khiến nó vừa mang tính chiêm nghiệm, vừa gần gũi với hơi thở thời đại.

Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn là một hiện tượng độc đáo và đáng chú ý trong văn học Việt Nam đương đại. Với sự tiên phong khai phá và những đóng góp mang tính cách tân, ông đã tạo ra một "trường phái" thơ ba dòng mang đậm dấu ấn cá nhân, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa triết lý sâu xa và hơi thở đời sống. Dù vẫn còn những tranh luận và cách tiếp nhận khác nhau, không thể phủ nhận vai trò quan trọng của Mai Văn Phấn trong việc mở rộng biên giới của thơ ca Việt Nam, mang đến những hình thức biểu đạt mới mẻ, sâu sắc và đầy sức gợi, khẳng định sức sống mãnh liệt của thơ ca trong bối cảnh văn học đương đại. Mai Văn Phấn trong quá trình sáng tạo kể đến nay ông có 2 tập thơ ba câu nổi bật trong thi đàn văn học hiện thời là Thả và Hoa giấu mặt đóng vai trò định hình thể thơ chiếm vị thế quan trọng trong dòng văn học đổi mới này.

“Có thể thấy thơ Mai Văn Phấn là một hành trình liên tục cách tân, tìm tòi. Vượt lên những hạn chế nhất định, mỗi giai đoạn sáng tác của ông đều ghi dấu bằng những tác phẩm đáng chú ý. Ý thức học hỏi nghiêm túc hướng về những nền thơ lớn trên thế giới, đặc biệt là thơ Âu – Mỹ hiện đại, cộng với “tham vọng” hướng tới xây dựng một tiếng thơ Việt “thuần khiết” là động lực thúc đẩy ông không ngừng hăng hái tìm kiếm và thử nghiệm. Dĩ nhiên, song song với việc tiếp thu có chọn lọc là ý thức xây dựng một thẩm mĩ quan cá nhân độc lập. Bởi vậy, thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều.” [6 ,tr 2].

Thơ ba câu của Mai Văn Phấn và Nguyễn Anh Nông đều là hai cách tiếp cận độc đáo và sâu sắc đối với một hình thức thơ tối giản, minh chứng cho sức biểu đạt phi thường của sự cô đọng trong thơ hiện đại Việt Nam. Cả hai nhà thơ đều đồng thuận ở việc coi ba dòng thơ là một đơn vị hoàn chỉnh, một bài thơ trọn vẹn, nơi sự hạn chế về số lượng dòng trở thành một thách thức sáng tạo, đòi hỏi sự chắt lọc ngôn ngữ, hình ảnh và ý tứ đến mức tinh túy nhất. Họ cùng từ bỏ những khuôn khổ niêm luật chặt chẽ của thơ truyền thống để tìm đến sự tự do trong nhịp điệu và cách ngắt dòng, tạo không gian cho ý thơ bung nở trong sự nén chặt.

Thế nhưng, khi đi sâu vào thế giới nghệ thuật mà mỗi người kiến tạo chỉ bằng ba câu thơ ấy, sự khác biệt về chủ đề, thi pháp, ngôn ngữ và cảm quan hiện lên rõ nét, làm nên bản sắc riêng không thể trộn lẫn. Mai Văn Phấn lặn sâu vào miền suy tưởng triết học, biến ba dòng thơ thành những cú va chạm đột ngột với các ý niệm lớn về tồn tại, bản thể, thời gian, sự biến đổi và mối quan hệ phức tạp giữa con người với vũ trụ. Thơ ông thường mang màu sắc siêu thực, với hình ảnh lạ hóa, phi lý, được ghép nối đầy bất ngờ để tạo ra những liên tưởng đa tầng, thách thức tư duy và nhận thức của người đọc. Ngôn ngữ của Phấn trong thơ ba câu cô đọng, sắc như nhát cắt, nhưng mỗi từ, mỗi hình ảnh đều có sức gợi mở khổng lồ, mở ra những cánh cửa vào không gian chiêm nghiệm sâu thẳm. Đọc thơ ba câu của Mai Văn Phấn là một hành trình nội tâm đầy thử thách, một cuộc đối thoại với những câu hỏi lớn được cô đọng đến nghẹt thở, để lại dư âm ám ảnh và thôi thúc suy ngẫm.

Đi ngược lại với điều đó, Nguyễn Anh Nông neo đậu thơ ba câu của mình vào mạch nguồn của đời sống vật chất giản dị, của thiên nhiên gần gũi và những rung cảm chân thành của con người. Ông tìm thấy thi ca không ở những khái niệm trừu tượng mà ở vẻ đẹp dung dị, cụ thể của một ngọn cỏ, một làn khói chiều, một ánh mắt hay một âm thanh quen thuộc nơi làng quê. Hình ảnh thơ Nông cụ thể, giàu sức gợi cảm giác, thấm đẫm hơi thở của đất đai, cây cỏ, con người, mang vẻ đẹp mộc mạc nhưng ẩn chứa chiều sâu của sự quan sát tinh tế và tâm hồn nhạy cảm. Ngôn ngữ của ông chân thành, mộc mạc, chảy trôi tự nhiên như hơi thở, dễ dàng chạm đến trái tim người đọc, gợi lên sự đồng cảm, hoài niệm hay sự bình yên lắng đọng. Đọc thơ ba câu của Nguyễn Anh Nông là tìm thấy sự an ủi trong những điều bình dị nhất, là cảm nhận nhịp đập dịu dàng, gần gũi của cuộc sống quanh ta.  Có thể ví von rằng, nếu ba câu thơ của Mai Văn Phấn là những viên kim cương được mài sắc từ khối đá triết lý, lấp lánh ánh sáng đa diện và khó nắm bắt, lôi cuốn người đọc vào mê cung của ý niệm, thì ba câu thơ của Nguyễn Anh Nông lại là những đóa hoa đồng nội giản dị mà ngát hương, cắm rễ sâu vào lòng đất và cuộc đời, mang lại cảm giác thân thuộc và xoa dịu tâm hồn. Chính sự đối lập đầy thú vị này – một hướng vào chiều sâu siêu hình của tồn tại, một hướng về vẻ đẹp hữu hình và cảm xúc chân thực của đời sống – đã làm nên bản sắc riêng không thể trộn lẫn cho thơ ba câu của mỗi nhà thơ, đồng thời chứng minh sức biểu đạt phong phú, đa dạng và tiềm năng vô tận của hình thức thơ tưởng chừng rất hạn hẹp này trong hành trình làm mới và định hình diện mạo thơ ca tiếng Việt đương đại. Cả hai, bằng tài năng và sự kiên định của mình, đã đóng góp vào việc khẳng định vị thế của thơ ngắn, thơ tối giản như một dòng chảy quan trọng trong bức tranh toàn cảnh của thơ ca Việt Nam hôm nay.

Thi pháp và cảm thức thời gian đã phác họa nên một chân dung đáng kể về Mai Văn Phấn, để nhận xét đầy đủ và "mới hơn" về ông trong bối cảnh văn học đương đại, cần nhấn mạnh vị thế và tầm ảnh hưởng liên tục của ông trong bức tranh luôn vận động này. Mai Văn Phấn vẫn giữ vững vị thế là một trong những trụ cột và nguồn cảm hứng quan trọng bậc nhất của thơ đương đại Việt Nam. Sức hấp dẫn và tầm vóc của ông không chỉ nằm ở bề dày tác phẩm hay sự đa dạng về thể loại đã được khẳng định, mà còn ở tinh thần sáng tạo không ngừng nghỉ, khả năng đào sâu vào những vấn đề cốt lõi của con người và thời đại bằng một thi pháp luôn đổi mới và không ngại thực nghiệm. Là một nhà thơ thực nghiệm bền bỉ, không ngủ quên trên những thành công hay phong cách đã định hình. Bên cạnh những hình thức làm nên tên tuổi như thơ ba câu - nơi ông chứng tỏ khả năng cô đọng tư duy triết học và hình ảnh siêu thực đến đỉnh cao - Mai Văn Phấn vẫn không ngừng thử nghiệm các cấu trúc mới, pha trộn thể loại (như thơ văn xuôi, thơ kịch), và tìm kiếm những khả năng biểu đạt chưa từng có cho ngôn ngữ tiếng Việt. Sự táo bạo trong hình thức này luôn gắn liền với chiều sâu nội tại, khiến thơ ông luôn tươi mới, đa diện và đòi hỏi sự tiếp nhận chủ động, thậm chí là nỗ lực giải mã từ phía người đọc. Các chủ đề trong thơ ông, dù mang tính phổ quát (thời gian, tồn tại, bản thể, mối quan hệ giữa cá nhân và vũ trụ), vẫn tìm thấy sự cộng hưởng mạnh mẽ với những cảm thức của con người đương đại trong một thế giới đầy biến động, phân mảnh và phức tạp – từ sự băn khoăn về ý nghĩa cuộc sống đến mối quan hệ giữa cá nhân với môi trường xung quanh, hay sự truy vấn về ngôn ngữ và quá trình sáng tạo.

Dòng thơ ba câu gây nhiều tranh cãi đối với văn học hiện nay khi người ta cho rằng đây không phải là thơ hay có cảm nhận thơ của Mai Văn Phấn, độc giả Tùng Lâm bày tỏ: "Thơ của Mai Văn Phấn có "cảnh". Để dễ hình dung, nếu bạn từng say sưa đọc một cuốn sách và trong đầu hiện ra những hình ảnh tưởng tượng về nhân vật, về khung cảnh, cảm xúc bị dắt đi theo câu chữ thì đó chính là đang đi cảnh trong văn. Thơ tìm cho mình một đối tượng khai thác chiều sâu về nó và chính dòng thơ này cũng vậy, mỗi thể loại mang cho mình một đặc trưng về kết cấu riêng buộc người đọc khi tìm đến nó phải thật sự hiểu và say cùng nó. Dòng thơ ba câu đòi hỏi độc giả phải bỏ cả công và sức để giải mã bề sâu của những con chữ nhìn có vẻ đơn sơ này.

Nhìn tổng quan tiến trình sáng tác thơ Mai Văn Phấn là hành trình mài giũa của tư duy sáng tạo về quan niệm nghệ thuật của nhà thơ mỗi bài thơ là mỗi khoảnh khắc bản ngã của con người. Thơ ông đòi hỏi một tệp người đọc riêng cho mình khi họ sẵn sàng đi sâu tìm tòi thông qua từng con chữ đặc trưng ông sáng tạo với thể thơ ba câu này. “ Mai Văn Phấn bắt đầu làm thơ ở cái tuổi mà sự chín chắn trong kinh nghiệm sống đã cho phép lí trí của anh tìm ra một lối đi, một cách nhìn cuộc sống đủ lớn để xác định cho mình một thế giới nghệ thuật riêng biệt”. [13; tr.103]

Mai Văn Phấn không chỉ là một nhà thơ của những thành tựu đã đạt được, mà còn là một mạch nguồn sáng tạo đang chảy mạnh mẽ, góp phần định hình diện mạo và mở ra những chân trời mới cho thơ đương đại Việt Nam trong thế kỷ 21. Ông là minh chứng sống động cho thấy sự kết hợp giữa chiều sâu tư tưởng, kỹ thuật bậc thầy và tinh thần thực nghiệm bền bỉ tạo nên sức sống lâu dài và tầm vóc vượt thời gian cho tác phẩm nghệ thuật.

Thơ ba câu của Mai Văn Phấn đã nhận được sự chú ý đáng kể và nhìn chung là những đánh giá rất tích cực từ giới phê bình và độc giả trong và ngoài nước, được xem là một đóng góp đặc sắc cho diện mạo thơ đương đại. Các nhận xét đều nhấn mạnh khả năng phi thường của ông trong việc làm chủ hình thức cực kỳ cô đọng này, nén chặt ý tưởng, cảm xúc và hình ảnh vào chỉ ba dòng, tạo nên tính hàm súc và sức nặng đáng kinh ngạc. Chiều sâu triết học, những suy nghiệm về tồn tại, thời gian và vũ trụ được chuyên chở hiệu quả thông qua hệ thống hình ảnh độc đáo, lạ hóa, đôi khi siêu thực, và ngôn ngữ tạo hình sắc bén, giàu sức gợi mở. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính tối giản hình thức, chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong thi pháp này làm cho thơ ông không chỉ cô đọng mà còn đa tầng ý nghĩa, kích thích mạnh mẽ sự liên tưởng và tư duy của người đọc. Thơ ba câu của Mai Văn Phấn được coi là một thể nghiệm nghệ thuật thành công, thể hiện tinh thần thực nghiệm bền bỉ của ông và góp phần khẳng định tiềm năng biểu đạt của ngôn ngữ tiếng Việt trong khuôn khổ tối giản. Mặc dù tính hàm súc cao đôi khi đòi hỏi sự nỗ lực nhất định từ phía người đọc để tiếp cận, nhưng điều này thường được xem là đặc trưng thi pháp, mời gọi sự tham gia chủ động vào quá trình kiến tạo ý nghĩa. Tóm lại, thơ ba câu của Mai Văn Phấn được đánh giá là một thành tựu nghệ thuật tiêu biểu, minh chứng cho tài năng làm chủ hình thức, chiều sâu tư tưởng và khả năng sáng tạo độc đáo, góp phần định vị ông như một trong những nhà thơ tiên phong và quan trọng của nền thơ đương đại.

 

 

 

CHƯƠNG 2: CẢM THỨC THỜI GIAN NHÌN TỪ ĐỀ TÀI VÀ QUAN NIỆM THƠ MAI VĂN PHẤN

 

2.1. Cảm thức thời gian nhìn từ phương diện đề tài

 

Thơ ba câu Mai Văn Phấn “gom tụ trong mình những xác cảm phong phú của đời sống con người đương đại : âu lo, hoài nghi, bi quan, khổ đau, hạnh phúc, tin tưởng, khát vọng với các vấn đề tâm linh, tôn giáo, tình yêu, sự tha hoá, môi trường, nông thôn, đô thị, hậu chiến, tha hương, trở về,…”[13; tr.135]. Những đề tài trong thơ ông tuy không quá cầu kì hoa mỹ nhưng đi sâu vào từng giai đoạn khoảnh khắc nhỏ bé mà nhiều nhà văn khác dường như bỏ quên đi, ông đắm chìm vào giai điệu cảm xúc xuất phát từ phương diện đề tài. Đề tài trong văn học là một khái niệm trung tâm, được hiểu là phạm vi hiện thực đời sống, lĩnh vực kinh nghiệm con người, vấn đề hoặc hiện tượng mà tác phẩm tập trung phản ánh, khám phá và thể hiện. Nó đóng vai trò như chất liệu ban đầu, là điểm khởi phát cho quá trình sáng tạo của nhà văn và là cửa ngõ để người đọc tiếp cận với thế giới mà tác phẩm xây dựng.

Đề tài có mối liên hệ mật thiết với chủ đề (tư tưởng, thông điệp chính mà nhà văn muốn truyền tải) nhưng thường được xem là phạm vi rộng hơn. Đề tài phản ánh mối quan tâm của cá nhân người viết, góc nhìn của họ về cuộc đời, cũng như những vấn đề nổi cộm, những dòng chảy văn hóa, xã hội, lịch sử của thời đại mà tác phẩm ra đời. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu đề tài giúp hiểu thêm về bối cảnh lịch sử-xã hội của tác phẩm và tư tưởng của tác giả.

Sự phong phú và đa dạng của đề tài là vô tận, bao trùm hầu hết mọi khía cạnh của đời sống con người và thế giới xung quanh, từ những đề tài muôn thuở mang tính kinh điển như tình yêu, cái chết, chiến tranh, hòa bình, thiện ác, đến những đề tài mới nảy sinh phản ánh sự vận động của xã hội hiện đại như công nghệ, môi trường, bản sắc trong thế giới toàn cầu hóa, các vấn đề giới, v.v.

Giá trị và sức hấp dẫn của một tác phẩm không chỉ nằm ở việc lựa chọn đề tài (đề tài dù độc đáo đến mấy cũng có thể trở nên nhàm chán nếu xử lý yếu), mà quan trọng hơn gấp bội là ở cách nhà văn tiếp cận, khai thác, xử lý và đào sâu vào đề tài đó. Cùng một đề tài, các tác giả khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau, với tài năng, góc nhìn, trải nghiệm sống và bút pháp riêng biệt, sẽ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn khác nhau về chiều sâu tư tưởng, sắc thái cảm xúc, cấu trúc nghệ thuật và thông điệp gửi gắm. Cách xử lý đề tài thể hiện tài năng, tầm vóc và dấu ấn cá nhân của nhà văn.

Đề tài văn học luôn vận động và biến đổi theo dòng chảy của lịch sử và sự phát triển của xã hội. Có những đề tài nổi lên mạnh mẽ trong một giai đoạn lịch sử nhất định, sau đó có thể lắng xuống hoặc được tái khám phá, biểu đạt dưới những góc nhìn mới mẻ hơn. Sự xuất hiện của các đề tài mới cũng là dấu hiệu cho thấy văn học đang mở rộng biên độ phản ánh hiện thực và bắt nhịp với hơi thở của thời đại.

Đề tài là một yếu tố nền tảng, là cánh cửa mà qua đó văn học kết nối với hiện thực đời sống và con người. Nó cung cấp chất liệu ban đầu và định hướng cho quá trình sáng tạo, nhưng chính chiều sâu tư tưởng, sự độc đáo trong góc nhìn, và tài năng nghệ thuật của nhà văn trong quá trình xử lý đề tài mới là yếu tố quyết định tạo nên giá trị, sức lay động và tầm vóc lâu bền cho tác phẩm văn học. Đề tài là điểm hẹn của hiện thực và sáng tạo, nơi cuộc sống được soi chiếu, khám phá và thăng hoa dưới ánh sáng của nghệ thuật.

“Đề tài không chỉ được khơi gợi, quy định bởi cuộc sống hiện thực mà còn luôn được xác lập bởi lập trường tư tưởng thẩm mĩ, cách nhìn, quan niệm nghệ thuật, cá tính, tài năng sáng tạo; phụ thuộc vào những yêu cầu của thời đại và hoàn cảnh sáng tác riêng của mỗi nhà văn.” [26; tr 112].

 

2.1.1. Đề tài thiên nhiên và những khoảnh khắc thường nhật

Trong số vô vàn đề tài làm nên thế giới văn học, thiên nhiên nổi lên như một trong những đề tài kinh điển, phổ quát và có sức sống bền bỉ nhất qua mọi thời đại và nền văn hóa. Sự gắn bó máu thịt của con người với môi trường tự nhiên – nguồn gốc của sự sống, không gian sinh tồn, nguồn cảm hứng thẩm mỹ và nơi neo đậu cảm xúc – giải thích cho vị thế trung tâm này. Thiên nhiên trong văn học không chỉ là bối cảnh cho cuộc đời con người mà còn là nguồn cung cấp vô tận hình ảnh, biểu tượng, và là tấm gương soi chiếu nội tâm, tư tưởng, và cả những vấn đề xã hội của con người.

Tuy chỉ là một trong vô vàn đề tài làm nên bức tranh văn học, thiên nhiên luôn giữ vị trí đặc biệt, có sức sống bền bỉ và là nguồn cảm hứng không bao giờ cạn cho các thế hệ nhà văn qua mọi thời đại và nền văn hóa. Mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên không chỉ là sự tương tác vật lý hay không gian sinh tồn đơn thuần, mà là một mối giao cảm sâu xa, một sợi dây liên kết nguyên thủy định hình nên cảm xúc, tư tưởng và cả thân phận con người.

Sự quan tâm sâu sắc của văn học đối với thiên nhiên bắt nguồn từ nhiều tầng nghĩa. Trước hết, thiên nhiên là cội nguồn của sự sống, là không gian nguyên sơ nơi con người tìm thấy bản thân và chiêm nghiệm về sự tồn tại. Vẻ đẹp kỳ vĩ của núi non, sự mênh mông của biển cả, vẻ dịu dàng của cánh đồng, hay sự khắc nghiệt của bão tố đều gợi lên trong con người những cung bậc cảm xúc đa dạng, từ kinh ngạc, sợ hãi, đến bình yên, suy tư về vị trí của mình trong vũ trụ rộng lớn.

Vì lẽ đó, thiên nhiên trong văn học vượt xa vai trò làm bối cảnh hay phông nền cho câu chuyện. Nó thường được nâng lên thành một hệ thống biểu tượng đồ sộ, nơi mỗi yếu tố – cây cỏ, dòng sông, ngọn gió, tia nắng, mưa, tuyết – đều mang trong mình những ý nghĩa ẩn dụ về cuộc đời, thân phận, tình yêu, cái chết, hay những vấn đề triết lý sâu xa. Thiên nhiên có thể trở thành tấm gương soi chiếu nội tâm nhân vật (như trong thủ pháp 'cảnh ngụ tình', khi tâm trạng con người hòa quyện vào cảnh vật), một "nhân vật" đầy sức mạnh và ý chí riêng (thiên nhiên đối kháng trong các tác phẩm phiêu lưu, sinh tồn), hay một nguồn minh triết sâu xa, nơi con người tìm kiếm sự hài hòa, chân lý và giải thoát khỏi những ràng buộc của đời sống xã hội. Nó là nơi con người chiêm nghiệm về vòng tuần hoàn sinh diệt, về sự phù du của kiếp người đối lập với sự vĩnh cửu, bao dung nhưng cũng đầy bí ẩn của vũ trụ.

Cách thiên nhiên được khắc họa trong văn học không đứng yên mà luôn dịch chuyển, phản ánh mối quan hệ không ngừng thay đổi giữa con người và thế giới tự nhiên qua các kỷ nguyên lịch sử và tư tưởng. Từ sự hòa hợp, tuẫn theo tự nhiên trong các nền văn minh nông nghiệp cổ xưa, đến sự bùng nổ tôn vinh cái siêu việt, nguồn cảm hứng vô biên trong thời kỳ Lãng mạn khi con người đối diện với cách mạng công nghiệp và tìm cách thoát ly khỏi gò bó xã hội. Sau đó là cái nhìn lạnh lùng, khắc nghiệt, xem thiên nhiên như một yếu tố quyết định số phận trong chủ nghĩa Tự nhiên, hay sự đoạn tuyệt, lãng quên thiên nhiên trong bối cảnh đô thị hóa ào ạt của văn học hiện đại đầu thế kỷ 20.

Trong văn học đương đại ngày nay, đề tài thiên nhiên lại mang một sắc thái mới đầy tính thời sự và cấp bách. Nó không chỉ là vẻ đẹp để ngắm nhìn, mà còn là đối tượng của nỗi lo âu sâu sắc trước khủng hoảng môi trường toàn cầu, biến đổi khí hậu, sự mất mát đa dạng sinh học, và sự xa lạ, đứt gãy giữa con người hiện đại với thế giới tự nhiên hoang dã. Thiên nhiên trong văn học đương đại có thể xuất hiện như một nạn nhân cần được bảo vệ, một tiếng chuông cảnh tỉnh về sự hủy diệt, hay một lời nhắc nhở da diết về vẻ đẹp và sự mong manh của sự sống trên hành tinh. Ngay cả thiên nhiên đô thị, với những mảng xanh ít ỏi, những con kênh ô nhiễm, những sinh vật vật lộn để tồn tại giữa không gian nhân tạo, cũng trở thành một đề tài để khám phá mối quan hệ phức tạp giữa con người và môi trường trong chính không gian sống hàng ngày.

Cách nhà văn khai thác đề tài thiên nhiên cũng định hình nên phong cách và ngôn ngữ của tác phẩm – từ những câu thơ, câu văn giàu chất tạo hình, mĩ lệ, bay bổng khi miêu tả vẻ đẹp, đến ngôn ngữ sắc lạnh, dữ dội khi nói về sự khắc nghiệt, hay sự kết hợp các thuật ngữ khoa học khi đề cập đến các vấn đề môi trường hiện đại.

Chính sự nhào nặn và đào sâu, đề tài thiên nhiên không bao giờ cũ hay cạn kiệt. Nó tiếp tục là một nguồn mạch vô tận để văn học khám phá không chỉ vẻ đẹp và sự bí ẩn của thế giới bên ngoài, mà còn những chiều sâu của tâm hồn, tư tưởng và những vấn đề cốt lõi của con người trong mối liên hệ biện chứng với "ngôi nhà chung" của mình. Qua cách các nhà văn viết về thiên nhiên, ta không chỉ thấy vẻ đẹp muôn hình vạn trạng của thế giới tự nhiên mà còn hiểu thêm về con người, thời đại, và những thay đổi trong nhận thức, trách nhiệm và cảm quan của nhân loại trước vẻ đẹp vĩnh cửu và sự mong manh của thế giới tự nhiên. Đề tài thiên nhiên, vì thế, luôn là một tấm gương vĩ đại phản chiếu không chỉ vũ trụ mà còn là chính bản thân chúng ta, tiếp tục là một dòng chảy quan trọng nuôi dưỡng và làm giàu có thêm dòng chảy văn học.

Cách thiên nhiên được khắc họa trong văn học vô cùng đa dạng, phản ánh góc nhìn và cảm quan của nhà văn qua từng thời kỳ. Nó có thể là phông nền tươi đẹp hoặc khắc nghiệt cho câu chuyện; là biểu tượng cho cái đẹp tuyệt đối, sức mạnh nguyên sơ, hoặc sự vô thường của đời sống; là tấm gương phản chiếu tâm trạng con người (thủ pháp tả cảnh ngụ tình); là một thế lực đối kháng đầy thách thức buộc con người phải đấu tranh sinh tồn; là nguồn cảm hứng triết học, nơi con người tìm kiếm sự hài hòa, chân lý; hay trong bối cảnh đương đại, là đối tượng bị tổn thương bởi tác động của con người, gợi lên ý thức về môi trường và sự mất kết nối giữa con người hiện đại và thế giới tự nhiên.

Cảm thức về thiên nhiên trong văn học không đứng yên mà luôn vận động cùng dòng chảy lịch sử, tư tưởng và sự phát triển khoa học. Nếu như trong văn học cổ, thiên nhiên thường xuất hiện với tính ước lệ, là biểu tượng cho trật tự vũ trụ hoặc là đối tượng để tuẫn theo, thì đến thời kỳ Lãng mạn, nó bùng nổ như một nguồn cảm xúc mãnh liệt, biểu tượng cho cái siêu việt, là nơi con người giải thoát khỏi gò bó xã hội. Văn học hiện thực và tự nhiên sau đó lại nhìn thiên nhiên dưới góc độ khắc nghiệt, vô cảm, là yếu tố quyết định số phận. Ngày nay, bên cạnh việc khai thác vẻ đẹp và sự bí ẩn, đề tài thiên nhiên còn gắn chặt với mối lo ngại về khủng hoảng môi trường, sự mất đa dạng sinh học, hay vẻ đẹp tiềm ẩn trong chính thiên nhiên đô thị bị lãng quên.

Dù được nhìn nhận dưới góc độ nào, đề tài thiên nhiên vẫn luôn là một mảnh đất màu mỡ cho sự sáng tạo. Nó không chỉ giúp văn học tái hiện sinh động thế giới vật chất mà còn là phương tiện hiệu quả để khám phá những chiều sâu tâm hồn, tư tưởng và mối quan hệ phức tạp giữa con người với môi trường sống của mình. Qua cách các nhà văn khai thác đề tài thiên nhiên, ta không chỉ thấy vẻ đẹp muôn hình vạn trạng của thế giới tự nhiên mà còn hiểu thêm về con người và thời đại mà họ đang sống, về những biến chuyển trong nhận thức và cảm quan của nhân loại trước "ngôi nhà chung" của mình. Đề tài thiên nhiên vì thế luôn mang tính thời sự và vĩnh cửu, tiếp tục là nguồn mạch quan trọng nuôi dưỡng dòng chảy văn học.

Thơ ba câu của Mai Văn Phấn đã nhận được sự chú ý đáng kể và nhìn chung là những đánh giá rất tích cực từ giới phê bình và độc giả trong và ngoài nước, được xem là một đóng góp đặc sắc cho diện mạo thơ đương đại. Các nhận xét đều nhấn mạnh khả năng phi thường của ông trong việc làm chủ hình thức cực kỳ cô đọng này, nén chặt ý tưởng, cảm xúc và hình ảnh vào chỉ ba dòng, tạo nên tính hàm súc và sức nặng đáng kinh ngạc. Chiều sâu triết học, những suy nghiệm về tồn tại, thời gian và vũ trụ được chuyên chở hiệu quả thông qua hệ thống hình ảnh độc đáo, lạ hóa, đôi khi siêu thực, và ngôn ngữ tạo hình sắc bén, giàu sức gợi mở. Chính sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính tối giản hình thức, chiều sâu tư tưởng và sự độc đáo trong thi pháp này làm cho thơ ông không chỉ cô đọng mà còn đa tầng ý nghĩa, kích thích mạnh mẽ sự liên tưởng và tư duy của người đọc. Thơ ba câu của Mai Văn Phấn được coi là một thể nghiệm nghệ thuật thành công, thể hiện tinh thần thực nghiệm bền bỉ của ông và góp phần khẳng định tiềm năng biểu đạt của ngôn ngữ tiếng Việt trong khuôn khổ tối giản. Mặc dù tính hàm súc cao đôi khi đòi hỏi sự nỗ lực nhất định từ phía người đọc để tiếp cận, nhưng điều này thường được xem là đặc trưng thi pháp, mời gọi sự tham gia chủ động vào quá trình kiến tạo ý nghĩa. Tóm lại, thơ ba câu của Mai Văn Phấn được đánh giá là một thành tựu nghệ thuật tiêu biểu, minh chứng cho tài năng làm chủ hình thức, chiều sâu tư tưởng và khả năng sáng tạo độc đáo, góp phần định vị ông như một trong những nhà thơ tiên phong và quan trọng của nền thơ đương đại.

Với Mai Văn Phấn, quan niệm nghệ thuật của ông xuất phát từ cái đẹp tựa văn học muôn đời ba yếu tố chân - thiện - mỹ. Đề tài thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận của nghệ thuật và quá trình sáng tạo, đây là một đề tài quen thuộc nhưng vẫn là mảnh đất giàu phù sa cần người đào xới khai thác một cách triệt để. Mọi hình ảnh sự vật trong thơ Mai Văn Phấn như căng tràn sức sống của sự chuyển động thể hiện bản ngã được nhà thơ kí hoạ trong mình.

 

Cây ở nghĩa trang

Lắc lư nhiều hướng

Lá nửa non

Nửa già

(Thả - Mai Văn Phấn)

“Trong thế giới tự nhiên bao la rộng lớn với muôn loài động, thực vật, vẫn theo lẽ tự nhiên tồn tại từ đời xa xưa khi tổ tiên chúng ta sống, hay hiện giờ chúng ta có thể nhận biết được những gì xung quanh chúng ta. Nếu chúng ta nhìn nhận sự việc một cách đơn giản, chỉ nhận biết bản thân của nó dựa vào bề ngoài hay những thuộc tính biểu hiện vốn có của nó thì không thể nào có chuyện gọi là nghệ thuật được. Từ đó phải biết khi chúng ta nhìn vào một đối tượng thì chúng ta tự hỏi xem vật đó là gì? Chứ ít ai nghĩ đến nó được làm ra hay xuất phát từ đâu? Vậy thì cái đẹp của nó là gì?” [7, tr 1].

Việc quan sát một cái cây trong nghĩa trang nơi yên nghỉ của những người đã khuất tạo ra sự tương phản mạnh mẽ giữa sự tĩnh lặng của cái chết và sự sống động của tự nhiên. Hình ảnh cây “ lắc lư nhiều hướng” cho thấy sức sống, sự thích nghi và kiên cường của cây trước môi trường xung quanh dẫu đó là nơi gắn liền với sự kết thúc. Hình ảnh cây hiện lên với sức sống mãnh liệt dẫu bất cứ đâu thiên nhiên vẫn mang đến sự hiện diện khơi dậy niềm tin và sự u uất cho nơi đây. Thậm chí, chỉ một vài câu thơ qua đó người đọc cũng cảm nhận được nhịp nhở của sự sống, hành trình trưởng thành hay chính là cả một kiếp người.

Sự đối lập giữa “ lá nửa non/ Nửa già” trong chính trong cùng một thời điểm mang đến sức gợi không chỉ mô tả một giai đoạn phát triển cụ thể của cây mà còn tượng trưng cho dòng chảy không ngừng của thời gian và quy luật sinh tồn. Lá non đại diện cho sự khởi đầu, sức sống mới, trong khi lá già gợi đến sự trưởng thành, sự trải qua và cả sự tàn lụi. Sự tồn tại đồng thời của cả hai trạng thái này trên cùng một cây có thể liên tưởng đến như một sự hoà hợp của các giai đoạn khác nhau của cuộc đời, giữa sự sống và cái chết.

Bối cảnh nghĩa trang là nền tảng tạo thêm vào một lớp suy tư về sự hữu hạn của cuộc đời. Sự hữu hạn này được đặt cạnh vòng đời tự nhiên của cây, tạo ra một liên kết mạnh mẽ giữa chu kỳ của tự nhiên và sự tồn tại của con người. Cây cối, với khả năng tái sinh và phát triển qua nhiều năm, có thể được xem như một biểu tượng của sự tiếp nối và vĩnh cửu, trong khi nghĩa trang nhắc nhở về điểm dừng cuối cùng của mỗi cá nhân. Sự đặt cạnh này không chỉ gợi lên sự suy ngẫm về sự hữu hạn mà còn có thể mang đến một cảm giác an ủi, rằng cuộc sống và cái chết là những phần không thể tách rời của một vòng tuần hoàn lớn hơn trong tự nhiên. Thiên nhiên -  một mảnh ghép không thể tách rời trong cuộc sống và chính nó cũng là phương diện thể hiện ẩn thân của cảm xúc con người, thông qua việc lựa chọn đề tài Mai Văn Phấn đã đưa đến cho độc giả một ánh nhìn mới mẻ của thiên nhiên qua lăng kính sát sao của mình.

 

Nơi đầu gió

Vàng mã bén lửa

Gió giật vội

Mang đi

(Thả - Mai Văn Phấn)

Bài thơ gói gọn giây phút đặc biệt khi cơn gió vội vút qua một sự tương tác giữa nghi lễ của con người và sức mạnh của thiên nhiên.Việc "vàng mã bén lửa" gợi lên hình ảnh một nghi thức cúng tế, một hành động thường mang ý nghĩa tâm linh hoặc tưởng nhớ. Tuy nhiên, sự xuất hiện đột ngột của gió "gió giật vội" và hành động "mang đi" lại nhấn mạnh tính chất nhất thời, phù du của cả vật phẩm và hành động. Gió - hiện tượng tự nhiên được đưa vào bài thơ thông qua sự lồng ghép tuy nhiên đó chưa hẳn là ý nghĩa mà tác giả muốn gửi gắm mà còn mang đến sự tác động tự nhiên và con người luôn song hành tồn tại ảnh hưởng đến hoạt động của con người. Gió như muốn mang đi sự thương nhớ những người đã khuất nhanh hơn vội vã hơn qua hành động. Tình yêu thương được gửi vào gió mang đi thật xa thật xa tới tận chân trời.

 

Nổi gió

Vàng mã cháy nhanh

Tàn tro

Rải khắp cánh đồng

(Thả - Mai Văn Phấn)

Tương tự với bài thơ trước ở bài Nổi gió vẫn tiếp tục khai thác chủ đề về thiên nhiên hình tượng gió vẫn được tiếp tục khai thác triệt để cùng hoạt động con người hoà quyện tạo nên cảnh sắc man mác buồn. Vàng mã mang đến cảm giác sự bi thương còn đọng lại trong sâu thẳm khi trải qua sự chia xa. Nhờ việc tác giả chỉ ra sự mạnh mẽ của gió và tính chất nhanh chóng của ngọn lửa và sự lan toả của tro tàn hoàn toàn phù hợp với khung cảnh của bài thơ.Thật vậy, sự tập trung vào một khoảnh khắc thoáng qua, một sự kiện cụ thể trong tự nhiên và gợi lên những suy ngẫm sâu xa là đặc trưng trong thơ của ông. Điểm nhấn về "sức mạnh của gió" trong câu "Nổi gió" cho thấy một sự tác động mạnh mẽ từ thế giới tự nhiên, một yếu tố thường được Mai Văn Phấn quan sát và đưa vào thơ. Tính "nhanh chóng" của ngọn lửa vàng mã cũng phản ánh sự tức thời của khoảnh khắc điều mà chắc hẳn khó có ai quan sát chi tiết được như Mai Văn Phấn.

 

Bình minh

Đánh thức

Con nhện nước

Giữa hoa sen

(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

Thiên nhiên luôn mang đến sự trong trẻo, tinh khôi trong quá trình khai thác tìm hiểu dễ dàng để thi sĩ gửi gắm những nỗi niềm tâm tư thông qua hình tượng nghệ thuật ấy. “ Bình minh” thời gian đầu tiên khi những ánh nắng bắt đầu hừng sáng khởi đầu cho sự sống mới được diễn ra. Những hình ảnh đời thường đẹp, tĩnh lặng ít được chú ý trong văn thơ cùng thời lại được tác giả dành sự quan tâm đặc biệt bởi sự nhẹ nhàng trong sáng của đoá sen được đặt làm trung tâm. Với đặc trưng ba câu sức chưa chỉ 8 từ nhưng khai mở một khung cảnh nên thơ đòi hỏi độc giả phải say và đắm. Bức tranh bình minh trên hoa sen với con nhện nước mang đến một cảm giác yên bình và sâu lắng, một trạng thái thường được tìm thấy trong những quan sát tinh tế về thiên nhiên.

 

Ngày mới

Hừng đông

Miệng chim non

Hớp những đám mây

(Thả - Mai Văn Phấn)

Cùng khung cảnh ấy tác giả lại quan sát qua lắng kính mới từ trên cao với hình ảnh thiên nhiên hừng đông qua những tán cây với chim non đang đưa miệng chờ món ăn ngày mới và cả những đám mây lơ lửng còn say ngất ngủ nồng. Đề tài thiên nhiên chiếm lĩnh một vị trí trọng yếu trong thơ Mai Văn Phấn thông qua những khoảnh khắc thường nhật với nhiều góc độ quan sát khác nhau.

Đề tài thiên nhiên và những khoảnh khắc thường nhật đã một phần khắc hoạ thời gian tâm lý được tác giả gửi gắm. Với phong cách sáng tác chú tâm vào giai đoạn thời gian ngắn cùng sự đa dạng của các hình ảnh tự nhiên cho thấy sự gắn bó sâu sắc với thế giới tự nhiên như một nguồn cảm hứng thơ ca khám phá chủ đề. Số lượng lớn các chủ đề tự nhiên, từ côn trùng đến phong cảnh, cho thấy sự quan sát toàn diện về môi trường, ngụ ý rằng thiên nhiên là một lăng kính trung tâm mà qua đó Mai Văn Phấn khám phá các chủ đề rộng lớn hơn. Sự tập trung của Mai Văn Phấn vào các chi tiết nhỏ trong thiên nhiên cho thấy một con mắt quan sát tinh tường và một sự quan tâm tiềm ẩn đến việc tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc trong những khía cạnh bình thường của thế giới tự nhiên như giọt sương hoặc chuyển động cánh của con bướm, khoảnh khắc trời hừng nắng, gió vút đi, con chim mới bay,lá rơi, cây lim, đồi, hoa ở Côn Sơn,… chứng minh sự tập trung vào những khía cạnh nhỏ bé và thường bị bỏ qua của thiên nhiên, ngụ ý rằng những quan sát nhỏ này mang ý nghĩa hoặc phản ánh những chân lý rộng mở đằng sau sự tĩnh lặng yên bình của nó.

Trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, đề tài thiên nhiên và khoảnh khắc thường nhật không tồn tại độc lập mà hòa quyện chặt chẽ, trở thành chất liệu nền tảng để ông kiến tạo nên những suy tưởng sâu sắc và đầy bất ngờ. Ông thường bắt đầu từ những quan sát giản dị, những chi tiết nhỏ bé, tưởng chừng như bình phàm của thế giới tự nhiên quanh ta: một chiếc lá rơi, một hòn đá bên đường, ánh sáng hắt qua kẽ lá, giọt mưa đọng lại, tiếng chim hót thoáng qua. Đây chính là những "khoảnh khắc thường nhật" của thiên nhiên, những mảnh vụn của hiện thực cụ thể mà ta có thể dễ dàng bắt gặp trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, thay vì dừng lại ở việc mô tả hay thể hiện cảm xúc trực tiếp trước những chi tiết này, Mai Văn Phấn sử dụng chúng như những điểm kích hoạt, những cánh cửa đột ngột mở ra không gian triết lý, siêu hình. Một chiếc lá rơi không chỉ là dấu hiệu của mùa thu, mà có thể là biểu tượng cho sự phù du, sự biến đổi của thời gian, hay quy luật sinh diệt của vũ trụ. Ánh sáng không chỉ là vật lý, mà là biểu tượng cho nhận thức, sự tồn tại hay bản chất của hiện thực. Sự giao thoa giữa khoảnh khắc thiên nhiên thường nhật và suy tưởng sâu xa này diễn ra một cách sắc bén, dồn nén trong khuôn khổ ba dòng thơ. Chính sự hạn chế về không gian buộc nhà thơ phải ghép nối những yếu tố tưởng chừng xa lạ (một chi tiết tự nhiên cụ thể + một ý niệm triết lý/siêu hình) một cách cô đọng nhất, tạo nên hiệu ứng bất ngờ, giàu sức gợi mở và đa tầng ý nghĩa. Thơ ông không giải thích, mà trình bày sự va đập giữa cái thường nhật, cái hữu hình (thiên nhiên) và cái trừu tượng, cái vô hình (tư tưởng). Qua những khoảnh khắc thiên nhiên thường nhật này, Mai Văn Phấn khám phá các chủ đề về sự tương tác giữa ý thức con người và thế giới vật chất, về tính chủ quan của nhận thức, về sự chuyển hóa không ngừng của vạn vật. Thiên nhiên không chỉ là đối tượng để nhìn ngắm, mà là tấm gương phản chiếu nội tâm, là một phần của chính quá trình tư duy và cảm nhận về tồn tại. Có thể nói, trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, đề tài thiên nhiên và khoảnh khắc thường nhật là "chất liệu thô" đầy quý giá, được ông nhào nặn bằng tư duy sắc bén và bút pháp độc đáo để tạo nên những "viên kim cương" ngôn ngữ - nơi vẻ đẹp giản dị của tự nhiên thường ngày bỗng chốc mở ra những chân trời suy tưởng rộng lớn và sâu thẳm về thân phận con người và bản chất vũ trụ. Đây là một đặc trưng làm nên phong cách riêng biệt và tầm vóc thơ ông.

Mai Văn Phấn nâng tầm những điều bình thường, cho thấy rằng vẻ đẹp và ý nghĩa có thể được tìm thấy trong những khía cạnh đơn giản nhất của cuộc sống. Hành động ghi lại những khoảnh khắc dường như không quan trọng này ngụ ý một niềm tin rằng chúng mang giá trị nội tại hoặc có thể tiết lộ những hiểu biết sâu sắc hơn về trải nghiệm của con người hoặc bản chất của thực tại. Các bài thơ như "Thắp hương xong / Dựa lưng / Vào ngôi mộ bên cạnh" (Viếng mộ ông bà)  và "Thắp hương cha / Tưới xuống đất / Thành tiếng" (Ly rượu)  minh hoạ sự tập trung này vào những khoảnh khắc mang tính nghi lễ nhưng lại rất cá nhân. Những bài thơ này kết nối những hành động hàng ngày với ý nghĩa cảm xúc hoặc tâm linh sâu sắc hơn, làm nổi bật các lớp ý nghĩa trong những hành động dường như đơn giản. Qua đó, ta có thể thấy đề tài thiên nhiên trong thơ ba câu Mai Văn Phấn mang chất riêng sáng tác chú trọng vào khoảnh khắc đời thường và hiện tượng tự nhiên quen thuộc tạo cảm giác vừa gần gũi lại vừa xa lạ mới mẻ mà thân thương.

“Thiên nhiên là một hình tượng trong các tác phẩm văn học. Tuy nhiên trong từng thời đại hình tượng thiên nhiên lại biểu thị một đặc điểm riêng, mang giá trị riêng. Trong nền văn học Việt Nam, thiên nhiên là hình tượng xuyên suốt, là cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn. Đọc những vần thơ, câu văn của các tác giả ta dễ dàng nhận ra nét đẹp rất đặc trưng cho mỗi giai đoạn, đó là vẻ đẹp cổ điển trong nền văn học trung đại và vẻ đẹp đa sắc màu của văn học hiện đại.” [27; tr 3]

Nguyễn Du đã từng viết trong văn chương ông: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” chính sự lột tả tâm trạng thông qua từng hình ảnh xuất hiện ở thiên nhiên chính là ngọn nguồn của việc bộc lộ cảm xúc của hình tượng. Mai Văn Phấn, với những tìm tòi sáng tạo ở thể loại "thơ ba câu", đã tạo nên một cách tiếp cận đặc biệt trong việc miêu tả và cảm nhận thiên nhiên, khác biệt rõ rệt so với nhiều nhà thơ đi trước và cả những người cùng thời viết thơ ngắn. Điểm đặc trưng nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Mai Văn Phấn qua ba câu thơ là sự tập trung vào những hình ảnh bình dị, nhỏ bé, thậm chí là vô danh của tạo hóa, được nhìn nhận một cách khách quan và cận cảnh. Thay vì vẽ lên những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mỹ lệ mang tính ước lệ như trong thơ cổ hay Thơ mới, Mai Văn Phấn đi sâu vào khám phá vẻ đẹp và sự vận động nội tại của những sự vật rất đỗi đời thường: một "chồi non", "mưa bụi", "cây tầm xuân", hay sự tồn tại của "con cá", "con chào mào". Thiên nhiên trong thơ ông hiện lên không mang nặng tâm trạng hay cảm xúc chủ quan của thi sĩ; nó tồn tại với bản thể riêng, quá trình sinh trưởng, vận động tự nhiên của mình. Chẳng hạn, hình ảnh "cột buồm gãy" hay "buồng chuối chín cây" không chỉ là vật thể mà còn gợi mở những câu chuyện về số phận, sự sinh nở, trưởng thành của tạo vật.

Chính từ sự tối giản và có phần "lạnh lùng" trong việc miêu tả trực tiếp sự vật ấy, thơ ba câu của Mai Văn Phấn lại mở ra những không gian liên tưởng đa chiều, gợi những suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lý về cuộc sống, thân phận con người và vũ trụ. Những hình ảnh thiên nhiên nhỏ bé trở thành điểm neo để neo đậu những ý niệm lớn lao, phức tạp. Mối liên hệ giữa thiên nhiên và con người không phải là sự hòa quyện lãng mạn hay đối chiếu mang tính biểu tượng truyền thống, mà là sự tương tác, thậm chí là va đập giữa bản năng tự nhiên và ý thức, giữa cái hữu hình và cái vô hình. Quan niệm về sự sống, sự sinh sôi được thể hiện táo bạo qua những hình ảnh như "con cá động dục lóe sáng mặt nước" hay "đàn sẻ nâu vội vàng giao hoan chớp mắt", cho thấy một cái nhìn trần trụi, nguyên bản về năng lượng sống của tự nhiên.

Trong thơ truyền thống, đặc biệt là các bài tứ tuyệt Đường luật hoặc thơ Nôm, cảnh thiên nhiên thường được nhìn qua lăng kính tâm trạng của nhân vật trữ tình. Buồn cảnh thì cảnh cũng buồn theo, vui cảnh thì cảnh cũng vui lây. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên mang tính hòa hợp, đồng điệu, trong đó thiên nhiên đóng vai trò phông nền hoặc là "người bạn" để thi sĩ gửi gắm tâm sự. “Thời trung đại, con người sống dựa nhiều vào tự nhiên, khai thác tự nhiên, vì thế thiên nhiên và con người luôn có sự tương hợp, gắn bó máu thịt. Nhìn lại những sáng tác của các tác giả văn học trung đại ta sẽ thấy bức tranh thiên nhiên được cảm nhận ra sao, đồng thời thấy được nét đẹp riêng biệt của mỗi một giai đoạn văn học cụ thể.” [ 27; tr 1]

Đến phong trào Thơ mới, cái tôi cá nhân được đề cao mạnh mẽ. Thiên nhiên càng trở thành không gian để "cái tôi" bộc lộ cảm xúc. Cảnh vật được cảm nhận và miêu tả không chỉ đơn thuần là ngoại cảnh mà đã thấm đẫm, nhuốm màu tâm trạng chủ quan của nhà thơ. Nỗi buồn, cô đơn, tình yêu, hay sự bâng khuâng thường được thể hiện qua những hình ảnh của chiều thu, lá rụng, dòng sông trôi, ánh trăng... Phong trào Thơ mới, tuy phá bỏ nhiều niêm luật cũ, vẫn kế thừa và biến tấu một số hình ảnh ước lệ, đồng thời tạo ra những biểu tượng mới gắn với cảm quan hiện đại hơn. Tuy nhiên, xu hướng sử dụng các hình ảnh thiên nhiên quen thuộc (trăng, hoa, liễu, mây, sương khói, dòng sông, cánh đồng...) để gợi cảm xúc, tình cảm vẫn rất phổ biến và mang tính tượng trưng cao cho các trạng thái tâm hồn. có thể thấy rằng, đối với nhiều nhà thơ truyền thống và Thơ mới, thiên nhiên trong thơ ngắn chủ yếu phục vụ cho việc bộc lộ và phản chiếu thế giới nội tâm con người thông qua hệ thống hình ảnh mang tính ước lệ và biểu tượng. Điều này tạo nên sự khác biệt cơ bản với cách Mai Văn Phấn trong thơ ba câu tiếp cận thiên nhiên như một thực thể độc lập, tự thân vận động, từ đó gợi mở những suy ngẫm đa tầng, vượt ra ngoài khuôn khổ của cảm xúc cá nhân hay các biểu tượng quen thuộc.

Điểm đặc trưng nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Mai Văn Phấn qua ba câu thơ là sự tập trung vào những hình ảnh bình dị, nhỏ bé, thậm chí là vô danh của tạo hóa, được nhìn nhận một cách khách quan và cận cảnh. Thay vì vẽ lên những bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, mỹ lệ mang tính ước lệ như trong thơ cổ hay Thơ mới, Mai Văn Phấn đi sâu vào khám phá vẻ đẹp và sự vận động nội tại của những sự vật rất đỗi đời thường: một "chồi non", "mưa bụi", "cây tầm xuân", hay sự tồn tại của "con cá", "con chào mào". Thiên nhiên trong thơ ông hiện lên không mang nặng tâm trạng hay cảm xúc chủ quan của thi sĩ; nó tồn tại với bản thể riêng, quá trình sinh trưởng, vận động tự nhiên của mình. Chẳng hạn, hình ảnh "cột buồm gãy" hay "buồng chuối chín cây" không chỉ là vật thể mà còn gợi mở những câu chuyện về số phận, sự sinh nở, trưởng thành của tạo vật. Chính từ sự tối giản và có phần "lạnh lùng" trong việc miêu tả trực tiếp sự vật ấy, thơ ba câu của Mai Văn Phấn lại mở ra những không gian liên tưởng đa chiều, gợi những suy ngẫm sâu sắc mang tính triết lý về cuộc sống, thân phận con người và vũ trụ. Những hình ảnh thiên nhiên nhỏ bé trở thành điểm neo để neo đậu những ý niệm lớn lao, phức tạp. Mối liên hệ giữa thiên nhiên và con người không phải là sự hòa quyện lãng mạn hay đối chiếu mang tính biểu tượng truyền thống, mà là sự tương tác, thậm chí là va đập giữa bản năng tự nhiên và ý thức, giữa cái hữu hình và cái vô hình. Quan niệm về sự sống, sự sinh sôi được thể hiện táo bạo qua những hình ảnh như "con cá động dục lóe sáng mặt nước" hay "đàn sẻ nâu vội vàng giao hoan chớp mắt", cho thấy một cái nhìn trần trụi, nguyên bản về năng lượng sống của tự nhiên.

Các nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới hay các nhà thơ truyền thống khi viết về thiên nhiên trong những bài thơ ngắn (như tứ tuyệt, hay những đoạn thơ lục bát, năm chữ ngắn gọn) thường khắc họa thiên nhiên gắn liền với tâm trạng, cảm xúc cá nhân (buồn, vui, cô đơn, yêu đời) và sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng (trăng, hoa, liễu, mây khói). Cảnh vật thiên nhiên thường là phông nền để bộc lộ thế giới nội tâm con người. Với những nhà thơ chịu ảnh hưởng của Haiku Nhật Bản, họ cũng tập trung vào ghi nhận khoảnh khắc hiện tại của thiên nhiên và hướng đến sự tĩnh tại, hài hòa, gợi không khí thiền định. Tuy nhiên, Haiku truyền thống có những quy tắc chặt chẽ về cấu trúc âm tiết và quý ngữ chỉ mùa, trong khi thơ ba câu của Mai Văn Phấn linh hoạt hơn về hình thức và thường mang tham vọng gợi mở những tầng nghĩa sâu xa hơn vượt ra ngoài việc chỉ đơn thuần ghi lại một khoảnh khắc hay cảm nhận thiền tịnh. Dù một số nhà thơ đương đại khác như Nguyễn Anh Nông cũng thử nghiệm với thơ ngắn, thơ ba câu, cách thức Mai Văn Phấn kết hợp hình ảnh thiên nhiên tối giản với chiều sâu triết lý và tính đa nghĩa trong đúng ba dòng thơ tạo nên một bút pháp độc đáo, gần gũi với tinh thần của nghệ thuật sắp đặt hiện đại. cách miêu tả thiên nhiên trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn là một sự phá cách. Ông rời bỏ lối miêu tả ước lệ, chủ quan quen thuộc để tìm đến những hình ảnh thiên nhiên bình dị, khách quan, và sử dụng cấu trúc ba câu thơ tối giản làm đòn bẩy để bật mở những suy tư phức tạp về bản thể, sự sống và mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên ở một chiều kích mới mẻ và giàu tính gợi.

 

2.1.2. Đề tài con người và ký ức

Con người luôn là trung tâm của sự khai phá đào sâu sáng tạo văn học. Con người trong văn học mang hình ảnh đại diện cho cái chung cái đồng cảm của một thế hệ người. Người trong thơ Mai Văn Phấn ẩn mình sau hình tượng em, tôi, cha , bà, mẹ,… không xuất hiện một cách trực tiếp mà lột tả qua hình ảnh đại diện trong câu thơ.

Chủ đề "con người" luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong thơ ca muôn đời, song cách các nhà thơ nhìn nhận, khắc họa và đặt con người trong mối quan hệ với thế giới lại vô cùng đa dạng, đặc biệt khi so sánh Mai Văn Phấn với các phong trào thơ trước đó. Trong thơ truyền thống và phong trào Thơ mới, con người thường hiện diện với vị thế là chủ thể trữ tình nổi bật, là trung tâm của cảm xúc và nhận thức; họ hòa mình vào thiên nhiên, coi thiên nhiên là bạn tri âm hay phông nền để bộc lộ trực tiếp những buồn vui, suy tư về đạo lý, lẽ đời thông qua một "cái tôi" rõ nét cùng hệ thống hình ảnh ước lệ quen thuộc. Tuy nhiên, trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, hình ảnh con người thường xuất hiện một cách khác biệt, phù hợp với tinh thần tối giản và đa nghĩa của thể loại: con người không phải lúc nào cũng nghiễm nhiên là trung tâm mà đôi khi chỉ là một yếu tố thoáng qua, một phần tử trong bức tranh rộng lớn của thế giới tự nhiên, hiện diện một cách mờ hóa, phân mảnh qua một lát cắt hành động hay một trạng thái cô đọng. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên cũng không còn là sự hòa hợp lãng mạn thông thường mà là sự tương tác bất ngờ, chạm đến những vấn đề mang tính bản năng, nguyên thủy, hoặc sự tương thông ở cấp độ tồn tại. Chính sự dịch chuyển vị trí và cách khắc họa con người một cách "phi trung tâm hóa", đặt họ ngang hàng với vạn vật và khám phá mối tương quan mới mẻ, độc đáo với tự nhiên qua ngôn ngữ tối giản, đã mang đến cho thơ ba câu của Mai Văn Phấn một chiều sâu chiêm nghiệm hiện sinh, triết lý về thân phận con người trong vũ trụ, tạo nên nét đặc sắc so với cách miêu tả con người trong các dòng thơ truyền thống và Thơ mới.

Trong thơ truyền thống và phong trào Thơ mới, con người thường hiện lên với vị thế là chủ thể trữ tình rõ nét, là trung tâm của cảm xúc và nhận thức. Con người "hòa mình" vào thiên nhiên, coi thiên nhiên là bạn tri âm, là tấm phông để giãi bày tâm sự, hoặc là đối tượng để chiêm ngưỡng, suy ngẫm về cuộc đời một cách trực tiếp. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thường là sự tương giao, đồng điệu (buồn trông phong cảnh hẩm hiu) hoặc đối lập để làm nổi bật thân phận (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ). Cái tôi trong thơ truyền thống có thể ẩn mình qua các điển cố, điển tích hay hình tượng ước lệ, còn cái tôi trong Thơ mới lại bộc lộ một cách trực diện, đầy cảm xúc, thậm chí là phơi trải những rung động cá nhân trước thiên nhiên và cuộc đời.

Tuy nhiên, trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, hình ảnh con người thường xuất hiện một cách khác lạ hơn, phù hợp với tinh thần tối giản và đa nghĩa của thể loại này. Con người có thể không phải là chủ thể trữ tình rõ nét, mà đôi khi chỉ là một yếu tố xuất hiện thoáng qua, một phần tử trong bức tranh rộng lớn của thế giới, tương đương với các sự vật tự nhiên khác. Thay vì một "cái tôi" lớn lao chiêm ngưỡng hay giãi bày, ta có thể bắt gặp những dáng hình, hành động hay trạng thái mang tính phiếm chỉ ("người đàn bà mang thai đi qua") hoặc một cái tôi ẩn mình, quan sát ("Tôi vội vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ" trong bài "Con chào mào").

Con người trong thơ Mai Văn Phấn thường được đặt trong mối tương quan bất ngờ, thậm chí có phần "lạ hóa" với thiên nhiên, không còn là sự hòa hợp quen thuộc. Mối quan hệ này có thể là sự va chạm giữa ý định chủ quan của con người và quy luật tự nhiên (ý định "nhốt" chim chào mào đối lập với sự tự do của nó), sự đối diện giữa con người và bản năng nguyên thủy của tạo hóa (quan sát "cá động dục"), hoặc sự hòa quyện ở một cấp độ khác, mang tính bản thể, sinh hóa ("Yêu nhau. / Đất rùng mình. Sông chảy. / Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung").

Do tính chất cô đọng của thơ ba câu, chân dung con người không được phác họa đầy đủ mà thường chỉ hiện ra qua một lát cắt, một khoảnh khắc, một hành động đơn lẻ, nhưng lại mang sức gợi lớn về trạng thái tồn tại, những chiêm nghiệm thầm kín, hoặc mối liên hệ sâu sắc (đôi khi là vô thức) với thế giới xung quanh. Con người không chỉ là chủ thể cảm xúc mà còn là đối tượng được chiêm nghiệm, đặt trong bối cảnh vận động không ngừng của vũ trụ và tự nhiên.

Trong khi thơ truyền thống và Thơ mới thường đặt con người vào vị trí trung tâm cảm xúc hoặc hòa mình vào thiên nhiên quen thuộc, thơ ba câu của Mai Văn Phấn lại có xu hướng "giải trung tâm" hình ảnh con người, đặt con người như một yếu tố ngang hàng với các sự vật tự nhiên, khám phá mối tương quan mới mẻ, bất ngờ giữa con người và thiên nhiên qua những lát cắt hình ảnh và ngôn ngữ tối giản, từ đó gợi mở những suy tư hiện sinh, triết lý về thân phận và sự tồn tại của con người trong một thế giới luôn dịch chuyển.

Mặc dù các bài thơ thường tập trung vào những quan sát bên ngoài, nhưng qua đó cũng có thể gợi mở sức liên tưởng về những cảm xúc nội tâm và trạng thái tâm lý.  "Nhìn lâu / Chiếc đèn lồng / Nỗi cô đơn hình lục giác" (Hoa Giấu Mặt)  liên kết trực tiếp một đối tượng bên ngoài với một cảm xúc bên trong theo một cách độc đáo và gợi cảm. Sự mô tả khác thường về nỗi cô đơn như một hình lục giác cho thấy một cảm giác phức tạp và có lẽ là cô lập. Hình dạng hình học cụ thể được gán cho nỗi cô đơn làm cho cảm xúc trở nên hữu hình hơn và gợi ý một cảm giác cô lập có cấu trúc, có lẽ là cứng nhắc. Phong cách tối giản tổng thể và "khoảng trống giữa những đoạn ba câu"  (Phạm Xuân Nguyên đề cập) mời gọi người đọc diễn giải và phản ánh về những cảm xúc của riêng họ. Bản chất mở của các bài thơ khuyến khích một trải nghiệm đọc cá nhân và hướng nội. Việc sử dụng có chủ ý không gian và ngôn ngữ tối thiểu cho phép người đọc phóng chiếu những cảm xúc và trải nghiệm của riêng họ vào các bài thơ, khiến việc khám phá cảm xúc trở thành một quá trình hợp tác giữa nhà thơ và người đọc.

 

Hình tượng tôi trong bài thơ xuất hiện ngay từ chính nhan đề bài thơ một cách trực tiếp lột tả câu chuyện qua hình ảnh ngồi thu mình trên ghế với trời và mây. "Tôi": Sự xuất hiện của nhân vật "Tôi" ngay đầu bài thơ đặt trọng tâm vào trải nghiệm cá nhân, một đặc điểm thường thấy trong thơ trữ tình và cũng phù hợp với xu hướng khám phá thế giới nội tâm trong thơ Mai Văn Phấn. Hành động “thu mình”: gợi lên một cảm giác như ngại ngần khép mình vào trong. "Vẽ bầu trời" không chỉ là sự sáng tạo đơn thuần mà còn là biểu hiện của việc kiến tạo một thế giới tinh thần. Chi tiết đắt giá "Không có chỗ cho mây" mang tính biểu tượng cao  nếu mây thường tượng trưng cho những muộn phiền, lo toan, khó khăn trong cuộc sống, thì việc loại bỏ chúng khỏi bức vẽ bầu trời của mình cho thấy một khát khao mạnh mẽ về sự thanh lọc tâm hồn, tìm kiếm sự bình yên, trong sáng tuyệt đối. Đây là hành động có ý thức nhằm kiểm soát và bảo vệ không gian tinh thần khỏi những yếu tố tiêu cực. Bài thơ càng nhấn mạnh vẻ đẹp kín đáo, sự mong manh và nhu cầu được che chở, vun đắp cho thế giới nội tại, nơi mà sự bình yên không mây không chỉ là ước mơ mà còn là một sự lựa chọn. Việc dẫn dắt con người làm đề tài chính cho tác phẩm văn chương của mình là yếu tố quan trọng làm nên phong cách sáng tác đặc trưng của Mai Văn Phấn đào và xây một mảng kí ức che đậy của bản ngã tâm hồn.

 

Bãi tắm đông người

Tôi lặn xuống

Gặp cá cơm trắng

Bơi khoan thai

(Thả - Mai Văn Phấn )

Một lần nữa hình ảnh nhân vật “ tôi” lại  xuất hiện trong tác phẩm của ông với phương thức đặc biệt ẩn mình giữa đám đông. Bài thơ "Bãi tắm đông người" tập trung làm nổi bật đề tài về sự đối lập giữa cuộc sống bề mặt ồn ào, tấp nập và việc tìm kiếm sự bình yên, tĩnh lặng ở một chiều sâu khác. Mở đầu bằng hình ảnh "Bãi tắm đông người", bài thơ lập tức đặt người đọc vào không khí xô bồ, hối hả, đặc trưng cho sự náo nhiệt, thậm chí là ngột ngạt của đám đông hay cuộc sống hiện đại. Tuy nhiên, chủ thể trữ tình lại chọn một hành động dứt khoát: "Tôi lặn xuống". Động thái này không chỉ là di chuyển vật lý mà còn mang ý nghĩa biểu tượng cho sự rút lui khỏi bề mặt, đi sâu vào bên trong hoặc tìm đến một không gian khác biệt. Dưới mặt nước, điều mà "Tôi" tìm thấy là "cá cơm trắng / Bơi khoan thai" – hình ảnh của sự nhỏ bé, giản dị nhưng lại tràn đầy vẻ thảnh thơi, chậm rãi, hoàn toàn trái ngược với sự vội vã, chen chúc trên bãi cát. Qua đó, bài thơ thể hiện khát vọng tìm về sự tĩnh tại, an nhiên giữa dòng đời vạn biến, cho thấy rằng đôi khi, sự bình yên không nằm ở bề mặt phồn hoa mà ẩn chứa trong những điều giản đơn và ở những "chiều sâu" mà ta dám tìm đến.

 

Dặn em

Bông cúc ấy sắp tàn

Nhớ lấy màu hoa

Đan áo

(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

"Dặn em" gửi gắm một thông điệp sâu sắc về cách đối diện với sự phai tàn của cái đẹp và thời gian. Mở đầu bằng lời nhắn nhủ trìu mến "Dặn em", bài thơ giới thiệu hình ảnh quen thuộc nhưng đầy suy ngẫm: "Bông cúc ấy sắp tàn". Hoa cúc tàn là biểu tượng rõ nét cho sự hữu hạn, sự phôi pha của vẻ đẹp và khoảnh khắc. Tuy nhiên, thông điệp không dừng lại ở đó. Lời dặn tiếp theo – "Nhớ lấy màu hoa" – là hành động lưu giữ. Nó không phải là níu kéo bông hoa sắp tàn, mà là chắt lọc, ghi nhớ lại phần tinh tuý nhất, sống động nhất của nó trong ký ức. Và quan trọng hơn, ký ức đó không chỉ để cất giữ mà còn được sử dụng để "Đan áo". Hành động "đan áo" mang ý nghĩa sáng tạo, biến cái đẹp phù du của màu hoa thành một vật hữu ích, ấm áp và bền lâu. Như vậy, bài thơ không chỉ nói về sự tàn phai, mà còn về sức mạnh của ký ức và khả năng biến ký ức về cái đẹp đã qua thành một giá trị mới, một sự tồn tại khác mang tính liên tục và bền vững. Đó là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng về cách trân trọng khoảnh khắc, lưu giữ kỷ niệm và dùng chính những kỷ niệm ấy để dệt nên cuộc sống của mình.

 

Kiếp trước

Anh là đám cỏ lan ra lối đi

Em đi hài đỏ

Giẫm lên anh phải không?

(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

Tìm về hồi ức với bài thơ "Kiếp trước", hình ảnh con người được phác hoạ một cách ẩn dụ qua lăng kính của một tiền kiếp đầy ám ảnh. Nhân vật "Anh" tự nhận mình là "đám cỏ lan ra lối đi" – một hình ảnh bình dị, thấp kém, dễ bị bỏ qua và chịu sự tác động trực tiếp từ môi trường xung quanh. Việc là "đám cỏ trên lối đi" ngụ ý sự hiện diện một cách thụ động, chấp nhận vị trí ở dưới thấp, nơi dễ dàng bị chà đạp. Điều này khắc hoạ một con người ở kiếp này có thể mang trong mình cảm giác nhỏ bé, ít được chú ý, hoặc là người luôn chịu đựng, dễ bị tổn thương bởi người khác. Đối lập với hình ảnh đó là "Em" với đôi "hài đỏ", biểu tượng cho sự nổi bật, có lẽ là kiêu hãnh, tự tin và có bước đi rõ ràng trên con đường của mình. Hành động "giẫm lên" của "Em" đối với "Anh" (đám cỏ) thể hiện sự tương tác một chiều, nơi "Anh" là người chịu ảnh hưởng, thậm chí là tổn thương (dù vô tình hay hữu ý) từ bước chân của "Em". Câu hỏi nhẹ nhàng "Giẫm lên anh phải không?" cuối bài không chứa đựng sự oán trách, mà mang một nỗi niềm man mác, gợi lại một kỷ niệm sâu sắc, dai dẳng về vai trò và vị trí của cả hai trong một mối quan hệ. Như vậy, con người trong bài thơ, đặc biệt là nhân vật "Anh", được thể hiện như một cá thể khiêm nhường, luôn khắc ghi dấu ấn của người mình quan tâm (nhân vật "Em"), chấp nhận vị trí ở dưới thấp và mang trong mình ký ức day dứt về sự tác động (có thể là vô tình làm tổn thương) từ người kia.

 

Gặp gỡ

Em bay tôi cũng bay

Gợn mây mềm

Giữ hai ta lại

(Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

Mai Văn Phấn đi sâu vào khám phá một khía cạnh tinh tế và lãng mạn của sự kết nối giữa con người, vượt lên trên những ràng buộc vật chất hay lý trí thông thường. Hình ảnh "Em bay tôi cũng bay" không chỉ đơn thuần là sự đồng hành về mặt lý học, mà là một ẩn dụ tuyệt đẹp cho sự đồng điệu về tâm hồn, một trạng thái thăng hoa cảm xúc hay cùng chia sẻ một khát vọng bay bổng, tự do. Hai con người, hai cá thể riêng biệt, tìm thấy nhau ở một tần số rung động chung, cùng nâng nhau lên khỏi những bộn bề của mặt đất. Điều đặc biệt nằm ở "Gợn mây mềm" – một biểu tượng mong manh, phi vật chất, nhưng lại chính là yếu tố "Giữ hai ta lại". Nó không phải là sợi xích bền chặt hay lời thề non hẹn biển, mà là một thứ gì đó dịu dàng, nương nhẹ như mây, thể hiện bản chất của mối liên kết này: một sự gắn bó tự nguyện, dựa trên sự thấu hiểu, đồng cảm và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của nhau. "Gợn mây mềm" như vòng tay của định mệnh hoặc chính cảm xúc dịu dàng được chia sẻ, tạo nên một không gian chung, một chốn neo đậu bồng bềnh để hai tâm hồn đang "bay" không lạc mất nhau. Qua đó, bài thơ khắc hoạ con người trong khoảnh khắc gặp gỡ diệu kỳ, nơi họ không chỉ tìm thấy sự đồng điệu mà còn được giữ lại bên nhau bằng chính vẻ đẹp và sự tinh tế của mối liên kết nảy nở từ những rung động sâu thẳm nhất của trái tim.

Đề tài con người luôn là vấn đề được quan tâm một cách đặc biệt không chỉ riêng thơ ba câu Mai Văn Phấn. Nhưng qua góc độ nhìn nhận con người với ký ức cảm xúc về nỗi nhớ, nỗi đau, nỗi thất vọng vẫn là dòng chảy xuyên suốt trong các thi phẩm ba câu của ông. Thông qua đề tài này cảm thức thời gian như một lần nữa được khẳng định một cách rõ nét. Văn học là nhân học, từ cổ chí kim văn chương đều lấy con người làm đối tượng miêu tả phản ánh và thời gian là chất nguồn cho văn học thể hiện mình.

Chủ đề thiên nhiên đóng vai trò trung tâm và được thể hiện một cách đặc sắc, cô đọng trong thể thơ ba câu của Mai Văn Phấn, nổi bật trong tập "thả". Không dừng lại ở sự miêu tả đơn thuần, thiên nhiên trong thơ ông hiện lên như những lát cắt sống động của thực tại, được nắm bắt qua từng khoảnh khắc ngắn gọn, súc tích. Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ giản dị, chắt lọc để gợi tả những hình ảnh, âm thanh, cảm giác quen thuộc của tự nhiên, từ chiếc lá, hạt sương đến tiếng chim, tạo nên một bức tranh đa chiều, gần gũi và đầy sức sống. Vượt lên khỏi vẻ đẹp bề mặt, thiên nhiên trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn thường mang tầng nghĩa biểu tượng và gợi mở những suy ngẫm sâu sắc về thân phận con người, lẽ đời và vòng tuần hoàn của sự sống. Sự tương giao giữa con người và thiên nhiên không chỉ là quan sát mà còn là sự hòa hợp, thậm chí là hóa thân, nơi thiên nhiên trở thành tấm gương phản chiếu nội tâm và là không gian cho những chiêm nghiệm triết học, có thể thấy ảnh hưởng của tư duy Á Đông và triết lý Thiền qua cách nhà thơ tập trung vào khoảnh khắc hiện tại và sự tĩnh lặng. Hình thức thơ tối giản, cô đọng với việc ngắt dòng độc đáo không chỉ là đặc trưng thi pháp mà còn tăng cường sức gợi của hình ảnh tự nhiên, buộc người đọc phải chậm lại, suy ngẫm và tự lấp đầy ý nghĩa. Cuối cùng, thiên nhiên trong thơ ba câu Mai Văn Phấn còn là một không gian tâm linh, nơi con người tìm thấy sự kết nối thiêng liêng với vạn vật và vũ trụ, cảm nhận vẻ đẹp ẩn chứa và sự sống vĩnh cửu ngay trong những điều bình dị nhất.

"Thơ ba câu" của Mai Văn Phấn, vị trí trung tâm của con người không còn được duy trì một cách mặc định. Con người có thể xuất hiện, nhưng không phải lúc nào cũng là chủ thể duy nhất chi phối bài thơ. Thay vào đó, hình ảnh con người thường hiện ra một cách mờ hóa, phân mảnh, thậm chí chỉ là một lát cắt hành động hay một dáng hình lướt qua ("người đàn bà mang thai đi qua"). Con người dường như được đặt ngang hàng, là một phần tử trong hệ thống rộng lớn của tự nhiên và vũ trụ, không đứng trên hay tách biệt khỏi vạn vật. Mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên cũng không còn đơn thuần là sự hòa hợp lãng mạn mà mang tính bản thể hơn, đôi khi là sự tương tác bất ngờ, lạ hóa, chạm đến những bản năng nguyên thủy hay quy luật sinh tồn chung của tạo hóa.

Chính sự "phi trung tâm hóa" con người này cho phép Mai Văn Phấn khám phá những khía cạnh khác của sự tồn tại. Con người trong thơ ông không chỉ là chủ thể cảm xúc đơn thuần mà còn là đối tượng để chiêm nghiệm những vấn đề mang tính hiện sinh, triết lý. Thông qua những hình ảnh con người xuất hiện tối giản trong cấu trúc ba câu thơ cô đọng, bài thơ gợi mở về thân phận con người trong dòng chảy vũ trụ, về những kết nối vô hình giữa cá nhân và thế giới, hay về bản chất của sự sống và cái chết theo một cách nhìn mới mẻ, đôi khi bí ẩn và đa nghĩa. Sự khác biệt cốt lõi nằm ở chỗ: thơ truyền thống và Thơ mới thường đặt con người vào vị trí làm chủ, làm trung tâm để quan sát và cảm thụ thế giới, lấy tâm trạng con người làm nền tảng; còn Mai Văn Phấn, với "thơ ba câu", lại có xu hướng đặt con người vào vị thế là một phần tử trong hệ thống lớn hơn, khám phá con người qua những lát cắt tối giản và mối tương quan bất ngờ với tự nhiên để gợi mở những suy tư sâu sắc hơn về bản thể và sự tồn tại, mang đậm hơi thở của tư duy thi ca đương đại.

So sánh với các nhà thơ cùng viết hình thức thơ này, đối với Mai Văn Phấn con người thường xuất hiện một cách phiếm chỉ, mờ hóa hoặc phân mảnh. Họ không phải lúc nào cũng là một "cái tôi" rõ nét hay một nhân vật cụ thể với đầy đủ cảm xúc được bộc lộ trực tiếp. Thay vào đó, con người có thể là một hành động, một dáng hình thoáng qua ("người đàn bà mang thai đi qua"), hoặc một trạng thái tồn tại được gợi lên một cách gián tiếp. Con người được đặt như một phần tử hữu cơ trong hệ thống tự nhiên và vũ trụ. Mai Văn Phấn thường khám phá con người trong mối tương quan với vạn vật, xem xét bản năng, trạng thái tồn tại của con người như một phần của quy luật chung của tạo hóa (liên tưởng từ "cá động dục" đến chiêm nghiệm về sự sống). Hình ảnh con người (dù mờ nhạt) thường là điểm khởi phát cho những suy tư mang tính triết lý, hiện sinh sâu sắc. Cái tôi quan sát hay một hình ảnh con người được đưa ra không chỉ dừng lại ở việc bộc lộ cảm xúc cá nhân mà mở ra những câu hỏi về bản thể, sự tồn tại, mối liên hệ giữa cá nhân và cái vô cùng.

Qua thơ ba câu của Nguyễn Anh Nông lại cho ta thấy về một khía cạnh khác về đề tài này khi ông lột tả con người có thể xuất hiện rõ nét hơn với vai trò là chủ thể cảm xúc hoặc người quan sát. Dù vẫn cô đọng, thơ ông có thể trực tiếp hơn trong việc ghi nhận cảm xúc cá nhân, ký ức hay nỗi niềm gắn với con người ("Dịu dàng ký ức ngày trở lại / Ôm ngực nhớ cơn ho", "Tha hương bỏ mặc em..."). Mối liên hệ giữa con người và ngoại cảnh (thiên nhiên, cảnh vật) thường là sự gợi nhắc ký ức, kỷ niệm hoặc phản chiếu tâm trạng theo hướng trực tiếp hơn. Hình ảnh thiên nhiên có thể là tác nhân khơi gợi nỗi nhớ, nỗi buồn hay sự chiêm nghiệm mang tính cá nhân, gắn với một không gian, thời gian cụ thể (khói rơm thơm trên đồng gợi ký ức). Chủ đề con người thường neo đậu nhiều hơn vào những trải nghiệm cụ thể của đời sống cá nhân, ký ức (người lính, người xa xứ), hoặc những quan sát về con người đời thường. Con người được nhìn nhận trong bối cảnh những trải nghiệm thực tế, dù được cô đọng lại.

Sự khác biệt chính nằm ở chiều sâu và hướng khai thác chủ đề con người. Mai Văn Phấn có xu hướng sử dụng hình thức tối giản và việc "phi trung tâm hóa" con người để đẩy suy tư về phía những vấn đề bản thể, triết lý phổ quát, nhìn nhận con người như một yếu tố trong bức tranh vũ trụ rộng lớn. Ngược lại, Nguyễn Anh Nông, trong thơ ngắn của mình, dường như vẫn giữ con người ở vị trí là chủ thể cảm xúc và ký ức rõ nét hơn, sử dụng cảnh vật để gợi lên những nỗi niềm, suy ngẫm mang tính cá nhân, gắn với những trải nghiệm cụ thể của cuộc đời con người, dù vẫn tuân thủ nguyên tắc cô đọng của thơ ngắn.

Có thể nói, nếu Mai Văn Phấn tìm cách "hòa tan" con người vào dòng chảy vũ trụ để chiêm nghiệm về sự tồn tại, thì Nguyễn Anh Nông lại tập trung hơn vào việc khắc họa những "dấu vết" của con người (ký ức, cảm xúc, thân phận) được gợi lên từ tương giao với ngoại cảnh trong một khoảnh khắc cô đọng.

Với đề tài này, Mai Văn Phấn thể hiện một cách tiếp cận mang tính khái niệm và kiến tạo sâu sắc, không chỉ dừng lại ở việc bộc lộ cảm xúc hay miêu tả tâm trạng quen thuộc. Thay vì đặt cái tôi hay một nhân vật vào vị trí làm chủ đạo để chi phối toàn bộ bài thơ, Mai Văn Phấn có xu hướng nhìn nhận con người như một yếu tố ngang hàng với các sự vật, hiện tượng khác trong thế giới. Quá trình sáng tạo đòi hỏi ông phải tìm cách đặt con người vào một vị trí mới, không còn là "điểm nhìn" duy nhất mà có thể là "đối tượng" được quan sát, hoặc một "thành tố" trong một hệ thống tương tác rộng lớn hơn, phù hợp với tinh thần dân chủ hóa chủ thể trong thơ hiện đại.

Mai Văn Phấn có cách xây dựng mối liên hệ giữa con người và thế giới (đặc biệt là thiên nhiên) một cách đầy bất ngờ và mang tính bản thể. Ông không đi theo lối mòn của sự hòa hợp hay đối lập ước lệ, mà tìm kiếm những kết nối sâu sắc, đôi khi lạ lẫm, giữa bản năng, trạng thái của con người và quy luật tự nhiên. Việc đặt hình ảnh "tôi" muốn "nhốt" chim chào mào ngay sau khi miêu tả vẻ đẹp tự do của nó cho thấy một cái nhìn sắc sảo về bản năng chiếm hữu của con người đối diện với vẻ đẹp của tạo hóa. Quá trình này đòi hỏi một khả năng quan sát đồng thời cả nội giới và ngoại giới, và tìm ra những điểm giao thoa không lường trước được. Nhờ nền tảng tư duy triết học và mỹ học, Mai Văn Phấn sử dụng hình ảnh con người tối giản như một điểm tựa để mở ra những suy tư về bản thể, hiện sinh và các vấn đề triết lý phổ quát. Cái tôi xuất hiện trong thơ ông không chỉ là cá nhân đó mà còn là biểu tượng cho thân phận con người nói chung trong vũ trụ. Quá trình sáng tác là việc gài gắm những ý niệm sâu sắc vào lớp vỏ ngôn từ cô đọng, biến mỗi bài thơ ba câu thành một "nghệ thuật sắp đặt" ngôn từ, nơi hình ảnh con người (dù chỉ là một mảnh) góp phần kiến tạo nên tầng tầng lớp lớp ý nghĩa. Cách sáng tác về đề tài con người của Mai Văn Phấn trong thơ ba câu là sự kết hợp chặt chẽ giữa ý niệm về việc dịch chuyển vị thế con người, kỹ thuật cô đọng và phân mảnh hình ảnh, khả năng tạo dựng mối tương quan bất ngờ, và chiều sâu tư duy triết học, nhằm mang đến một cái nhìn mới mẻ, đa chiều và đầy tính gợi mở về con người trong bối cảnh hiện đại.

Con người trong thơ ba câu của ông thường không xuất hiện ở vị trí trung tâm làm chủ đạo, mà được đặt bình đẳng, thậm chí là hòa tan, như một phần tử trong dòng chảy rộng lớn của tự nhiên và vũ trụ. Hình ảnh con người thường rất tối giản, phân mảnh, hoặc chỉ hiện diện qua những lát cắt hành động, trạng thái mang tính gợi mở thay vì được mô tả đầy đủ tâm lý hay tính cách. Thông qua cấu trúc ba câu thơ cô đọng, mỗi mảnh ghép về con người đều được nạp đầy sức gợi, buộc người đọc phải liên tưởng và kiến giải để hình dung về thân phận, vị trí và những chiêm nghiệm sâu kín của con người trong bối cảnh đương  đại.

Hình tượng con người trong thơ ba câu Mai Văn Phấn là một hình tượng đã được "giải trung tâm" và "tái định nghĩa", trở thành một yếu tố quan trọng nhưng không đứng biệt lập, góp phần kiến tạo nên những tầng nghĩa đa chiều và mang đến một cái nhìn mới mẻ, giàu suy tưởng về sự tồn tại của con người trong thế giới.

 

2.2. Cảm thức thời gian từ quan niệm thơ Mai Văn Phấn

2.2.1. Quan niệm thời gian tuyến tính và tuần hoàn trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn

Trong khuôn khổ ngắn gọn của thơ ba dòng, Mai Văn Phấn đã thể hiện một cách tinh tế cả cảm thức về thời gian tuyến tính và tuần hoàn, không đối lập mà thường hoà quyện, tạo nên những vệt thời gian đa chiều và sâu sắc trong thế giới thơ ca độc đáo của ông.

Thơ ba dòng của Mai Văn Phấn, một thể nghiệm thi ca đương đại mang tính tối giản và đa nghĩa, không chỉ thu hút độc giả bởi hình thức cô đọng và hình tượng bất ngờ, mà còn ẩn chứa những quan niệm phức hợp về thời gian. Trong khuôn khổ kiệm lời của thể loại này, nhà thơ đã khéo léo lồng ghép và gợi mở cả hai dòng chảy thời gian tưởng chừng đối lập: thời gian tuyến tính và thời gian tuần hoàn, qua đó phản ánh sâu sắc cái nhìn về sự tồn tại và vũ trụ.

Thời gian tuyến tính trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn thường được thể hiện qua việc ghi nhận những khoảnh khắc độc đáo, sự chuyển đổi trạng thái, hoặc một diễn tiến nhất định. Dù bài thơ chỉ vỏn vẹn ba câu, nhà thơ vẫn có thể kiến tạo cảm giác về sự trôi chảy không ngừng của thời gian, về cái "đang diễn ra" và cái "sẽ tới". Các động từ chỉ hành động, sự biến đổi, hoặc sự xuất hiện bất chợt của một sự vật, hiện tượng tại một thời điểm cụ thể thường là những chỉ dấu quan trọng của dòng chảy tuyến tính. Ví dụ, một giọt sương tan, một chiếc lá rơi, hay một âm thanh vang lên đều neo giữ thời gian tại một khoảnh khắc duy nhất, không lặp lại. Quan niệm này nhấn mạnh tính đơn nhất, không thể đảo ngược của mỗi sự kiện, mỗi trải nghiệm trong dòng chảy đời sống.

Ngược lại, thời gian tuần hoàn lại len lỏi qua những hình ảnh thiên nhiên mang tính chu kỳ hoặc những chiêm nghiệm về sự lặp lại của các quá trình tự nhiên. Các mùa luân chuyển, sự sinh trưởng và lụi tàn của thực vật, vòng đời của loài vật, hay nhịp điệu ngày đêm... là những biểu hiện rõ nét của thời gian tuần hoàn trong thơ ông. Thông qua việc chọn lọc các hình tượng như chồi non, hoa nở, lá rụng, hay hành vi bản năng của loài vật gắn với sinh sản, nhà thơ gợi nhắc về quy luật tuần hoàn bất biến của tạo hóa. Thời gian ở đây không chỉ là sự trôi đi mà còn là sự trở lại, sự lặp lại vĩnh cửu của các chu kỳ tồn tại, mang ý nghĩa về sự tái tạo, sự tiếp nối và tính vĩnh hằng của vũ trụ. Điểm đặc sắc trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn nằm ở sự đan cài và tương tác giữa hai quan niệm thời gian này. Một khoảnh khắc tuyến tính (chiếc lá rơi) có thể mở ra suy ngẫm về chu kỳ của một mùa (mùa thu đến). Một hình ảnh mang tính tuần hoàn (con cá động dục) lại được đặt trong một khoảnh khắc cụ thể, gợi lên sự chiêm nghiệm tức thời, độc đáo về bản năng và sự sống. Nhà thơ không tách rời hai dòng thời gian mà cho chúng hòa quyện, bổ sung cho nhau, phản ánh một cái nhìn phức hợp về sự tồn tại: cuộc đời vừa là một dòng chảy tuyến tính với những khoảnh khắc không lặp lại của cá thể, vừa là một phần của những chu kỳ tuần hoàn vĩ đại, bất tận của vũ trụ.

Trong khuôn khổ giới hạn của ba dòng thơ, sự thể hiện quan niệm thời gian đòi hỏi kỹ thuật cô đọng và sức gợi phi thường. Mai Văn Phấn sử dụng hình tượng tối giản như những "mã hóa" thời gian, buộc độc giả phải dựa vào liên tưởng và nền tảng tri thức để cảm nhận được cả chiều dài tuyến tính và chiều sâu tuần hoàn được ẩn chứa. Sự thành công của ông nằm ở chỗ, chỉ với vài nét chấm phá, ông không chỉ tái hiện khoảnh khắc hay chu kỳ, mà còn gợi mở những suy tư triết lý về vị trí của con người trong dòng chảy thời gian kép ấy – vừa độc đáo trong khoảnh khắc hiện tại, vừa là một phần của vòng quay vĩnh cửu. Quan niệm này làm phong phú thêm tầng nghĩa cho thơ ông, vượt qua lối miêu tả thời gian thông thường để chạm đến những vấn đề bản thể sâu sắc.

Thời gian tuyến tính trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn thường được biểu đạt qua những khoảnh khắc "hiện tại" được nắm bắt một cách sắc nét, gợi mở về một dòng chảy liên tục. Mỗi bài thơ có thể xem như một "khung hình" ghi lại một điểm thời gian cụ thể, nhưng lại hàm chứa sự vận động ngầm của quá khứ và hé mở về tương lai. Ví dụ, hình ảnh một giọt sương tan không chỉ là một khoảnh khắc hiện tại mà còn gợi lên quá trình hình thành và sự biến mất tất yếu, một đường thẳng thời gian ngắn ngủi nhưng trọn vẹn. Sự nối tiếp các bài thơ trong một tập cũng có thể tạo nên một cảm giác về dòng chảy thời gian tuyến tính, khi những khoảnh khắc riêng lẻ liên kết với nhau, phác hoạ một hành trình, một trạng thái cảm xúc đang diễn tiến.

“Tác giả rất ít dùng đến từ thời gian “nhưng ý thức tiết kiệm thời gian để sáng tạo, để dành niềm vui cho bè bạn, cho những cuộc chơi thi sĩ và hơn cả là cho đời sống chung của xã hội con người hiện tồn trong các bài thơ”. Thơ Mai Văn Phấn cũng đã góp thêm một phương cách thể hiện trực diện với thời gian, song hành với thời gian, không tiếc nuối thời gian. Bởi mỗi sát – na trôi qua ông đã tận hiến nghiêm túc, có ý nghĩa trong sáng tạo nghệ thuật, trong hành xử đẹp với những con người sống bên cạnh mình, trong xã hội. Những cống hiến và khát vọng của Mai Văn Phấn xứng đáng được bạn đọc dành cho nhà thơ nhiều sự mến mộ. Nhìn chung, thơ ông  mang “căn tính” dân tộc. Xuyên suốt ý tưởng trong các tập thơ của ông là ước mơ tự do, bình đẳng và dân chủ của dân tộc Việt Nam. Đó là một khối cảm xúc cô đọng được biểu đạt bằng ngôn từ thông qua thế giới nội tâm, đồng thời hiển thị những bức tranh sống động về lịch sử, về xã hội đương thời. Mỗi tập thơ của ông đều chất chứa khát vọng của dân tộc, đồng thời là một cánh cửa mới được mở ra, giúp người đọc thưởng ngoạn thế giới. Nhiều người cho rằng, thơ cũng như con người Mai Văn Phấn góp phần giúp người đọc hiểu cuộc sống và nhiều tầng văn hóa.” [ 3; tr 6]

Tuy nhiên, thời gian tuần hoàn lại là một yếu tố nổi bật và mang đậm dấu ấn trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn. Ông thường xuyên khai thác những hình ảnh của thiên nhiên, nơi các chu kỳ lặp đi lặp lại của mùa, của ngày và đêm, của sự sinh trưởng và tàn lụi trở thành những biểu tượng mạnh mẽ cho tính tuần hoàn của thời gian. Một cành cây trơ trụi trong mùa đông không chỉ là một điểm cuối của một chu kỳ mà còn là sự chuẩn bị cho một mùa xuân mới. Hình ảnh mặt trăng tròn rồi lại khuyết, dòng sông chảy không ngừng, hay vòng đời của một loài hoa đều gợi lên sự lặp lại vĩnh cửu của thời gian, nơi sự kết thúc cũng là sự khởi đầu.

Điểm đặc biệt trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn là sự hoà quyện tinh tế giữa tuyến tính và tuần hoàn. Những khoảnh khắc hiện tại thường được nhìn nhận trong mối tương quan với vòng tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên. Một cảm xúc thoáng qua, một sự kiện nhỏ bé trong đời người có thể được đặt vào bối cảnh của sự lặp lại vô tận của thời gian vũ trụ, làm nổi bật cả sự hữu hạn và sự bất diệt. Ví dụ, một nỗi buồn có thể là một khoảnh khắc tuyến tính, nhưng nó cũng có thể gợi nhớ đến những nỗi buồn đã từng và sẽ còn lặp lại trong vòng quay của cuộc đời.

Sự biểu đạt thời gian trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà còn thể hiện một quan niệm sâu sắc về sự tồn tại. Thời gian không phải là một đường thẳng đơn điệu mà là một vòng tròn phức tạp, nơi quá khứ, hiện tại và tương lai đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Việc nắm bắt những khoảnh khắc hiện tại trong ý thức về sự tuần hoàn của thời gian giúp con người ý thức rõ hơn về vị trí của mình trong dòng chảy bất tận của vũ trụ, đồng thời trân trọng hơn những giá trị hiện tại.

Trong không gian nhỏ hẹp của hình thức thơ ba dòng, Mai Văn Phấn đã vẽ nên một bức tranh thời gian đa dạng và sâu sắc. Ông không chỉ ghi lại những khoảnh khắc tuyến tính mà còn khám phá những vòng tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên và tâm hồn con người, tạo nên một cảm thức thời gian vừa cụ thể vừa mang tính triết lý, góp phần làm nên sự độc đáo và sức hấp dẫn trong thế giới thơ ca của ông.

Bài thơ ba dòng "Đêm đầu năm" của Mai Văn Phấn:

 

Đêm đầu năm

Nghe tiếng sóng

Cầm ngọn nến

Soi về phía biển

(Thả - Mai Văn Phấn)

Dù ngắn gọn, đã mở ra một không gian cảm xúc và suy tư sâu lắng về thời gian và sự tồn tại. Khoảnh khắc "đêm đầu năm" được chọn làm điểm tựa, không chỉ xác định một vị trí cụ thể trên dòng chảy tuyến tính của lịch, đánh dấu sự khởi đầu của một chu kỳ mới, mà còn gợi lên một không gian tĩnh lặng, trang nghiêm, thường khơi gợi những hoài niệm và suy tưởng về quá khứ, tương lai. Trong khung cảnh tĩnh mịch ấy, âm thanh "tiếng sóng" vọng về từ xa không chỉ là một chi tiết hiện thực mà còn mang tính biểu tượng cho sự vĩnh cửu, cho nhịp điệu không ngừng của tự nhiên, một dòng chảy thời gian tuần hoàn, vô tận, đối lập với sự hữu hạn của một đêm cụ thể. Hành động "cầm ngọn nến" của chủ thể trữ tình tạo ra một điểm sáng nhỏ bé, mong manh trong đêm tối bao la, một biểu tượng cho sự hữu hạn của con người, của ý thức cá nhân trong vũ trụ rộng lớn. Việc hướng ngọn nến "soi về phía biển" không chỉ là một hành động vật lý mà còn mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc. Nó có thể là một sự hướng tới tương lai, một sự khám phá những điều chưa biết, như con người luôn hướng về phía chân trời. Đồng thời, nó cũng có thể là một sự suy tư về quá khứ, về những bí ẩn và sức mạnh vĩnh cửu của biển cả, chứng kiến bao đổi thay của thời gian. Sự tương tác giữa cái hữu hạn (ngọn nến, đêm đầu năm) và cái vô hạn (tiếng sóng, biển) tạo nên một cảm thức thời gian vừa tuyến tính (một đêm cụ thể) vừa tuần hoàn (nhịp điệu vĩnh cửu của biển), gợi lên sự nhỏ bé của con người trước vũ trụ bao la nhưng cũng khơi dậy khát vọng khám phá và kết nối với dòng chảy vĩnh hằng ấy.

Hơn thế nữa, sự đối lập giữa ánh sáng yếu ớt, hữu hạn của "ngọn nến" và bóng tối bao trùm của "đêm đầu năm" càng làm nổi bật sự mong manh của con người trước dòng chảy thời gian vô tận. Ngọn nến, với ánh sáng lung linh, có thể tượng trưng cho ý thức, cho sự tồn tại ngắn ngủi của cá nhân trong vũ trụ bao la. Hành động "soi về phía biển" như một nỗ lực của ý thức muốn vươn tới, muốn thấu hiểu cái vô tận, cái vĩnh hằng của thời gian, được biểu tượng hoá bằng hình ảnh biển cả. Tiếng sóng, âm thanh vọng về từ cõi xa xăm, vừa mang tính hiện thực của một đêm ven biển, vừa mang âm hưởng của thời gian vũ trụ, không ngừng vang vọng qua bao thế hệ. Nó là chứng nhân cho mọi biến đổi, mọi sự trôi chảy, một sự nhắc nhở về tính tương đối của mọi sự vật hiện tượng trong dòng chảy không ngừng của thời gian. "Đêm đầu năm", một khởi đầu mới, lại được cảm nhận qua âm thanh của cái vĩnh cửu, tạo nên một sự giao thoa đặc biệt giữa điểm bắt đầu và sự vô tận, giữa cá nhân và vũ trụ. Bài thơ không chỉ đơn thuần miêu tả một khoảnh khắc mà còn khơi gợi những suy tư mang tính mới về vị trí của con người trong dòng chảy thời gian, về sự hữu hạn đối diện với vô hạn, về khát vọng vươn tới và thấu hiểu những bí ẩn của thời gian và sự tồn tại.

Trong sự tĩnh lặng của "đêm đầu năm", khi mọi thứ dường như lắng đọng để chuẩn bị cho một chu kỳ mới, hành động "nghe tiếng sóng" trở nên đặc biệt ý nghĩa. Nó không chỉ là một cảm nhận thính giác mà còn là một sự lắng nghe vào nhịp điệu sâu thẳm của thời gian. Tiếng sóng, với sự đều đặn và sức mạnh tiềm ẩn, gợi lên một dòng chảy liên tục, không ngừng nghỉ, vượt qua mọi sự khởi đầu và kết thúc của con người. Nó là âm thanh của vĩnh cửu, của sự tuần hoàn bất tận của tự nhiên. Việc chủ thể trữ tình "cầm ngọn nến" trong đêm tối và hướng về phía biển khơi càng làm nổi bật sự nhỏ bé, đơn độc của con người trước sức mạnh và sự bao la của thời gian. Ngọn nến, dù là nguồn sáng duy nhất trong đêm, cũng chỉ là một đốm lửa hữu hạn, tồn tại trong một khoảnh khắc ngắn ngủi so với sự vĩnh cửu của biển cả. Hành động soi chiếu ấy có thể được hiểu như một khát vọng tìm kiếm, một nỗ lực thấu hiểu những bí ẩn của thời gian và sự tồn tại, một sự kết nối mong manh giữa cái hữu hạn và cái vô hạn. Bài thơ với ba dòng, đã gợi ra một bức tranh mang đậm tính mở, nơi con người đối diện với dòng chảy thời gian vừa tuyến tính (đêm đầu năm) vừa tuần hoàn (tiếng sóng, biển), cảm nhận sự hữu hạn của bản thân trong sự vô tận của vũ trụ, và khơi dậy những suy tư về ý nghĩa của sự khởi đầu và sự tiếp diễn không ngừng.

 

Mưa bụi

Bẻ củi khô

Bàn tay

Ấm

(Thả - Mai Văn Phấn)

Bài thơ ba dòng "Mưa bụi" của Mai Văn Phấn đã khắc hoạ một khoảnh khắc đời thường nhưng lại gợi lên những cảm xúc và suy tư sâu lắng về sự tương phản và sức mạnh tiềm ẩn. Bức tranh mở ra với hình ảnh "mưa bụi", một trạng thái thời tiết nhẹ nhàng, có phần se lạnh, tạo nên một không gian tĩnh lặng, có lẽ hơi ẩm ướt và có chút cô tịch. Trong bối cảnh ấy, hành động "bẻ củi khô" của chủ thể trữ tình hiện lên như một nỗ lực tìm kiếm sự ấm áp, một hành động cụ thể, mang tính vật chất và có phần khó nhọc (củi "khô" thường khó bẻ). Sự tập trung sau đó vào chi tiết "bàn tay" đặt người đọc vào một cảm nhận trực tiếp, cận cảnh về cơ thể. Và rồi, sự xuất hiện bất ngờ của từ "Ấm" ở dòng cuối cùng tạo ra một sự tương phản mạnh mẽ, một sự chuyển đổi trạng thái đầy ý nghĩa.

Luận điểm trung tâm của bài thơ nằm ở sự đối lập giữa cái lạnh lẽo, ẩm ướt của "mưa bụi" và sự khô khốc, khó khăn của việc "bẻ củi khô" với cảm giác "Ấm" lan toả từ "bàn tay". Sự ấm áp này không chỉ đơn thuần là một cảm giác vật lý mà còn mang theo nhiều tầng ý nghĩa ẩn dụ. Nó có thể là hơi ấm từ chính nỗ lực lao động, từ sự kiên trì vượt qua khó khăn (bẻ củi khô trong mưa bụi). Nó cũng có thể là hơi ấm của sự sẻ chia, của tình người (bàn tay có thể đang sưởi ấm cho ai đó, hoặc được sưởi ấm bởi một nguồn nhiệt nào đó). Trong bối cảnh "mưa bụi" có phần cô đơn, sự "Ấm" của bàn tay trở thành một điểm sáng, một dấu hiệu của sự sống, của năng lượng và của khả năng vượt lên hoàn cảnh.

Về cảm thức thời gian, bài thơ tập trung vào một khoảnh khắc hiện tại, diễn ra trong cơn "mưa bụi". Tuy nhiên, hành động "bẻ củi khô" gợi ý về một quá trình trước đó, một nỗ lực để có được nguồn nhiên liệu. Cảm giác "Ấm" ở cuối bài thơ không chỉ là kết quả tức thời của hành động mà còn có thể gợi nhớ về những hơi ấm đã từng có hoặc một hy vọng về hơi ấm sẽ tiếp tục. Sự ngắn gọn của ba dòng thơ đã cô đọng một quá trình từ lạnh lẽo, khó khăn đến ấm áp, tạo ra một sự chuyển biến nhỏ nhưng đầy sức nặng, cho thấy sức mạnh của ý chí và sự trân trọng những cảm xúc tích cực ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt. Bài thơ đã chứa đựng một câu chuyện nhỏ về sự nỗ lực và niềm hy vọng, được thể hiện qua một cảm nhận vật lý đơn giản nhưng sâu sắc.

Việc biểu đạt thời gian tuyến tính trong thể thơ cực ngắn đòi hỏi sự tinh tế đặc biệt. Mai Văn Phấn thường dùng các động từ cô đọng biểu thị hành động hoặc sự kiện mang tính nhất thời, không lặp lại, hoặc các trạng thái chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc chuyển tiếp. Chẳng hạn, thay vì miêu tả một quá trình dài, ông có thể chỉ chọn điểm khởi đầu hay kết thúc của một hành động, ngụ ý toàn bộ dòng chảy đã/đang/sẽ diễn ra. Cấu trúc câu ngắn gọn, dứt khoát cũng góp phần tạo cảm giác về sự tuyến tính, về một sự kiện vừa vặn khép lại trong ba dòng thơ, đánh dấu một mốc thời gian không thể quay lại. Đôi khi, sự đối lập giữa hai hình ảnh ở các thời điểm khác nhau trong bài thơ (dù không trực tiếp chỉ thời gian) cũng gợi lên sự chuyển dịch, tiến lên của dòng chảy tuyến tính.

Đối với thời gian tuần hoàn, ngoài việc sử dụng các hình ảnh thiên nhiên mang tính chu kỳ rõ rệt (mùa, ngày đêm, sinh trưởng), nhà thơ còn có thể gợi ý sự lặp lại thông qua các mô típ hành động, cảm xúc hoặc trạng thái mang tính phổ quát của con người và vạn vật, những điều đã và sẽ tiếp diễn qua nhiều thế hệ, nhiều chu kỳ sống. Cách ông nhìn nhận hành vi bản năng của loài vật hay quá trình sinh nở tự nhiên như một phần của sự sống nguyên thủy cũng là cách neo giữ ý niệm về sự lặp lại, về dòng chảy tuần hoàn của năng lượng vũ trụ. Thời gian tuần hoàn trong thơ ông không chỉ là vòng quay của tự nhiên mà còn là sự lặp lại tiềm ẩn trong kinh nghiệm sống và các quy luật tồn tại.

Sự thú vị nằm ở chỗ, Mai Văn Phấn thường không trình bày hai khái niệm thời gian này một cách tách bạch mà lồng ghép chúng một cách hữu cơ. Một khoảnh khắc tuyến tính có thể hàm chứa cả một chu kỳ tuần hoàn phía sau hoặc phía trước nó. Chẳng hạn, hình ảnh một bông hoa nở (một khoảnh khắc tuyến tính trong vòng đời của nó) lại lập tức gợi về chu kỳ của mùa xuân, của sự sống đang trỗi dậy (tính tuần hoàn). Hoặc một sự kiện mang tính cá nhân, nhất thời của con người (thời gian tuyến tính của một cá thể) lại được đặt trong bối cảnh rộng lớn của những quy luật vĩnh cửu, tuần hoàn của tạo hóa. Sự đan xen này tạo ra một trường liên tưởng phức tạp, thách thức người đọc phải vượt qua cách cảm nhận thời gian thông thường để thấy được mối liên hệ giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, giữa khoảnh khắc và vĩnh cửu.

Trong bối cảnh thơ ba dòng mang tính gợi mở cao, vai trò của người đọc trong việc kiến tạo và cảm nhận thời gian là vô cùng quan trọng. Nhà thơ chỉ đưa ra những manh mối, những "tín hiệu" về thời gian thông qua hình ảnh và ngôn ngữ tối giản. Chính độc giả, dựa trên trải nghiệm và tri thức của mình, sẽ kết nối các tín hiệu ấy để cảm nhận được dòng chảy tuyến tính của câu chuyện hoặc nhận ra mô hình tuần hoàn đang ẩn mình phía sau. Điều này biến việc đọc thơ không chỉ là tiếp nhận mà còn là một quá trình đồng sáng tạo, trong đó ý niệm về thời gian được hình thành và định hình trong tâm trí người đọc.

Quan niệm thời gian trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn là sự dung hợp đầy sáng tạo giữa dòng chảy tuyến tính của khoảnh khắc và sự lặp lại vĩnh cửu của chu kỳ. Bằng việc sử dụng ngôn ngữ cô đọng và hình tượng giàu sức gợi, nhà thơ không chỉ tái hiện các chiều kích thời gian mà còn dùng chúng như phương tiện để chiêm nghiệm về bản chất sự sống, về vị trí mong manh nhưng cũng đầy ý nghĩa của con người trong vũ trụ, góp phần định hình một thi pháp hiện đại và giàu chiều sâu triết lý.

Trong thơ ca Việt Nam, thời gian là một trong những đề tài trung tâm, được thể hiện qua nhiều góc nhìn và bút pháp khác nhau tùy thuộc vào quan niệm sáng tác của mỗi nhà thơ và đặc điểm của từng trào lưu văn học. Khi xem xét cách Mai Văn Phấn tiếp cận và biểu đạt thời gian trong thể loại "thơ ba dòng" độc đáo của mình, ta có thể thấy sự khác biệt rõ rệt so với quan niệm thời gian trong thơ truyền thống và phong trào Thơ mới.

Trong thơ truyền thống, thời gian thường được cảm nhận và biểu đạt theo những mô hình quen thuộc như sự trôi chảy tuyến tính của đời người và lịch sử, hay sự tuần hoàn của tự nhiên qua bốn mùa. Thời gian thường được lồng ghép để làm nền cho việc bộc lộ tâm trạng thi sĩ (buồn thời gian trôi nhanh, tiếc nuối quá khứ) hoặc để suy ngẫm về quy luật của tạo hóa và số phận con người. Tương tự, trong phong trào Thơ mới, thời gian là một nỗi ám ảnh lớn của cái tôi cá nhân, gắn liền với cảm thức về sự phù du của kiếp người, khát khao tận hưởng hiện tại, hoặc nỗi buồn về sự trôi chảy không ngừng. Dù mang tính chủ quan và hiện đại hơn thơ truyền thống, thời gian trong Thơ mới chủ yếu vẫn là phương tiện để diễn tả những cung bậc cảm xúc và suy tư của cá nhân, ít khi trở thành đối tượng chiêm nghiệm triết học về bản chất của chính nó trong những bài thơ ngắn.

Quan niệm sáng tác về thời gian của Mai Văn Phấn trong thơ ba dòng lại mang một sắc thái khác biệt và phức hợp hơn. Ông không chỉ dừng lại ở việc cảm nhận thời gian theo lối tuyến tính (dòng chảy trôi đi không trở lại) hay tuần hoàn (sự lặp lại của chu kỳ tự nhiên), mà có ý thức khám phá sự đan cài, tương tác và thậm chí là căng thẳng giữa hai dòng chảy thời gian này. Bằng cách đặt những khoảnh khắc độc đáo, nhất thời (tuyến tính) cạnh hoặc lồng ghép với những hình ảnh gợi ý sự lặp lại, tính chu kỳ (tuần hoàn) trong cùng ba dòng thơ cô đọng, ông tạo ra một cảm giác về thời gian vừa trôi đi vừa neo đậu, vừa hữu hạn vừa vĩnh cửu. Đây là một cái nhìn đa chiều, phản ánh sự phức tạp của thời gian trong cảm quan hiện đại. Cách ông thể hiện quan niệm thời gian cũng gắn liền với đặc trưng của thể thơ ba dòng. Hình thức cực ngắn buộc nhà thơ phải chắt lọc tối đa ngôn ngữ và hình ảnh, biến chúng thành những tín hiệu gợi mở về thời gian. Một hình ảnh thiên nhiên tối giản, một hành động nhỏ bé của con người hay vạn vật không chỉ miêu tả sự vật mà còn đồng thời chuyên chở ý niệm về thời gian (khoảnh khắc tức thời, hay một phần của chu kỳ lớn hơn). Quá trình sáng tác ở đây là sự kiến tạo có chủ đích, sử dụng cấu trúc và ngôn từ để gợi lên những tầng nghĩa về thời gian, buộc độc giả phải tham gia vào quá trình giải mã và cảm nhận. Thời gian không được "kể" ra mà được "gợi" lên từ sự sắp đặt tài tình của các yếu tố.

Sự khác biệt cốt yếu nằm ở chỗ, nếu thơ truyền thống và Thơ mới chủ yếu xem thời gian như một bối cảnh hay phương tiện để thể hiện tâm trạng và suy ngẫm về con người trong dòng chảy ấy, thì Mai Văn Phấn lại có quan niệm sáng tác coi thời gian là một đối tượng chiêm nghiệm bản thể. Ông đi sâu vào khám phá chính quy luật vận hành, bản chất phức hợp của thời gian (tính tuyến tính và tuần hoàn) và mối liên hệ nội tại của nó với sự tồn tại của vạn vật. Điều này mang đến cho thơ ba dòng của ông một chiều sâu triết lý đặc sắc, góp phần làm phong phú thêm cách thức biểu đạt một trong những khái niệm trừu tượng và quan trọng nhất trong văn học. Thời gian trong văn học và thời gian hiện thực dẫu sao vẫn có mối quan hệ tương trợ lẫn nhau và là cách thức nhận ra đặc trưng một khi hiện tượng phá vỡ thời gian diễn ra đẩy người đọc phải bám víu vào một trong hai nền tảng cho việc giải nghĩa những ô chữ bí mật mà tác giả giấu nhẹm trong văn chương của mình. Mai Văn Phấn ẩn thời gian của mình trong khoảnh khắc hiện hữu của hình tượng thiên nhiên qua mặt trời, trăng, mây, sao, gió,... hay chính cả sự ngả mình của những tán cây và cả khói sương chiều. Tất cả những điều ấy có thể nói lên được tài năng và sự chọn lọc của tác giả đã vượt ra ngoài khuôn khổ của thời gian có sẵn, dòng chảy của ông như được hình thành từ con chữ từ sự lắng đọng, từ độ trễ, từ cái đứng yên cũng đủ để thời gian trong thơ ba câu thể hiện mình.

 

2.2.2. Thời gian xóa nhòa ranh giới thực trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn

 Thời gian tâm lý trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn là một khía cạnh tinh tế và sâu sắc, thường được thể hiện một cách gián tiếp qua hình ảnh, cảm xúc và sự tương tác giữa chủ thể trữ tình với thế giới xung quanh. Với khuôn khổ ba câu, Mai Văn Phấn không miêu tả trực tiếp dòng chảy ý thức hay những biến động nội tâm phức tạp, mà thay vào đó, ông sử dụng những khoảnh khắc ngoại cảnh, những chi tiết nhỏ bé để gợi lên những trạng thái tâm lý khác nhau, nơi thời gian có thể co giãn, ngừng đọng hoặc trôi đi một cách chủ quan.

 Trong dòng chảy thi ca hiện đại, Mai Văn Phấn nổi lên như một nhà thơ có những cách tân táo bạo về cả hình thức và nội dung, đặc biệt qua thể loại thơ ba dòng. Không chỉ thể hiện quan niệm phức hợp về thời gian tuyến tính và tuần hoàn, thời gian trong thơ ông còn mang một chức năng đặc biệt: xóa nhòa hoặc làm mờ đi ranh giới giữa các lớp thực tại, khiến cái "thực" trở nên đa diện, lung linh và khó nắm bắt trong khuôn khổ nhận thức thông thường.

 Sự xóa nhòa này được kiến tạo thông qua nhiều phương thức biểu đạt tinh tế trong cấu trúc ba dòng thơ cô đọng. Một trong những cách thức hiệu quả là sự đối lập hoặc lồng ghép bất ngờ các hình ảnh thuộc về những bình diện thời gian và không gian khác nhau. Chỉ với vài từ ngữ, nhà thơ có thể đặt cạnh nhau một sự vật đang hiện hữu ở thực tại trước mắt với một ký ức xa xăm, một giấc mơ lướt qua, hay một suy tưởng mang tính viễn cảnh. Sự song hành đột ngột của các yếu tố từ quá khứ, hiện tại, tương lai, hoặc từ không gian vật lý và không gian tâm tưởng (ký ức, mộng tưởng) khiến cho ranh giới giữa "thực tại khách quan" và "thực tại chủ quan" trở nên mờ ảo. Cái đang diễn ra ở hiện tại có thể bỗng chốc tan biến hoặc bị chi phối bởi sức gợi của ký ức, và ngược lại, ký ức dường như sống động như đang diễn ra ở đây và lúc này.

 Hơn nữa, chính sự đan cài giữa thời gian tuyến tính và tuần hoàn cũng góp phần vào việc làm nhòa ranh giới thực. Khi một khoảnh khắc hiện tại (mang tính tuyến tính) được đặt trong bối cảnh của một chu kỳ tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên, tính "thực" và duy nhất của khoảnh khắc ấy dường như bị làm loãng đi, trở thành một điểm nhỏ bé trong dòng chảy vô tận. Ngược lại, sự sống động của một chu kỳ tuần hoàn có thể khiến cho cái thực tại tuyến tính hiện tại mang cảm giác lặp lại, không còn hoàn toàn mới mẻ và độc lập. Sự tương tác này tạo ra một cảm giác về thời gian như một dòng chảy liên tục biến đổi, nơi các mốc phân định thực tại không còn rõ ràng.

 Trong nhiều bài thơ ba dòng, ta có thể thấy sự ghép nối đột ngột các hình ảnh thuộc về những khoảnh khắc thời gian khác nhau (quá khứ - hiện tại - tương lai) hoặc các không gian thực tại khác nhau (thế giới vật lý - ký ức - giấc mơ - suy tưởng). Ví dụ, một dòng thơ miêu tả cảnh vật đang diễn ra, dòng thơ tiếp theo có thể gợi về một ký ức gắn với cảnh ấy từ rất lâu, và dòng cuối cùng là một suy tưởng vượt thoát khỏi cả hai bình diện đó. Sự kết hợp này khiến cho ranh giới giữa "cái đang tồn tại ở đây và lúc này" với "cái đã từng tồn tại" hoặc "cái chỉ tồn tại trong tâm tưởng" bị lu mờ, tạo cảm giác thực tại hiện tại không hoàn toàn rắn chắc. Mai Văn Phấn thường lồng ghép hai loại thời gian. Điều này cũng có thể dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới thực. Ví dụ, khi một sự kiện mang tính cá nhân, nhất thời (thực tại tuyến tính của cá thể) được miêu tả bằng ngôn ngữ gợi về tính vĩnh cửu, lặp lại của chu kỳ tự nhiên (thời gian tuần hoàn), tính "thực" và duy nhất của sự kiện đó có thể bị suy giảm, mang màu sắc siêu thực hoặc biểu tượng. Ngược lại, một hình ảnh chu kỳ quen thuộc (mặt trời mọc/lặn, lá rụng) khi được nhìn bằng một góc độ đột ngột, bất ngờ trong ba dòng thơ, có thể khiến cái "thực" của quy luật tự nhiên trở nên lạ lẫm, như lần đầu tiên được cảm nhận.

 

 Ngăn cách

 Hoàng hôn vây quanh sân

 Đàn chim

 Bên ngoài đập cánh

 (Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

 Yếu tố thời gian xuất hiện cụ thể trong bài thơ “hoàng hôn”, đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra hình ảnh dòng chảy cảm xúc. Hoàng hôn không chỉ đơn thuần là bối cảnh cho bức tranh mà còn là một lực lượng tích cực góp phần làm lu mờ các phân định rạch ròi của thực tại. Hoàng hôn là thời khắc chuyển tiếp tự nhiên, nơi ánh sáng ban ngày mờ dần và bóng tối bắt đầu bao trùm. Về mặt vật lý, điều này trực tiếp dẫn đến sự giảm thiểu khả năng quan sát rõ nét các chi tiết và ranh giới. Các đường nét của "sân" và khu vực "bên ngoài" trở nên kém sắc nét, khoảng cách và chiều sâu không gian trở nên mơ hồ hơn. Ranh giới vật lý phân chia "trong" và "ngoài" trở nên ít rõ ràng dưới ánh sáng nhá nhem. Đây là sự xóa nhòa ranh giới thực ở cấp độ thị giác và không gian. Hoàng hôn là biểu tượng cho ranh giới giữa ngày và đêm, giữa sự sống động và sự tĩnh lặng, giữa thế giới hiện hữu rõ ràng và thế giới của bóng tối, của tiềm thức hoặc điều chưa biết. Việc bài thơ được đặt vào đúng thời khắc giao thoa này tăng cường cảm giác về một trạng thái "ở giữa", không hoàn toàn thuộc về bên này hay bên kia. Điều này cộng hưởng mạnh mẽ với chủ đề "Ngăn cách", một trạng thái không trọn vẹn, nằm lưng chừng giữa kết nối và chia lìa. Thời gian chuyển tiếp của hoàng hôn làm nổi bật và khuếch đại tính mơ hồ, lưỡng diện của sự ngăn cách. Hoàng hôn thường đi kèm với những trạng thái cảm xúc và suy tư mang tính nội tâm. Ánh sáng yếu dần dễ khiến con người hướng vào bên trong. Cảm giác "Ngăn cách" được đặt trong không khí hoàng hôn trở nên sâu lắng và mang tính chủ quan hơn. Thực tại bên ngoài (đàn chim đập cánh bên ngoài) được cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn qua lăng kính của trạng thái tâm lý bị "ngăn cách". Điều này dẫn đến sự xóa nhòa ranh giới giữa thực tại khách quan (cảnh vật) và thực tại chủ quan (cảm giác, tâm trạng). Cảnh vật dường như bị nhuốm màu cảm xúc, và cảm xúc được vật chất hóa thông qua cảnh vật, khiến ranh giới giữa thế giới bên ngoài và thế giới nội tâm trở nên mờ nhạt.

 Như vậy, trong bài thơ "Ngăn cách", hoàng hôn không chỉ đánh dấu một thời điểm cụ thể mà còn là một yếu tố tích cực làm tan chảy sự phân định rõ ràng của thực tại. Nó làm nhòe đi ranh giới vật lý, biểu tượng hóa trạng thái lưỡng lự, và góp phần hòa trộn thực tại khách quan với cảm giác chủ quan về sự ngăn cách, khiến cho bức tranh thơ trở nên đa nghĩa và đầy ám ảnh về những rào cản vô hình trong cuộc sống.

 Ngôn ngữ và hình tượng trong thơ Mai Văn Phấn cũng hỗ trợ đắc lực cho quá trình xóa nhòa ranh giới thực. Nhà thơ thường sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi, đa nghĩa, và đôi khi mang tính siêu thực hoặc tượng trưng, khiến cho sự vật không chỉ là chính nó ở bình diện thực tại mà còn mở ra những liên tưởng đến các bình diện ý nghĩa khác, các trạng thái tồn tại khác. Việc kết hợp các yếu tố tưởng chừng phi lý hay không liên quan trong ba dòng thơ tạo ra một không gian thơ nơi các quy luật logic và phân định thực tại thông thường bị thách thức.

 

 Đánh chiêng

 Chiếc dùi

 Cuốn áo cũ

 Tiếng ngân mồ hôi người

 (Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

 Chính cấu trúc ba dòng thơ tối giản đã tạo điều kiện cho sự xóa nhòa này, bằng cách đặt những mảnh ghép từ các bình diện khác nhau vào cận kề nhau mà không có lời giải thích hay liên kết rõ ràng. Điều này buộc người đọc phải tự kết nối, và trong quá trình đó, trải nghiệm một thực tại không còn đơn giản, phẳng lặng mà là một dòng chảy phức hợp, nơi các ranh giới giữa quá khứ - hiện tại, thực - ảo, bên trong - bên ngoài liên tục được làm mờ và tái định nghĩa. Qua thủ pháp này, Mai Văn Phấn không chỉ thể hiện một cái nhìn hiện đại về thời gian mà còn gợi mở những suy tư sâu sắc về bản chất phù du và đa tầng của thực tại, về cách nhận thức của con người trước dòng chảy vĩnh cửu của tồn tại.

 Sự mờ ảo ranh giới thực được thể hiện qua việc lồng ghép nhiều bình diện thời gian khác nhau trong cùng ba dòng thơ ngắn ngủi. Hình ảnh "áo cũ" ở dòng thứ hai lập tức đưa người đọc về với thời gian quá khứ, gợi lên lịch sử, dấu vết của người đã sử dụng chiếc áo, những câu chuyện gắn với nó. Tiếp theo, hành động "Đánh chiêng" và hình ảnh "mồ hôi người" ở dòng thứ ba lại neo chặt bài thơ vào thời gian hiện tại, là khoảnh khắc của nỗ lực vật lý tức thời và sự gắng sức đang diễn ra. Tuy nhiên, "Tiếng ngân" – kết quả của hành động – lại là yếu tố tồn tại vượt ra ngoài khoảnh khắc hiện tại, kéo dài sang tương lai gần như một dư âm, sự vang vọng.

 Chính sự sắp đặt tài tình này đã tạo ra một sự đồng hiện của các lớp thời gian: quá khứ (áo cũ), hiện tại tức thời (đánh, mồ hôi), và sự kéo dài của hiện tại vào tương lai gần (tiếng ngân) cùng tồn tại trong khoảnh khắc cảm nhận. Thời gian không còn là dòng chảy tuyến tính đơn giản mà là một cấu trúc đa lớp, nơi các điểm mốc dường như chồng lấn lên nhau. Sự tương tác này làm tan chảy cảm giác về một dòng chảy thời gian rạch ròi, khiến ranh giới giữa "cái đã qua", "cái đang là", và "cái có thể đến" trong tức khắc trở nên lu mờ.

 Sự chồng lấn thời gian này còn lan tỏa và góp phần xóa nhòa nhiều ranh giới thực tại khác. Mối liên hệ giữa "mồ hôi người" (biểu trưng cho nỗ lực, nguyên nhân, thuộc về thực tại vật lý và cá nhân ở hiện tại) với "tiếng ngân" (biểu trưng cho kết quả, sự lan tỏa, thuộc về thực tại âm thanh và có tính cộng hưởng trong tương lai gần) đã làm mờ đi ranh giới nhân quả thông thường. Nỗ lực và thành quả dường như đồng hiện trong khoảnh khắc cảm nhận. Tương tự, chiếc dùi (vật thể vô tri) được cuốn áo cũ (dấu vết quá khứ, hơi ấm con người) khiến ranh giới giữa vật thể và lịch sử/con người trở nên mờ đi, vật thể mang linh hồn và ký ức của chủ thể.

 Qua bài thơ "Đánh chiêng", Mai Văn Phấn đã cho thấy khả năng bậc thầy trong việc sử dụng thời gian như một công cụ thi pháp. Bằng cách lồng ghép và đối chiếu các bình diện thời gian khác nhau trong cấu trúc thơ ba dòng cực kỳ cô đọng, ông không chỉ tạo ra cảm giác về một dòng chảy thời gian phi tuyến tính mà còn qua đó làm nhòa đi nhiều ranh giới thực tại khác như vật chất/phi vật chất, nguyên nhân/kết quả, cá nhân/lịch sử. Điều này không chỉ làm tăng chiều sâu và tính đa nghĩa cho bài thơ mà còn minh chứng cho quan niệm nghệ thuật hiện đại của ông về một thực tại đa lớp, phức tạp và luôn dịch chuyển trong dòng chảy của thời gian.

 Ranh giới thực ẩn hiện bằng thủ pháp xử lý thời gian và hình ảnh, Mai Văn Phấn không chỉ thể hiện một cái nhìn hiện đại về sự phức tạp của thực tại (không chỉ là cái nhìn thấy mà còn là cái cảm thấy, cái nhớ, cái mơ), mà còn mời gọi độc giả chiêm nghiệm sâu sắc hơn về bản chất của ký ức, vai trò của thời gian trong việc định hình nhận thức, và mối liên hệ giữa các tầng lớp tồn tại. Đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên chiều sâu tư tưởng và tính đa nghĩa, đầy ám ảnh trong thơ ba dòng của ông.

 Một trong những biểu hiện rõ rệt của thời gian tâm lý trong thơ ông là sự cô đọng của ký ức và hoài niệm. Một hình ảnh thoáng qua, một âm thanh bất chợt có thể khơi gợi cả một dòng chảy ký ức trong tâm trí chủ thể trữ tình, làm mờ đi ranh giới giữa quá khứ và hiện tại. Thời gian tâm lý ở đây không tuân theo trật tự tuyến tính mà đan xen, chồng chất, tạo nên những vệt thời gian riêng tư và đậm dấu ấn cá nhân. Ví dụ, một mùi hương quen thuộc có thể đưa tâm trí trở về một thời điểm đã xa, làm sống lại những cảm xúc tưởng chừng đã ngủ yên.

 Bên cạnh đó, sự kéo dài hoặc rút ngắn thời gian theo trạng thái cảm xúc cũng là một đặc điểm nổi bật. Trong những khoảnh khắc cô đơn, chờ đợi hoặc đau khổ, thời gian dường như đóng băng, mỗi giây phút trôi qua nặng nề và chậm chạp. Ngược lại, khi đắm chìm trong niềm vui, sự say mê hoặc những trải nghiệm tích cực, thời gian lại trôi đi vội vã, không để lại dấu vết. Mai Văn Phấn thường sử dụng những hình ảnh tĩnh lặng, vắng vẻ để gợi lên sự lay động thời gian tâm lý trong những trạng thái tiêu cực, và những hình ảnh động, tươi sáng để diễn tả sự trôi nhanh của thời gian trong những cảm xúc tích cực.

 Sự gián đoạn và đứt gãy trong cảm nhận thời gian cũng có thể được tìm thấy trong thơ ông. Một sự kiện bất ngờ, một cảm xúc mạnh mẽ có thể làm gián đoạn dòng chảy thời gian tâm lý, tạo ra những khoảng trống, những vết nứt trong ý thức. Thời gian không còn là một dòng chảy liên tục mà trở thành những mảnh vỡ, những khoảnh khắc rời rạc, phản ánh sự xáo trộn trong tâm hồn.

 Ngoài ra, sự mơ hồ giữa thực tại và ảo ảnh, giữa giấc mơ và tỉnh thức cũng góp phần tạo nên một không gian thời gian tâm lý đặc biệt trong thơ Mai Văn Phấn. Trong những trạng thái lim dim, giữa ý thức và vô thức, cảm nhận về thời gian trở nên nhoè nhoẹt, không còn rõ ràng. Quá khứ, hiện tại và tương lai có thể hoà lẫn vào nhau, tạo ra những trải nghiệm thời gian phi tuyến tính và mang đậm tính chủ quan.

 Thời gian tâm lý trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn không được diễn tả một cách trực diện mà được khéo léo gợi lên qua những chi tiết ngoại cảnh, những hình ảnh biểu tượng và những trạng thái cảm xúc. Với sự cô đọng và hàm súc của thể thơ, ông đã tạo ra một không gian nội tâm sâu sắc, nơi thời gian không còn là một thước đo khách quan mà trở thành một dòng chảy biến ảo, phản ánh những phức tạp và tinh tế của tâm hồn con người. Họ có thể bỏ qua thời gian đứng yên vượt qua dòng chảy để cảm nhận thơ Mai Văn Phấn theo một hướng đào và mở.

 

 

 

 CHƯƠNG 3:  CẢM THỨC THỜI GIAN TRONG THƠ BA CÂU MAI   VĂN PHẤN NHÌN TỪ MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

 

 3.1. Ngôn từ chỉ thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn

 “Thơ là một hình thức sáng tác văn học đầu tiên của loài người. Chính vì vậy mà có một thời gian rất, dài thuật ngữ thơ được dùng chỉ chung cho văn học. Thơ có lịch sử lâu đời như thế nhưng để tìm một định nghĩa thể hiện hết đặc trưng bản chất của nó cho việc nghiên cứu thơ ngày nay thì thật không dễ.” [10, tr 1]

 “Thơ Mai Văn Phấn có sự hòa hợp với thời gian, thích nghi với sự vận hành của thời gian, chủ động đón đợi thời gian, bình tĩnh chờ thời gian đến, cảm nghiệm, trải nghiệm thời gian trong từng cung bậc cảm xúc của con người. Nhà thơ không sợ hãi trốn chạy khỏi thời gian, cũng không chạy đua hay đố kỵ với thời gian, không tiếc nuối thời gian. Thi sĩ thấy rõ mình đang hành xử đúng mực với từng sát- na thời gian, chiêm nghiệm, trải nghiệm; chơi với nó một cách thú vị như trò xúc xắc. Thời gian trong thơ ông chính là con người!” [10, tr 4]

 Trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn, "cảm thức thời gian" không phải là một dòng chảy tuyến tính, dễ đoán mà là một phức thể được dệt nên từ sự tương giao, chồng xếp của các lớp thời gian, thường được biểu đạt đầy ám ảnh và tinh tế thông qua việc sử dụng ngôn từ và ngữ pháp. Đặc trưng tính cực ngắn của thể thơ ba dòng không giới hạn khả năng biểu đạt này, ngược lại, nó buộc nhà thơ phải chưng cất ngôn ngữ đến mức tối đa, khiến mỗi lựa chọn từ ngữ hay cấu trúc ngữ pháp đều trở nên đắt giá và đa nghĩa trong việc định hình cảm nhận về thời gian của người đọc. Có những bài thơ Mai Văn Phấn chỉ gói gọn trong năm chữ nhưng khả năng gợi tả bề chìm lại đến trăm chữ giải nghĩa mới thành.

 Có thể thấy sự thành công trong việc lựa chọn và đặt để từ ngữ chỉ thời gian và trạng thái thời gian. Bên cạnh các từ ngữ trực tiếp như "hôm qua", "bây giờ", "sắp", "vẫn", "chợt", "bỗng", nhà thơ còn khai thác triệt để những từ ngữ mang tính biểu tượng cao, tự thân đã hàm chứa ý niệm về quá trình và sự biến dịch của thời gian. Chẳng hạn, các danh từ chỉ thực thể có vòng đời ngắn ngủi như "giọt sương", "cánh hoa" gợi cảm giác về sự phù du, khoảnh khắc vụt tan; trong khi "hạt mầm", "rễ cây" lại mang ý niệm về sự khởi đầu, âm thầm sinh sôi theo thời gian. Việc đặt cạnh nhau những biểu tượng của sự sống (khởi đầu) và sự tàn lụi (kết thúc) trong cùng một bài thơ ba dòng tạo ra một trường lực mạnh mẽ về cảm thức thời gian trôi chảy, xoay vần. Đôi khi, chỉ một từ ngữ chỉ trạng thái như "còn" sau một hình ảnh gợi sự mất mát cũng đủ sức neo giữ ký ức về một thời đã qua, tạo ra sự giằng xé giữa hiện tại và quá khứ.

 Cộng hưởng với đó yếu tố ngữ pháp, đặc biệt là thì, thể và dạng thức động từ, đóng vai trò kiến tạo nên nhịp điệu và cảm giác về thời gian trong thơ ông. Trong tiếng Việt, việc sử dụng các chữ như "đã", "đang", "sẽ" là phương tiện chính để xác định thời gian và thể của hành động. Mai Văn Phấn sử dụng chúng một cách có ý thức để định vị sự việc trong dòng chảy quá khứ, hiện tại hay tương lai, hoặc nhấn mạnh sự tiếp diễn ("đang"), sự hoàn thành ("đã"), hay khả năng xảy ra ("sẽ"). Tuy nhiên, một thủ pháp đặc sắc, thường thấy trong thơ ba dòng của ông và thơ hiện đại nói chung, là việc lược bỏ tối đa các hạt chỉ thì. Sự vắng mặt của "đã", "đang", "sẽ" khiến cho hành động hay trạng thái được miêu tả thoát ly khỏi một mốc thời gian cụ thể, trở nên phiếm định hoặc mang tính vĩnh cửu trong khoảnh khắc được thơ hoá. Lúc này, trọng tâm không nằm ở việc "khi nào" sự việc xảy ra, mà là "chính sự việc đó" hoặc "trạng thái đó" tồn tại như một chân lý cô đọng, một biểu tượng vượt thời gian. Hơn nữa, việc lựa chọn giữa động từ chỉ hành động (gợi sự dịch chuyển, biến đổi trong thời gian) và động từ chỉ trạng thái (gợi sự tồn tại tĩnh tại, bền vững) cũng góp phần tạo nên những sắc thái cảm thức thời gian đa dạng. Một hành động vụt qua có thể được ghi lại bằng động từ dứt khoát, trong khi một trạng thái kéo dài lại dùng động từ mang tính tồn tại.

 Đặc biệt quan trọng là sự tương tác và đối sánh ngữ pháp giữa ba dòng thơ. Chính cấu trúc độc đáo này mang lại khả năng biểu đạt thời gian phân mảnh và đa chiều. Nhà thơ có thể đặt một hình ảnh quá khứ ở dòng đầu, một hành động đang diễn ra ở dòng giữa, và một suy ngẫm mang tính chiêm nghiệm về dòng chảy thời gian ở dòng cuối. Sự chuyển dòng đột ngột về mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp tạo ra những cú "nhảy cóc" về thời gian trong nhận thức của người đọc. Việc kết thúc dòng thứ hai bằng một động từ ở thể hoàn thành "đã xong" và bắt đầu dòng thứ ba bằng một trạng thái ở hiện tại tiếp diễn "vẫn đang" có thể tạo ra cảm giác về sự tiếp nối không ngừng nghỉ, về cái đã qua vẫn còn ảnh hưởng đến cái đang hiện hữu. Hoặc ngược lại, việc đặt một hình ảnh sống động ở hiện tại (có thể dùng "đang") ở dòng đầu và kết thúc bằng một trạng thái tĩnh tại (dùng động từ trạng thái, không hạt chỉ thì) ở dòng cuối có thể gợi cảm giác thời gian như ngừng lại, cô đặc toàn bộ bài thơ vào một khoảnh khắc vĩnh cửu. Cấu trúc này khuyến khích người đọc tự mình nối kết, lấp đầy những khoảng trống thời gian, qua đó cảm nhận sự chồng xếp, đan xen của quá khứ, hiện tại và tương lai trong tâm tưởng chủ thể trữ tình.

 Với khuôn khổ cực kỳ cô đọng chỉ ba dòng, mỗi từ, mỗi cấu trúc đều được chắt lọc tối đa, trở thành phương tiện hiệu quả để nhà thơ biểu đạt những lát cắt, những lớp lang phức tạp của thời gian. Chính sự kiệm lời của thể thơ đã biến các lựa chọn ngôn ngữ thành điểm nhấn quan trọng, định hình nhận thức của người đọc về dòng chảy (hoặc sự ngưng đọng) của thời gian trong bài thơ. Một trong những phương thức quan trọng là việc sử dụng các từ ngữ trực tiếp hoặc gián tiếp gợi về thời gian. Bên cạnh những từ chỉ thời gian mang tính điểm như "khoảnh khắc", "chốc lát", hay các từ chỉ quá trình như "đang", "sắp", "vẫn", "rồi", Mai Văn Phấn còn khéo léo cài cắm các từ ngữ chỉ sự vật, hiện tượng tự thân đã chứa đựng quá trình thời gian. Đó có thể là "hạt mầm" mang ý niệm về sự khởi đầu và lớn lên, "lá khô" gợi sự lụi tàn và kết thúc, hay "vệt nắng xiên" neo giữ thời gian ở một buổi cụ thể trong ngày. Sự xuất hiện hoặc đối sánh những từ ngữ này trong ba dòng thơ ngắn tạo nên những liên tưởng, dịch chuyển tinh tế về dòng chảy tự nhiên, chu kỳ hay trạng thái của thời gian.

 Ngữ pháp đóng vai trò then chốt trong việc định hình cảm thức thời gian. Mặc dù tiếng Việt không có hệ thống biến đổi động từ phức tạp theo thì, việc sử dụng các hạt như "đã", "đang", "sẽ" hay "vẫn còn" có sức mạnh biểu đạt rất lớn trong thơ ba dòng. "Đã" neo bài thơ vào ký ức, "đang" giữ chặt ở hiện tại, còn "sẽ" mở ra cánh cửa tương lai. Tuy nhiên, một đặc điểm nổi bật trong thơ cô đọng là việc lược bỏ các hạt chỉ thì, tạo ra một cảm giác về "thời gian phiếm định" hoặc vượt thoát khỏi sự ràng buộc tuyến tính. Hành động hay trạng thái được miêu tả dường như tồn tại ở mọi thời điểm, hoặc chỉ tập trung vào bản chất cốt lõi, không bị chi phối bởi quá khứ hay tương lai. Bên cạnh đó, việc lựa chọn giữa động từ chỉ hành động (gợi sự chuyển động, diễn tiến trong thời gian) và động từ chỉ trạng thái (gợi sự tĩnh tại, tồn tại bền vững) cũng góp phần tạo nên những sắc thái khác nhau cho cảm thức thời gian.cấu trúc ba dòng thơ là một yếu tố ngữ pháp đặc thù cho phép nhà thơ tạo ra hiệu ứng thời gian độc đáo thông qua sự tương tác và đối sánh giữa các dòng. Mỗi dòng thơ có thể chứa đựng một lát cắt thời gian riêng biệt (quá khứ - hiện tại - tương lai), một trạng thái khác nhau của cùng một sự vật theo thời gian, hoặc một mối quan hệ nhân quả/tiếp nối được ngưng đọng. Việc đặt các yếu tố ngôn ngữ và hình ảnh gợi thời gian ở những vị trí chiến lược trong ba dòng tạo nên những cú "nhảy cóc", những lớp lang thời gian chồng xếp lên nhau, buộc người đọc phải tự lấp đầy những khoảng trống và cảm nhận dòng chảy thời gian không theo quy luật thông thường, mà mang tính chủ quan, phân mảnh và giàu suy ngẫm, phản ánh rõ nét phong cách và cảm thức thời gian đặc trưng trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn.

 Thông qua việc sử dụng có ý thức và sáng tạo các từ ngữ chỉ thời gian và trạng thái, khai thác hiệu quả thì, thể động từ (bao gồm cả việc lược bỏ hạt chỉ thì), và đặc biệt là vận dụng linh hoạt cấu trúc tương tác giữa ba dòng thơ, Mai Văn Phấn đã xây dựng nên một "cảm thức thời gian" rất riêng trong thơ ba dòng của mình. Đó là một cảm thức không đơn thuần là đo đếm mà là sự trải nghiệm sâu sắc về khoảnh khắc phù du, về sự biến dịch không ngừng, và về khả năng ký ức neo giữ hay biến đổi dòng chảy thời gian, tạo nên những tầng nghĩa phức điệu và ám ảnh về sự tồn tại của con người trong vũ trụ thời gian.

 Thể loại thơ ba câu độc đáo của Mai Văn Phấn, ngôn từ đóng vai trò cốt lõi, là yếu tố định hình nên phong cách và chuyên chở những tầng nghĩa phức điệp. Ngôn từ trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn mang tính tối giản và cô đọng đến mức cao độ. Số lượng từ trong mỗi dòng và mỗi bài thơ được chắt lọc gắt gao, loại bỏ tối đa những yếu tố thừa thãi. Mỗi từ ngữ đứng trong bài thơ dường như đã trải qua một quá trình "nén chặt" về nghĩa, buộc phải chuyên chở trọng lượng biểu đạt lớn hơn nhiều so với dung lượng thực tế của nó. Sự kiệm lời này không phải là nghèo nàn về chữ nghĩa, mà là một thủ pháp có ý thức nhằm tạo ra mật độ ý tưởng và cảm xúc, đồng thời tạo ra khoảng trống cho người đọc tham gia vào quá trình kiến tạo nghĩa. Nhà thơ đã sử dụng vốn từ ngữ và hình ảnh rất đỗi bình dị, gần gũi với đời sống thường ngày và thiên nhiên quen thuộc. Đó có thể là những sự vật cụ thể như "chiếc dùi", "áo cũ", "sân", "đàn chim", "mồ hôi", hay những hiện tượng tự nhiên như "hoàng hôn", "tiếng ngân". Tính chất "bình dân" của vốn từ này đối lập với chiều sâu tư tưởng mà bài thơ hướng tới, tạo nên sự bất ngờ và thú vị. Nhà thơ tìm thấy chất thơ và khả năng gợi mở không giới hạn ở ngay những điều giản đơn nhất xung quanh con người.

 Gây dấu ấn trong ngôn từ của Mai Văn Phấn là khả năng tạo ra sự bất ngờ và đa nghĩa thông qua việc sắp đặt, đối chiếu các từ ngữ và hình ảnh tưởng chừng không liên quan hoặc ở những bình diện khác nhau. Ông thường đặt cái cụ thể bên cạnh cái trừu tượng ("tiếng ngân mồ hôi người"), cái vật chất bên cạnh cái tinh thần ("cuốn áo cũ" cho chiếc dùi), hay các yếu tố thuộc về những chiều kích thời gian, không gian khác biệt ("Hoàng hôn vây quanh sân / Đàn chim / Bên ngoài"). Cách kết hợp "lạ hóa" này phá vỡ lối tư duy logic thông thường, kích thích liên tưởng đa chiều và mở ra những tầng nghĩa vượt ra ngoài nghĩa đen của từ ngữ. Chính sự tối giản, bình dị nhưng được sắp đặt đầy chủ ý đã khiến ngôn từ của ông trở nên giàu sức gợi. Mỗi từ, mỗi hình ảnh không chỉ miêu tả sự vật mà còn là "chìa khóa" để mở ra những liên tưởng về cảm xúc, suy tư triết học, hoặc những trạng thái tồn tại phức tạp. Ví dụ, "áo cũ" không chỉ là chiếc áo, nó gợi về thời gian, thân phận, ký ức. "Mồ hôi người" không chỉ là mồ hôi, nó biểu trưng cho nỗ lực, sự sống, giá trị. Ngôn từ hoạt động như những "tín hiệu", đòi hỏi người đọc phải "giải mã" và lấp đầy những khoảng trống ý nghĩa.

 Ngôn từ trong thơ ba câu Mai Văn Phấn là sự kết hợp tài tình giữa tính tối giản, bình dị với khả năng kiến tạo bất ngờ và đa nghĩa. Bằng việc chắt lọc từ ngữ, sử dụng hình ảnh quen thuộc nhưng sắp đặt theo cách lạ hóa, ông đã biến những điều đơn giản trở thành điểm khởi phát cho những suy tư sâu sắc về con người, thời gian và bản thể. Ngôn từ của ông không phô trương nhưng sắc bén, không dàn trải nhưng hàm súc, tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt và góp phần định hình một thi pháp hiện đại, giàu tính gợi mở trong thơ Việt.

 

 3.2. Hình thức và bố cục mang tính vụt tắt trong thơ ba câu

 Trong thơ ba dòng của Mai Văn Phấn, cảm thức về "tính vụt tắt" không chỉ là nội dung được biểu đạt mà còn là đặc điểm thấm đẫm trong chính hình thức và bố cục của bài thơ. Thể thơ cực ngắn này, với chỉ vỏn vẹn ba dòng, tự thân nó đã là một biểu hiện của sự cô đọng, của việc chắt lọc khoảnh khắc. Bài thơ bắt đầu và kết thúc rất nhanh, tạo nên một nhịp điệu gấp gáp, một "lát cắt" sắc lẹm giữa dòng chảy vô tận của ngôn từ và cảm xúc, qua đó thể hiện trực quan nhất tính chất phù du, chớp nhoáng của khoảnh khắc, của hiện tại.

 Sự cô đọng của hình thức buộc nhà thơ phải nén chặt ý tưởng và hình ảnh. Thay vì trải dài, phân tích hay diễn tả quá trình, Mai Văn Phấn tập trung vào việc ghi lại những "điểm chạm" đột ngột, những giao thoa bất ngờ. Ba dòng thơ như ba cú lia máy nhanh, bắt lấy những khoảnh khắc chợt hiện, chợt tan. Tính "vụt tắt" không chỉ nằm ở chủ đề mà còn ở cách bài thơ hiển hiện – nó xuất hiện nhanh, để lại ấn tượng mạnh rồi kết thúc, giống như cách một cảm xúc chợt đến rồi đi, hay một hình ảnh thoáng qua trong tâm trí.

 Quan trọng hơn, bố cục và cách ngắt dòng trong thơ ba dòng đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra cảm giác về sự vụt tắt và tính đột ngột. Ranh giới giữa các dòng thơ là những khoảng lặng ngắn, những nhịp ngừng đầy chủ ý. Sự chuyển tiếp từ cuối dòng này sang đầu dòng kế tiếp thường tạo ra một cú nhảy về hình ảnh, không gian, thời gian hoặc cảm xúc. Chính những cú nhảy bất ngờ này, sự va đập giữa các yếu tố được đặt ở cạnh nhau qua vạch ngăn dòng, đã tái hiện lại tính chất bất ngờ, khó nắm bắt của những khoảnh khắc "vụt tắt" trong cuộc sống và tâm tưởng. Dòng thứ hai có thể đột ngột lật ngược hình ảnh của dòng thứ nhất, hoặc dòng thứ ba mở ra một chân trời ý nghĩa hoàn toàn khác biệt, khiến người đọc cảm nhận rõ rệt sự chuyển giao nhanh chóng, sự biến mất của trạng thái trước để nhường chỗ cho trạng thái sau một cách chớp nhoáng.

 Hơn nữa, độ dài ngắn của mỗi dòng (thường là khá ngắn) cùng với việc bố trí thành ba dòng riêng biệt trên trang giấy tạo nên một cấu trúc thị giác mang tính phân mảnh. Ba dòng thơ đứng độc lập nhưng lại liên kết chặt chẽ, như ba mảnh ghép của một khoảnh khắc duy nhất, hoặc ba khoảnh khắc kế tiếp nhau chỉ trong gang tấc. Sự phân tách rõ ràng về mặt thị giác này càng nhấn mạnh tính "vụt tắt" của mỗi dòng, mỗi ý, đồng thời cũng thể hiện sự hữu hạn, đếm được của những khoảnh khắc được thơ ca lưu giữ, đối lập với sự vô hạn và trôi chảy không ngừng của thời gian thực.

 “Tĩnh lặng có lẽ vẫn là thời gian có ý nghĩa nhất đối với con người. Đó là thời gian để con người lắng đọng, sống chậm hơn, có điều kiện để sống cho mình và chia sẻ cảm xúc sống với người. Con người sống bên nhau trong thực tế bằng xương bằng thịt nhưng nhiều khi chưa hẳn đã thấu hiểu, đã chia sẻ được cùng nhau. Họ cần những khoảng lặng với vô vàn những câu hỏi động, hay nói cách khác họ chỉ gặp và an ủi được nhau trong những phút tĩnh lặng với thời gian. Tĩnh lặng với thời gian trong thơ Mai Văn Phấn gắn liền với những khắc khoải của nhà thơ về tồn tại, về đời người. Những khoảnh khắc tĩnh lặng trong thơ ông không phụ thuộc nhiều vào quy luật tuần hoàn của vũ trụ, không bị chi phối nhiều bởi vòng cung thời gian.” [3, tr 2]

 Trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn, "tính vụt tắt" không chỉ là nội dung mà còn là thủ pháp nghệ thuật được thể hiện thông qua chính hình thức và bố cục. Thoạt hình qua hình thức chung của bài thơ ai nấy cũng không khỏi bất ngờ với số lượng từ chứa đựng trong nó, những bài thơ như những chiếc ruộng bật thang tách dòng hay như những nốt nhạc gieo nhịp theo hệ thống hình thức của bài thơ.

 Sự cô đọng của thể thơ, những cú ngắt dòng đột ngột tạo nên sự va đập và chuyển dịch nhanh chóng, cùng với cấu trúc thị giác phân mảnh, tất cả hoà quyện để kiến tạo nên một thứ ngôn ngữ thơ ca có khả năng nắm bắt và truyền tải một cách mạnh mẽ, trực quan nhất cảm thức về những khoảnh khắc chợt hiện, chợt tan, về sự phù du và vẻ đẹp mong manh của sự tồn tại trong dòng chảy vô thường của thời gian. Giai điệu trong thơ cũng từ đó mà được hình thành qua chính sự tác động lẫn nhau của từng câu thơ, bài thơ đọc xuôi hay ngược, thuận hay nghịch cũng tạo ra bản thể mới về hình thức cấu tạo ngôn từ . Mỗi bài thơ là một góc nhìn một tâm trạng được bộc lộ qua số lượng và hệ thống hình thức thơ.

 

 3.3. Nhịp điệu và cấu trúc thơ theo âm hưởng thời gian trong thơ ba câu

 Trong thi ca Mai Văn Phấn, đặc biệt là ở thể thơ ba dòng đầy tính thách thức, nhịp điệu và cấu trúc thơ không chỉ đơn thuần là khung xương định hình bài thơ, mà còn là những yếu tố nghệ thuật đắc lực, trực tiếp kiến tạo và truyền tải âm hưởng thời gian một cách sâu sắc và ám ảnh. Chính sự tương tác nhuần nhuyễn giữa tiết tấu bên ngoài và cách tổ chức ý tứ bên trong đã định hình nên cảm thức đặc trưng về dòng chảy (hoặc sự ngưng đọng) của thời gian trong tâm thức người đọc.

 Nhịp điệu trong thơ ba dòng Mai Văn Phấn thường được cảm nhận như một nhịp đập dồn nén, gấp gáp, phản chiếu chính tính chất "vụt tắt" của khoảnh khắc. Số lượng tiếng ít ỏi trong mỗi dòng cùng với sự ngắt dòng thường xuyên (hai lần trong một bài thơ ngắn ngủi) tạo nên một tiết tấu nhanh, không cho phép người đọc dừng lại quá lâu ở bất cứ điểm nào. Nhịp điệu này mô phỏng lại tốc độ lướt qua của thời gian, sự trôi nhanh không thể níu giữ của những khoảnh khắc phù du. Đáng chú ý hơn là vai trò của các khoảng lặng được tạo ra bởi vạch ngăn dòng. Đây không chỉ là nơi kết thúc câu thơ, mà là những "điểm dừng năng lượng", nơi ý tứ của dòng trước còn đang ngân vang trong khi dòng sau đã chuẩn bị xuất hiện. Những khoảng lặng này, dù ngắn ngủi, lại là nơi cảm giác về sự đứt gãy, về khoảng cách thời gian giữa các khoảnh khắc được cảm nhận rõ nét nhất. Chúng nhấn mạnh rằng thời gian không phải là một dòng chảy liên tục, mượt mà, mà là sự nối tiếp của những lát cắt, những điểm đoạn, và chính trong những khoảng trống ấy, cái "vụt tắt" trở nên hữu hình. Nhịp điệu nhanh cùng với những khoảng lặng nhấn nhá tạo nên một tiết tấu độc đáo, vừa hối hả, vừa gợi suy ngẫm về sự hữu hạn.

 Song hành cùng nhịp điệu, cấu trúc ba dòng là nơi "âm hưởng thời gian" được kiến trúc một cách tài hoa. Cách nhà thơ phân bổ hình ảnh, hành động, trạng thái hay suy tưởng vào từng dòng tạo nên những mô hình thời gian phức tạp, vượt ra ngoài khuôn khổ tuyến tính thông thường. Đôi khi, cấu trúc là một sự nén tuyến tính đến cực điểm: dòng đầu là khởi điểm, dòng giữa là quá trình ngắn ngủi, và dòng cuối là kết thúc hoặc dư âm tức thời. Nhưng phổ biến hơn, cấu trúc được sử dụng để tạo ra sự chồng xếp, đan cài của các lớp thời gian. Dòng đầu neo giữ hiện tại, dòng thứ hai bất ngờ mở ra cánh cửa ký ức về quá khứ, và dòng thứ ba lại hướng tới một dự cảm tương lai hoặc một chân lý vượt thoát thời gian. Chính sự sắp đặt "phi tuyến tính" này – đặt quá khứ, hiện tại, tương lai cùng tồn tại hoặc va chạm trong ba dòng ngắn ngủi – mô phỏng lại cách thời gian vận hành trong tâm thức con người: không tuần tự mà hỗn độn, ký ức ùa về bất chợt, suy nghĩ lướt nhanh giữa các chiều thời gian. Cấu trúc ba dòng trở thành một sân khấu nhỏ nơi các "vai diễn" thời gian luân chuyển, tương tác, tạo nên những "cú nhảy cóc" bất ngờ, buộc người đọc phải chủ động kết nối và cảm nhận sự đa tầng của dòng chảy thời gian nội tại. Hơn nữa, sự đối sánh giữa các yếu tố được đặt ở cuối dòng trên và đầu dòng dưới là một thủ pháp cấu trúc mạnh mẽ, đặc biệt hiệu quả trong việc gợi cảm giác về thời gian. Việc đặt cạnh nhau hình ảnh của sự đầy đặn (ở một thời điểm) và sự trống rỗng (ở thời điểm tiếp theo) chỉ cách nhau một vạch ngăn dòng tạo nên một cú sốc thị giác và ý nghĩa, nhấn mạnh sự biến đổi nhanh chóng, sự mất mát xảy ra chỉ trong tích tắc. Hay việc dòng cuối lặp lại hoặc biến tấu một yếu tố ở dòng đầu tạo nên cấu trúc vòng tròn, gợi cảm thức về sự tuần hoàn của thời gian, về những chu kỳ lặp đi lặp lại trong cuộc sống.

 “Thời gian và sự biến đổi của vũ trụ, của thế giới luôn là vấn đề quan trọng được các thi sĩ quan tâm. Bản chất của đối thoại là hỏi, nghe, trả lời, đồng ý…Con người khi đã ra đi nhưng những cuộc đối thoại có ý nghĩa với đời sẽ luôn ở lại. Mỗi nhà thơ đều trải nghiệm, đối thoại với thời gian theo cách của mình…Thời gian với nhà thơ Mai Văn Phấn không chỉ là thực tại khách quan mà còn là sự hiện diện của một thứ quyền uy huyền bí vượt trên mọi danh xưng hiện hữu. Nỗi sợ phải chết, nỗi cô đơn và bất lực của con người trước quy luật thời gian luôn song hành với con người trong khát vọng trở thành bất tử.” [3, tr 2]

 Dù không tuân thủ niêm luật hay vần điệu chặt chẽ của các thể thơ truyền thống, nhịp điệu và cấu trúc vẫn đóng vai trò quan trọng, góp phần kiến tạo và truyền tải âm hưởng thời gian cùng với quan niệm về sự xóa nhòa ranh giới thực. Bản chất cấu trúc ba dòng thơ đã là một yếu tố định hình mạnh mẽ. Sự ngắn gọn, cô đọng của cấu trúc này tạo ra một khuôn khổ chặt chẽ, đối lập với sự vô hạn của thời gian. Mỗi dòng thơ, và đặc biệt là những khoảng lặng được tạo ra bởi ngắt dòng, chia bài thơ thành những đơn vị nhỏ, có thể gợi cảm giác về sự phân mảnh của thời gian tuyến tính, về việc ghi nhận từng khoảnh khắc, từng lát cắt của thực tại. Sự chuyển tiếp nhanh chóng giữa các dòng cũng tạo ra một nhịp điệu gấp gáp, có thể phản ánh sự trôi chảy thoắt ẩn thoắt hiện của khoảnh khắc.

 Tuy không có nhịp điệu cố định theo số âm tiết, nhịp điệu nội tại của bài thơ được tạo nên bởi độ dài ngắn không đều của các dòng, cách phân bố từ ngữ, và đặc biệt là sự ngắt nghỉ ở cuối mỗi dòng. Nhịp điệu này thường không êm đềm, liền mạch như lục bát hay song thất lục bát, mà có thể đứt nối, bất ngờ, phản ánh chính sự phi tuyến tính, gián đoạn và phức tạp trong cảm nhận thời gian của nhà thơ. Sự đối lập về độ dài giữa các dòng (ví dụ: dòng ngắn bất ngờ sau dòng dài hơn) có thể tạo ra một "khoảng lơ lửng" về nhịp, tương ứng với khoảnh khắc thời gian ngưng đọng hoặc dịch chuyển đột ngột.

 Dù không theo khuôn mẫu truyền thống, nhịp điệu và cấu trúc ba dòng thơ của Mai Văn Phấn là một bộ phận hữu cơ trong việc biểu đạt quan niệm thời gian phức hợp và sự xóa nhòa ranh giới thực. Cấu trúc cô đọng và nhịp điệu linh hoạt, thường bất ngờ của ông tạo ra không gian để các bình diện thời gian và thực tại khác nhau có thể cùng tồn tại, tương tác và làm mờ ranh giới của nhau, qua đó truyền tải một cách hiệu quả những suy tư sâu sắc về tồn tại và vũ trụ.

 

 Giờ tụng niệm

 Tiếng chim ríu rít

 Khói hương

 Chỉ nhớ cầu cho lá non

 (Hoa giấu mặt – Mai Văn Phấn)

 Cấu trúc ba dòng thơ và cách ngắt dòng tạo ra khung sườn nhịp điệu cơ bản. Dòng đầu tiên, "Tiếng chim ríu rít", giới thiệu một âm thanh sống động, ngoại cảnh với nhịp điệu nhanh, rộn ràng, gợi cảm giác về một khoảnh khắc đầy sức sống của hiện tại tự nhiên. Dòng thứ hai, "Khói hương", ngắn gọn và đột ngột, tạo ra một nhịp ngắt abrupt, làm chậm lại hoặc tĩnh lại nhịp điệu trước đó, tập trung sự chú ý vào một hình ảnh mang tính biểu tượng, tĩnh tại của nghi lễ. Dòng cuối cùng, "Chỉ nhớ cầu cho lá non", là dòng dài nhất, mang nhịp điệu trải dài, suy tư và có phần trầm lắng hơn, chứa đựng ý thức và hành động của con người. Sự thay đổi đột ngột về độ dài và nhịp điệu giữa các dòng này không chỉ đơn thuần là hình thức mà còn phản ánh sự dịch chuyển giữa các không gian (ngoài trời, trong không gian nghi lễ, trong tâm tưởng) và các trạng thái tồn tại.

 Nhịp điệu nội tại của bài thơ, được tạo nên từ việc lựa chọn từ ngữ và cách phân bố chúng trên từng dòng, cũng góp phần tạo nên âm hưởng thời gian phức tạp. Nhịp điệu nhanh, dồn dập của "ríu rít" đối lập mạnh mẽ với sự tĩnh tại được gợi lên từ "Khói hương" và nhịp điệu có thể chậm rãi, thành kính của hành động "cầu cho". Sự tương phản nhịp điệu này không chỉ làm nổi bật sự đối lập giữa thế giới tự nhiên sống động và không gian nghi lễ mà còn gợi ý về sự cùng tồn tại của những dòng thời gian khác nhau: thời gian rộn rã của tự nhiên, thời gian thiêng liêng được neo giữ của nghi lễ, và thời gian của suy tư nội tâm. Sự tương tác giữa cấu trúc dòng và nhịp điệu nội tại đã tạo nên âm hưởng thời gian đặc trưng, góp phần xóa nhòa ranh giới thực trong bài thơ. Việc đặt "Tiếng chim ríu rít" (gắn với thời gian tuần hoàn của ngày/mùa và không gian bên ngoài) ở dòng đầu tiên, ngay sau nhan đề "Giờ tụng niệm" (gắn với một thời điểm cụ thể, tuyến tính và không gian nghi lễ), tạo ra một sự va chạm thời gian và không gian đầy thi vị. Nhịp ngắt ở cuối dòng 1 và sự chuyển sang dòng 2 ngắn gọn buộc người đọc phải nhảy nhịp, dịch chuyển đột ngột từ thế giới âm thanh rộn rã sang hình ảnh tĩnh của khói hương, từ bên ngoài vào không gian bên trong. Nhịp điệu này phản ánh sự cùng tồn tại của các bình diện thực tại khác nhau trong cùng một khoảnh khắc "Giờ tụng niệm". Nhịp điệu lắng đọng của dòng cuối cùng, "Chỉ nhớ cầu cho lá non", nơi ý thức con người hướng về một phần mong manh của tự nhiên, đã kết nối khoảnh khắc thời gian tuyến tính của giờ tụng niệm với thời gian tuần hoàn của sự sinh trưởng tự nhiên. Cấu trúc dòng dài hơn cho phép ý nghĩa này được mở ra đầy đủ, và nhịp điệu trầm lắng củng cố cảm giác về sự chiêm nghiệm sâu sắc. Như vậy, nhịp điệu và cấu trúc trong bài thơ không chỉ miêu tả thời gian mà còn tái tạo trải nghiệm về thời gian như một dòng chảy đa lớp, nơi các ranh giới giữa thiêng liêng/đời thường, con người/tự nhiên, khoảnh khắc/chu kỳ được làm mờ đi, tạo nên chiều sâu và sức gợi đặc biệt cho bài thơ.

 Nhịp điệu nhanh, dứt khoát cùng những khoảng lặng nhấn nhá, kết hợp với cấu trúc ba dòng được tổ chức linh hoạt theo nhiều mô hình (tuyến tính nén, phi tuyến tính, chồng xếp, đối sánh, vòng tròn), đã biến hình thức thơ ba dòng của Mai Văn Phấn thành một công cụ đắc lực để không chỉ miêu tả mà còn tái tạo trực tiếp "âm hưởng thời gian" – một thứ âm hưởng vừa gấp gáp, vừa đứt gãy, vừa chồng xếp lớp lang, vừa mang tính chủ quan sâu sắc. Bằng cách làm chủ nhịp điệu và cấu trúc, nhà thơ đã kiến tạo một không gian thơ nơi thời gian không phải là khái niệm trừu tượng mà là một trải nghiệm thẩm mỹ, một âm thanh, một cảm giác mà người đọc trực tiếp cảm nhận được qua hình thức và bố cục của bài thơ. Đó là minh chứng cho thấy hình thức thơ, trong bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ, có thể trở thành phương tiện biểu đạt ý niệm triết học một cách đầy hiệu quả và lay động

 

 

 

KẾT LUẬN

 

Cảm thức thời gian trong thơ ba câu của Mai Văn Phấn, một khía cạnh quan trọng góp phần định hình phong cách và chiều sâu tư tưởng trong sáng tác của ông. Từ việc khảo sát các phương thức biểu hiện đa dạng, có thể khẳng định rằng, trong khuôn khổ vỏn vẹn ba dòng, nhà thơ đã không chỉ miêu tả về thời gian mà còn kiến tạo nên một trải nghiệm thẩm mỹ về thời gian đầy khác biệt: đó là một dòng chảy phi tuyến tính, phân mảnh, mang đậm dấu ấn chủ quan và luôn thường trực cảm thức về sự phù du, vụt tắt của khoảnh khắc.

Mai Văn Phấn bằng sự làm chủ tuyệt vời hình thức và ngôn ngữ của thể thơ ba dòng, đã vượt qua những giới hạn về dung lượng để thể hiện một "cảm thức thời gian" đầy ám ảnh và triết lý. Ông không đo đếm thời gian bằng đồng hồ, mà bằng những rung động, bằng sự hiện diện và biến mất của vạn vật trong khoảnh khắc. Sự thành công của ông không chỉ khẳng định sức biểu đạt tiềm tàng của thể thơ cực ngắn mà còn đóng góp vào dòng chảy chung của thi ca đương đại Việt Nam trong việc khám phá và thể hiện những vấn đề trừu tượng như thời gian qua lăng kính chủ quan, giàu hình ảnh và cảm xúc.

Khoá luận tốt nghiệp với đề tài "Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn" được thực hiện nhằm mục đích khảo sát, phân tích và làm sáng tỏ những biểu hiện đặc trưng của cảm thức thời gian trong một bộ phận tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ đương đại Mai Văn Phấn – thể thơ ba câu. Bằng cách đi sâu vào từng khía cạnh biểu đạt nghệ thuật như cấu trúc hình thức, hệ thống hình ảnh, ngôn ngữ và các thủ pháp tu từ, công trình nghiên cứu này mong muốn góp phần nhận diện sâu sắc hơn về thế giới quan, thi pháp và vị trí của Mai Văn Phấn trong dòng chảy văn học hiện đại, đồng thời cung cấp một góc nhìn chuyên biệt về cách thời gian được cảm nhận và tái tạo trong một thể thơ độc đáo.

Qua quá trình khảo sát và phân tích các văn bản thơ ba câu của Mai Văn Phấn, bài nghiên cứu đã rút ra những kết luận quan trọng về cảm thức thời gian trong thi phẩm ba câu của ông. Trước hết, cảm thức thời gian không chỉ giới hạn ở dòng chảy tuyến tính thông thường mà được biểu hiện đa chiều, phức tạp và giàu tính triết lý. Đó là sự nhận diện về thời gian như một dòng chảy vô tận của vũ trụ và lịch sử, song hành với sự cảm nghiệm sâu sắc về tính hữu hạn, mong manh của thời gian cá nhân và thân phận con người. Đặc biệt, thơ ba câu của Mai Văn Phấn làm nổi bật cảm thức về "khoảnh khắc" – nơi thời gian như ngừng đọng, chứa đựng những chiêm nghiệm sâu sắc, sự bùng vỡ cảm xúc, hoặc sự giao thoa đột ngột giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Cấu trúc cô đọng, hàm súc của thể thơ ba câu đóng vai trò then chốt trong việc định hình cách biểu đạt này, tạo nên sự súc tích, đa nghĩa và gợi mở liên tưởng mạnh mẽ về sự dịch chuyển, ngưng đọng hay chồng lớp của thời gian. Các thủ pháp nghệ thuật hiện đại được sử dụng một cách linh hoạt, góp phần làm phong phú thêm tầng nghĩa về thời gian trong tác phẩm.

Mai Văn Phấn là một trong những tên tuổi hàng đầu của thơ ca Việt Nam đương đại, với khối lượng tác phẩm đồ sộ và nhiều thể nghiệm nghệ thuật táo bạo, trong đó thơ ba câu là một nét đặc sắc riêng, thể hiện nỗ lực cách tân hình thức thơ. Việc đi sâu vào một khía cạnh cốt lõi như cảm thức thời gian trong một thể loại cụ thể giúp công trình nghiên cứu có trọng tâm rõ ràng, tránh sự dàn trải, đồng thời làm nổi bật được những đóng góp độc đáo của nhà thơ trong việc thể hiện một đề tài muôn thưở bằng hình thức mới lạ. Luận văn đã góp phần giải mã thêm một lớp nghĩa quan trọng trong thơ Mai Văn Phấn, đặt cảm thức thời gian của ông vào bối cảnh thơ ca đương đại, qua đó khẳng định giá trị và sức sáng tạo của nhà thơ trên hành trình tìm tòi những khả năng biểu đạt mới.

Tuy bài nghiên cứu đã đạt được những kết quả nhất định trong phạm vi và giới hạn của một khóa luận tốt nghiệp, đề tài "Cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn" vẫn mở ra nhiều hướng nghiên cứu đầy tiềm năng cho các công trình khoa học tiếp theo. Các nghiên cứu sau này có thể mở rộng phạm vi khảo sát, so sánh cảm thức thời gian trong thơ ba câu với các thể loại thơ khác của Mai Văn Phấn hoặc với các nhà thơ cùng thế hệ để thấy rõ hơn những ảnh hưởng, tiếp biến và sáng tạo cá nhân. Bên cạnh đó, việc đi sâu vào phân tích mối tương quan giữa cảm thức thời gian và các yếu tố khác như không gian, ký ức, thân phận con người hay yếu tố siêu hình trong thơ ông cũng là một hướng tiếp cận đầy triển vọng. Nghiên cứu về sự tiếp nhận và ảnh hưởng của cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn đối với độc giả và thi giới phê bình cũng là một lĩnh vực cần được khai thác để có cái nhìn toàn diện hơn về giá trị tác phẩm.

Với những phân tích và đánh giá đã trình bày, bài nghiên cứu hy vọng đã cung cấp một góc nhìn hệ thống và khoa học về cảm thức thời gian trong thơ ba câu Mai Văn Phấn, góp phần vào việc nghiên cứu và đánh giá đúng mức vị trí của nhà thơ trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Công trình này cũng được xem như một điểm khởi đầu, khơi gợi những tìm tòi, khám phá sâu sắc hơn về thế giới nghệ thuật phong phú và độc đáo của Mai Văn Phấn trong tương lai, đóng góp vào việc nghiên cứu thơ ca đương đại Việt Nam.

 

 

 

SV Nguyễn Thị Khánh Ly

 

 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Mai Văn Phấn (2012), Hoa Giấu mặt, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn.

2. Mai Văn Phấn 2015), Thả ,Nhà xuất bản Hội Nhà Văn.

3. Ts. Mai Thị Liên Giang (2021), Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn (Một số vấn đề cần quan tâm trong nghiên cứu và dạy học tác phẩm thơ hiện đại ở Chương trình Ngữ Văn hiện nay.

4. Đình Kính (2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công (2011), Đình Kính tuyển chọn, Nhà xuất bản Hội nhà văn.

5. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn (cùng tiểu luận và trả lời phóng vấn), Nhà xuất bản Hội nhà văn.

6. Lê Hồ Quang (2021), Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, Cơ quan ngôn luận của Hội nhà văn Việt Nam.

7. Nguyễn Thị Hương Giang (2015), Đặc điểm thơ Mai Văn Phấn. Đại học Quốc Gia Hà Nội.

8. PGS. TS Đào Duy Hiệp (2017), Mai Văn Phấn -  Những chặng đường sáng tạo thơ, Trang thơ Mai Văn Phấn.

9. Nguyễn Việt Chiến (2012), Mai Văn Phấn trong “ vòng xoáy” của thơ Hậu - hiện - đại, Thơ trẻ.

10. Văn Giá (2016), Thơ sinh ra để nói về niềm tin hi vọng của con người, Diễn đàn văn học nghệ thuật.

11. Ngô Hương Giang và Nguyễn Thanh Tâm (2015), Mai Văn Phấn, hành trình thơ vào cõi khác, Nhà xuất bản Hội nhà văn.

12. Inrasara (2012), Thơ Đồng Đức Bốn và Mai Văn Phấn .

13. PGS.TS Hồ Thế Hà (2013), Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn, Trang điện tử nhà văn Mai Văn Phấn.

14. Đoàn Thị Linh Giang (2022), Cái tôi trữ tình độc sáng trong thơ Mai Văn Phấn.

http://maivanphan.vn/ve-lo-trinh-tho/cai-toi-tru-tinh-doc-sang-trong-tho-mai-van-phan-doan-thi-linh-giang-18555

15. Mai Thị Liên Giang (2017), Thi sĩ và những điều có thể, Tạp chí Sông Hương, số 218.

16. Nguyễn Thị Liên Tâm (2022), Cảm thức thời gian và suy nghiệm phận người trong thơ Trương Đăng Dung.

17. Cao Thị Hồng (2011), Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố, Cơ quan ngôn luận Hội nhà văn Việt Nam.

18. Nguyễn Thị Lan (2022), Cảm thức thời gian trong thơ Nguyễn Thị Việt Nga, Cơ quan ngôn luận Hội nhà văn Việt Nam.

19. Trần Nhật Thu (2021), Cảm thức thời gian trong thơ Lưu Trọng Lư, Tạp chí khoa học, Đại học Huế.

20. Trần Thị Thuý Liễu và Trần Thị Huyền (2023), Cảm thức thời gian trong thơ Đỗ Trung Lai, Trường Đại học Hải Phòng.

21. Phạm Bá Cương (2024),“ Thả” – Tâm thế sáng tạo mới trên hành trình thơ Mai Văn Phấn.

22. Nguyễn Đức Tùng (2018), Mai Văn phấn, cuộc đời quyến rũ, Tạp chí Sông Hương số 38.

23. Hương Hồ (2025), Thơ ba câu như Mai Văn Phấn phổ biến thế giới: Tối giản nhưng không dễ nuốt, Trang Mai Văn Phấn.

24. Tâm Anh (2025), Thơ ba câu của Mai Văn Phấn gây tranh cãi (2025), Hội nhà văn Việt Nam.

25. Lê Nguyên Cẩn (2019), Cảm thức thời gian trong sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Du và A.S. Pushkin, Thánh địa Việt Nam học.

26. Lê Lưu Oanh và Phạm Đăng Dư (2008) , Giáo trình lý luận văn học, Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm Hà Nội.

27. Nguyễn Thị Anh (2019), Vẻ đẹp của hình tượng thiên nhiên trong tác phẩm văn học Việt Nam thuộc chương trình THPT.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 5 

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị