Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Lê Thị Ngọc Hà

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

 

 

 

 

 

 Lê Thị Ngọc Hà

Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Thị Liên Giang

 

 

 

TS. Mai Thị Liên Giang (phải) & Ths. Lê Thị Ngọc Hà

 

 

 

DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ  MAI VĂN PHẤN

 

 

 

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGÀNH LÝ LUẬN VĂN HỌC

Thừa Thiên Huế, 2019

 

 

 

MỤC  LỤC

 

A. MỞ ĐẦU     

1. Lí do chọn đề tài      

2. Lịch sử vấn đề         

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu    

4. Hướng tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu           

5. Đóng góp của luận văn        

6. Cấu trúc luận văn    

B. NỘI DUNG 

CHƯƠNG 1. KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI THƠ VIỆT NAM SAU 1986      

1.1. Văn học hậu hiện đại, quá trình tiếp nhận và quan niệm   

1.1.1. Cách hiểu về văn học hậu hiện đại         

1.1.2. Quá trình tiếp nhận và quan niệm về văn học hậu hiện đại ở Việt Nam     

1.2. Thơ Mai Văn Phấn trong quá trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1986

1.2.1. Những đổi mới của thơ Việt Nam sau 1986        

1.2.2. Thơ Mai Văn Phấn – nỗ lực cách tân theo hướng hậu hiện đại     

CHƯƠNG 2. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI          

2.1. Cảm quan về cuộc sống trong thơ Mai Văn Phấn           

2.1.1.  Hiện thực thế giới đa chiều       

2.1.2. Hiện thực thế giới phồn tạp, bất an        

2.1.3. Hiện thực thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định  

2.2. Cảm quan về con người trong thơ Mai Văn Phấn           

2.2.1. Con người cô đơn

2.2.2. Con người vô bản sắc    

2.2.3. Con người khát khao     

2.3. Cảm quan về xã hội trong thơ Mai Văn Phấn    

2.3.1. Xã hội hiện thực 

2.3.2. Xã hội phi lí        

2.3.3. Xã hội trong tưởng tượng           

CHƯƠNG 3. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN    

3.1. Ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn      

3.1.1. Ngôn ngữ mơ hồ hóa

3.1.2. Ngôn ngữ tạo sinh         

3.2. Giọng điệu thơ Mai Văn Phấn    

3.2.1. Giọng điệu giễu nhại
        3.2.2. Giọng điệu vô âm sắc

3.3. Không gian – thời gian nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

3.3.1. Không gian đa chiều

3.3.2. Thời gian phi tuyến tính

C. KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

A.  MỞ ĐẦU

 

1. Lí do chọn đề tài

Hậu hiện đại đã trở thành hiện tượng mang tính toàn cầu, được bàn luận, tranh cãi rất nhiều và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. Với văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại đã mở ra nhiều khả năng mới cho sáng tạo và tiếp nhận. Văn học Việt Nam sau 1975, nhất là từ 1986
tới nay bước sang một giai đoạn phát triển mới so với trước đó, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm khả dĩ định danh văn học giai đoạn này. Từ sau thế kỉ XX, văn học thế giới chuyển qua giai đoạn hậu hiện đại. Văn học Việt Nam, tuy hơi muộn so với nhiều nước trên thế giới, nhưng không thể tránh khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Ở Việt Nam, thuật ngữ “hậu hiện đại” được nhắc tới ngày càng nhiều. Chưa thể khẳng định một cách chắc chắn rằng đã có một trào lưu văn học hậu hiện đại với đầy đủ ý nghĩa của khái niệm này trong văn học Việt Nam nhưng nếu xét ở lĩnh vực thơ, có thể tìm thấy những dấu hiệu ban đầu trong sáng tác của nhiều cây bút như: Bùi Giáng, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Vi Thùy Linh,…

Trong số các cây bút đương đại gây được nhiều chú ý, Mai Văn Phấn là một trong những gương mặt nổi bật và đã có những đóng góp đáng kể. Ngay từ các sáng tác đầu tay, tác giả đã có một cách viết khác so với các nhà thơ cùng thời. Mai Văn Phấn là một trong những hiện tượng văn học thu hút được sự quan tâm của đông đảo độc giả. Theo thống kê của tác giả Mai Thị Liên Giang: “đến nay, tháng 10. 2019, thơ ông đã được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ và đang tiếp tục được dịch ra các ngôn ngữ khác nữa”. Thành công mà ông đạt được là minh chứng cho sự ảnh hưởng của xu hướng hậu hiện đại lan dần từ văn học thế giới đến văn học nước ta. Mai Văn Phấn đã góp phần làm thay đổi bộ mặt văn học, đưa văn học nước ta bước kịp với sự tiến bộ chung của văn học nhân loại.

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn chương hậu hiện đại Việt Nam cũng như về nhà thơ Mai Văn Phấn. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về dấu ấn hậu hiện đại trong thơ ông. Chính vì vậy chúng tôi đã chọn đề tài “Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn”. Hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần khẳng định rõ hơn vị trí của nhà thơ Mai Văn Phấn trong hành trình thơ Việt.

2. Lịch sử vấn đề

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dấu ấn hậu hiện đại nói chung. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về Mai Văn Phấn và đặc biệt là dấu ấn hậu hiện đại trong thơ ông còn rất ít. Đã có những bài báo, tạp chí nhắc đến dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn nhưng chỉ nêu ra vấn đề chứ chưa phân tích một cách hệ thống.

Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định rằng: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ tình – cổ điển anh bay thẳng một mạch vào hậu hiện đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ cách tân” [22; 420]. Bài  viết của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã khẳng định Mai Văn Phấn là một trong những gương mặt cách tân tiêu biểu của thơ Hậu hiện đại.

Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện trong bài “Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn”  đã khẳng định: “Từ chữ đến lời, ngôn ngữ thơ và tư duy thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn nhằm thể hiện một khát vọng quyền lực tối thượng của nhà thơ đi tìm một cấu trúc văn bản thơ mới lạ, với cách dụng ngữ riêng, in đậm cá tính sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tích hợp đặc sắc, ưu thế của các thủ pháp: truyền thống, tượng trưng, siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Văn bản thơ văn xuôi Mai Văn Phấn đầy tiềm năng nghĩa ẩn chứa trong đó, nó là một kết cấu vẫy gọi sự mở, sự khám phá của người đọc tri âm, đồng điệu, đồng cảm”[68]. Trong nhận định của mình, Nguyễn Ngọc Thiện đã cho rằng thơ Mai Văn Phấn bộc lộ tham vọng của nhà thơ đi tìm kiếm quyền lực tối thượng để tạo ra một cấu trúc văn bản mới lạ, sử dụng mọi cách sáng tạo ngay từ câu từ, con chữ. Ông sử dụng khá nhuần nhuyễn những đặc điểm nghệ thuật của thơ ca truyền thống, tượng trưng, siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn ẩn chứa tiềm tàng những năng lực của sự gợi mở, khơi gợi sự tri âm, đồng điệu, đồng cảm của người đọc.

PGS.TS Hồ Thế Hà, trong bài viết Thơ tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn đã phân tích thơ của Mai Văn Phấn trên hai bình diện: thế giới hình tượng và khả năng tạo sinh nghĩa; bản thể chữ và khả năng tạo sinh nghĩa để làm rõ quan điểm của mình. Đồng thời ông khẳng định “Càng về sau, Mai Văn Phấn càng ý thức thể hiện tâm thức hậu hiện đại trong sáng tạo thông qua hệ ngôn từ và hình ảnh lạ đã làm cho thơ anh không dễ đọc, không dễ hiểu ngay tức thì. Và đó cũng chính là điều làm nên thi pháp riêng Mai Văn Phấn [16; 389].

Đặng Văn Sinh đã nhìn thấy một Mai Văn Phấn và khúc biến tấu “Hôm sau” với sự hòa hợp giữa nhiều phong cách: “tân cổ điển, hậu hiện đại, thậm chí cả siêu thực không loại trừ nhau mà luôn bổ sung cho nhau, hòa quyện vào nhau, chuyển hóa thành phẩm chất mới cả định tính lẫn định lượng” [62]. Cũng như những nhà nghiên cứu trên, Đặng Văn Sinh đã nhìn thấy trong sáng tác của Mai Văn Phấn phong cách hậu hiện đại. Tập thơ “Hôm sau” là  minh chứng rõ nhất cho nhận định này.

Nguyễn Hoàng Đức khi đề cập đến sự thay đổi bút pháp thơ Mai Văn Phấn đã viết: “Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh hướng thơ hiện đại thế kỉ XX và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như lông hồng” [22; 35]. Nguyễn Hoàng Đức đã nghiên cứu sâu và chỉ rõ Mai Văn Phấn đã thử nghiệm  rất nhiều bút pháp sáng tác và đương nhiên không thể bỏ sót khuynh hướng thơ hậu hiện đại. Không chỉ thử nghiệm mà thơ hậu hiện đại của ông đã được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị.

Nhà thơ Inrasara thì cho rằng: “Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn trong những năm hậu đổi mới chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng và trịnh trọng. Ngôn ngữ thơ Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẫn, ngày càng hướng đến sự tự phát và ngẫu hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng thùng” [22; 73]. Nhà thơ Inrasara đã chỉ ra được sự cách tân thơ ca của Mai Văn Phấn những năm hậu đổi mới và phương diện cách tân mãnh liệt nhất trong thơ ông đó chính là ngôn ngữ, bỏ qua thứ ngôn ngữ trong văn chương cổ điển, hiện đại, tiến gần hơn đến văn chương hậu hiện đại.

Tác giả Lê Hồ Quang, trong bài Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một sự chuyển động liên tục với những tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo” [59; 1]. Và “ thế giới thơ ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn dịch đa chiều” [59; 3]. Tác giả Lê Hồ Quang đã chỉ rõ thơ Mai Văn Phấn là một chuyển động không ngừng và sự vận động ấy luôn đi theo hướng đổi mới, hiện đại.

Tác giả Hoàng Thị Huế trong bài viết “Ánh xạ  từ biểu tượng cái tôi trong thơ của một số nhà thơ Việt đương đại” cũng đã đưa ra nhận định: “Sau đổi mới, thơ ca đương đại đã có bước ngoặt lớn trong tư duy sáng tác, trong cái nhìn thế giới, con người, không gian, thời gian, chi phối sự lựa chọn phương thức trữ tình mới mẻ với một giọng điệu riêng và khác lạ, đặc biệt là sự góp mặt của các gương mặt thơ Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh… “Dắt ta về” và “ Ra đi” từ những gì được xem là thân thuộc, đứng vững trên nền truyền thống để vươn mình xa tới hiện đại, hậu hiện đại là một xác tín để truy nguyên những cội nguồn vô thức nhân loại, dân tộc trong thơ ca Việt thời kỳ đổi mới” [19]. Bằng cái nhìn tinh tế, khách quan tác giả Hoàng Thị Huế đã chỉ ra được những thay đổi theo hướng hậu hiện đại trong thơ của các nhà thơ Việt Nam đương đại mà Mai Văn Phấn là một ví dụ điển hình.

Và gần đây tác giả Mai Thị Liên Giang khi phân tích yếu tố cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn từ tinh thần của hậu hiện đại đã có những nhận định: “Thế kỷ 20 với xu hướng phương Tây hóa toàn cầu đã ảnh hưởng đến châu Á, trong đó có Việt Nam. Song song với văn hóa là sự phát triển của khoa học tự nhiên và công nghệ, các mô hình xã hội dân chủ, quyền con người, những hệ hình tư tưởng mới của châu Âu... có tác động mạnh mẽ đến các trí thức Việt Nam. Các vấn đề về tôn giáo như Ki-tô giáo, đạo Phật... góp phần xóa nhòa ranh giới Đông Tây xét về mặt tâm linh. Theo đó, quan niệm về thời gian sống chết của con người, của vũ trụ trong tác phẩm nghệ thuật vì vậy cũng dần mất ranh giới. Đồng thời, quá trình dung hợp các xu hướng nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại đến Việt Nam có ảnh hưởng từ nội dung đến hình thức thơ Mai Văn Phấn.”

Như vậy, nhìn chung các bài phê bình báo chí hay các công trình nghiên cứu về nhà thơ Mai Văn Phấn cho thấy giới độc giả cũng như  giới phê bình nghiên cứu đã ghi nhận những cống hiến của ông cho thơ ca Việt Nam đương đại. Khẳng định những thành quả nhà thơ đạt được chính là những nỗ lực không mệt mỏi trong hành trình sáng tác của họ với mong muốn đem đến cho diện mạo thơ dân tộc những hương vị mới. Mặc dù đã có sự quan tâm nhiều của độc giả như vậy nhưng để khám phá hết những giá trị tiềm ẩn trong thế giới thơ của thi sĩ này không hề đơn giản. Có thể nói, đến thời điểm này (tháng 7/2019) vấn đề dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn vẫn chưa được nghiên cứu có hệ thống trên toàn bộ các tập thơ của ông. Với đề tài này chúng tôi muốn giúp người đọc tiếp cận với một kiểu văn bản thơ khá đặc biệt đáng được quan tâm trong nền thơ ca Việt Nam đương đại. Các công trình nghiên cứu là những gợi ý quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tập trung khảo sát những tập thơ sau của nhà thơ Mai Văn Phấn:

- Cầu nguyện ban mai  (2003 ), NXB Hội Nhà văn VN.

Vách nước (2003), NXB Hội Nhà văn VN.

Hôm sau (2009), NXB Hội Nhà văn VN.

và đột nhiên gió thổi  (2009), NXB Văn học VN.

Bầu trời không mái che (2010), NXB Hội Nhà văn VN.

hoa giấu mặt (2012), NXB Hội Nhà văn VN.

Vừa sinh ra ở đó (2013), NXB Văn học VN.

thả (2015), NXB Hội Nhà văn VN.

Lặng yên cho nước chảy (2018), NXB Hội Nhà văn VN.

Tĩnh lặng (2018), NXB Hội Nhà văn VN.

Thời tái chế (2018), NXB Hội Nhà văn VN.

Ngoài ra, chúng tôi có sử dụng một số tập thơ của các nhà thơ khác cùng thế hệ với Mai Văn Phấn để so sánh, từ đó chỉ ra đặc trưng riêng trong thơ ông.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn chính là “Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn” trên hai bình diện: cảm quan hậu hiện đại về cuộc sống, con người, xã hội và dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ phương thức biểu hiện

4. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Hướng tiếp cận: Vận dụng lí thuyết văn học hậu hiện đại trong nghiên cứu để tìm điểm gặp gỡ của dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn.

Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Xem xét cụ thể các vấn đề về nội dung và nghệ thuật để làm rõ dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn PhấnĐồng thời đưa ra những đánh giá, nhận xét khoa học về giá trị nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn đối với thơ ca Việt Nam đương đại.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: So sánh với các tác giả khác cùng thời, trước, sau và trong chính các tác phẩm của Mai Văn Phấn để thấy được sự khác biệt của các tác phẩm viết theo lối hậu hiện đại và đóng góp riêng của tác giả.

- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: Đặt tác phẩm trong hệ thống của khuynh hướng hậu hiện đại để đánh giá khái quát hiện tượng.

- Ngoài các phương pháp chủ đạo trên, người viết còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ như: phương pháp phân tích văn học, phương pháp nghiên cứu tác giả, phương pháp nghiên cứu lịch sử…

5. Đóng góp của luận văn

- Tìm hiểu về dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn góp phần làm rõ thêm đặc sắc thơ ông.

-  Khẳng định những thành tựu nghệ thuật, cách thức sáng tác, phong cách sáng tác và đóng góp quan trọng của ông trong nền văn học Việt Nam đương đại.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN và PHỤ LỤC, phần NỘI DUNG CHÍNH của luận văn được chia thành ba chương:

Chương 1: Khái lược về văn học hậu hiện đại và thơ Mai Văn Phấn trong quá trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1986

Chương 2: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ cảm quan về hiện thực đời sống và con người

Chương 3: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn nhìn từ phương thức biểu hiện

 

 

 

B. NỘI DUNG




CHƯƠNG 1

KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ THƠ MAI VĂN PHẤN

TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI THƠ VIỆT NAM SAU 1986

 

1.1. Văn học hậu hiện đại, quá trình tiếp nhận và quan niệm

1.1.1 Cách hiểu về văn học hậu hiện đại

Danh từ “postmodern”(hậu hiện đại) hay “postmodernism” (chủ nghĩa hậu hiện đại) theo Ihab Hassan được Federico de Onis đưa vào văn bản lần đầu vào thập niên 1930 để chỉ sự ảnh hưởng đối kháng với chủ nghĩa hiện đại. Danh từ này được sử dụng một cách phổ biến vào thập niên 1960 tại New York. Sau này đã được xuất hiện trong cuộc tranh luận triết học năm 1979 ở phương Tây cùng với sự ra đời cuốn La condition postmodern (Hoàn cảnh hậu hiện đại) của Jean-François Lyotard một triết gia Pháp. Nó đã thực sự trở thành một làn sóng có sức cộng hưởng và lan tỏa mạnh mẽ trên toàn thế giới. Khái niệm Hậu hiện đại ra đời khi mà các chủ thuyết hiện đại đã trở nên già cỗi, đã trở thành những đại tự sự. Lyotard xác định: “Hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của sự tiến bộ của các khoa học; nhưng sự tiến bộ này đến lượt nó lại là tiền giả định sự hoài nghi đó. Tương ứng với sự già cỗi của cơ chế siêu tự sự trong việc hợp thức hóa là sự khủng hoảng của nền triết học siêu hình học, cũng như sự khủng hoảng của thiết chế đại học phụ thuộc vào nó. Chức năng tự sự mất đi các hình thức mang chức năng: các anh hùng lớn, các hiểm họa lớn, các chuyến hải hành lớn và mục đích lớn. Nó tan ra thành từng mảng các yếu tố ngôn ngữ mang tính tự sự, nhưng cũng là tính sở thị, tính chỉ thị, tính miêu tả, v.v… và mỗi thứ đó mang chở theo mình những trị số dụng hành (valences pragmatiques) sui generis (đặc thù). Mỗi người chúng ta sống ở ngã tư đường hay nơi giao nhau của nhiều yếu tố đó. Chúng ta không nhất thiết tạo nên những kết hợp ngôn ngữ ổn định, và những thuộc tính của những kết hợp mà chúng ta tạo nên không nhất thiết là có thể tương thông với nhau được ”[21; 243]. Năm 1971, Ihab Hassan coi chủ nghĩa hậu hiện đại là một thứ chủ nghĩa hiện đại muộn, mang tính phi lý tính, phi xác định, hỗn loạn, nhưng cũng mang tính nhập cuộc. Năm 1995, Baudrillard xem văn hoá hậu hiện đại là thế giới của những“vật ngụy tạo”. Năm 1996, Fredric Jameson cho rằng:“sự tha hoá của chủ thể” trong chủ nghĩa hiện đại đã được thay thế bằng “sự phân mảnh của chủ thể” trong chủ nghĩa hậu hiện đại ở giai đoạn Chủ nghĩa Tư bản muộn. U. Eco xem hậu hiện đại “Là một phạm trù tinh thần, hoặc tốt hơn, một Kunstwollen - một phương thức thao tác”. Năm 2000, Derrida - “Giải trung tâm”. W. Fokkema lại cho rằng: “Kết thúc đại tự sự”. L. P.Evstigneva và R. Evstigneev quan niệm đặc trưng của xã hội hậu hiện đại là tính đối thoại, còn đặc trưng của xã hội công nghiệp hiện đại là độc thoại. Lipovetsky cho rằng hậu hiện đại là“Sự quay trở về với nguồn gốc của con người”. Michel Foucault xem hậu hiện đại là “Khảo cổ tri thức”... Theo từ điển thuật ngữ triết học Hành trình cùng triết học do Ted Honderich chủ biên, hậu hiện đại là: “Thuật ngữ “sự tương đồng gia đình” được triển khai theo đủ loại bối cảnh… dành cho những sự vật dường như có liên quan, nếu có, bằng một sự đa dạng về phong cách thông thường và một ước muốn mơ hồ được thực hiện với các chủ định của nền văn hoá mang tính hiện đại cao… Chủ nghĩa hậu hiện đại cùng chia sẻ một điều gì đó với sự phê phán các giá trị của thời đại Ánh Sáng và các viện dẫn về chân lý được lập ra bởi các nhà tư tưởng chủ trương thuyết phục theo kiểu thành viên công xã tự do…”[41, 822]. Chủ nghĩa hậu hiện đại là một khái niệm mở bởi việc xác định nội hàm và thời điểm ra đời của nó thì dường như luôn phụ thuộc vào ý đồ chủ quan của mỗi một nhà nghiên cứu. Nơi khởi xuất và phát triển mạnh của chủ nghĩa hậu hiện đại là ở Mỹ. Nhưng lí thuyết cơ bản về chủ nghĩa hậu hiện đại thì lại được các học giả Pháp dựng nên. Sau đó, không chỉ các nước Tây Âu sử dụng mà cả Nga, Trung Quốc, Nhật Bản,… những trung tâm kinh tế, xã hội lớn cũng sử dụng thuật ngữ này. Điều đó cho thấy, bất kì một quốc gia có nền kinh tế, nền khoa học kĩ thuật phát triển nào cũng đều không xa lạ với chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, dẫu những nước có nền kinh tế, khoa học kĩ thuật chưa cao nhưng vẫn phải chịu sự tác động, vẫn chấp nhận sự xuất hiện và tồn tại của nó. Thế giới hiện nay là thế giới của kỉ nguyên hậu hiện đại. Tùy vào đặc điểm riêng của từng quốc gia mà chủ nghĩa hậu hiện đại có những sắc thái khác nhau. Theo Phương Lựu, chủ nghĩa hậu hiện đại là “một trào lưu văn hóa kết tinh những đặc trưng của xã hội hậu hiện đại” [25; 323]. Nhưng để biết Chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời từ lúc nào chúng ta cần đối sánh với chủ nghĩa hiện đại. “Thế chiến I đã lôi cuốn hơn 30 nước vào vòng khói lửa, hàng chục triệu người tử vong. Thế chiến II lại càng kinh hoàng, số người chết gấp nhiều lần. Người ta bất giác kêu lên: “Thượng đế chết rồi”, biết bao lí trí, đạo đức và niềm tin kết tinh từ hàng ngàn đời của nhân loại hầu như tiêu biến. Bản tính của nhân loại bị hoài nghi, con người đầy lo âu trước vận mệnh và tiền đề của mình. Mặt khác, khoa học phát triển nhanh, đời sống vật chất càng nâng cao, kéo theo đời sống tinh thần nghèo nàn: Máy tính, người máy do con người tạo ra, trở lại khống chế con người làm họ mất đi tính chủ thể. Con người nhiều khi phải tự hỏi: “Ta là ai? Từ đâu đến? Rồi sẽ đi về đâu?” [25;325]. Theo Lê Huy Bắc: “Chủ nghĩa hậu hiện đại đề xuất nhiệm vụ đi tìm bản nguyên của con người và vũ trụ, đi tìm nền tảng của nhận thức và của cả cách thức tri nhận thế giới, qua đó hòng cắt nghĩa đâu là tự do, hạnh phúc đích thực của con người. Mục đích tối hậu của nó một mặt thúc đẩy tri thức nhân loại tiến thêm, dùng khoa học, kĩ thuật làm nền tảng cho hành động, một mặt khách quan hóa cái nhìn về cuộc đời, giải phóng con người ra khỏi những định chế đã trở nên lỗi thời, kìm hãm bước tiến của nhân loại. Vì lẽ đó, không ít nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời vào những giai đoạn khủng hoảng của lịch sử loài người và tất nhiên nó không phải là sản phẩm của thế kỉ hai mươi mà là của nhiều thế kỉ trước…” [2;21]. Chủ nghĩa hậu hiện đại cũng mang trong nó hai nhiệm vụ quen thuộc của bất kì nền triết học nào, xóa bỏ (hoặc kế thừa) và dựng xây. Xóa bỏ những chân lí phổ quát đã lỗi thời, không phải những chân lí mới mà là những giải pháp khoa học để tiếp cận chân lí, chủ nghĩa hậu hiện đại rất quyết liệt trong việc phê phán  những đại tự sự và bản thân nó không bao giờ muốn biến mình thành đại tự sự. Một “mã kép” được hình thành ngay chính trong nền tảng triết học hậu hiện đại. Nhìn tổng thể, triết học hậu hiện đại cơ bản là sự phục sinh, “làm mới” những tư tưởng hư vô của Friedrich Nietzsche, tư tưởng biện chứng của Carl Marx, tư tưởng phân tâm học về vô thức của Sigmund Freud, tư tưởng về bản thể của Martin Heidegger,… nhưng các triết gia hậu hiện đại gần như hòa tan các tư tưởng đó trong cái nhìn văn hóa – xã hội của  mình. Phản đối nguyên tắc mã hóa hiện thực theo cái nhìn của kí hiệu học, vốn được xem là biểu hiện của cái toàn trị, khép kín, các nhà hậu hiện đại đề xuất tư tưởng “đả mã”, có nghĩa đả phá việc mã hóa thuần túy chứ không  phải là giải mã để tìm ra những nét nghĩa được ẩn sau mã đó như cách làm thông thường bấy lâu. Chủ nghĩa hậu hiện đại xem trọng con người cá nhân, con người bản thể. Ở phương diện này, các nhà hậu hiện đại kế thừa tư tưởng của nhà triết học Martin Heidegger (1889 – 1976). “Họ lấy cái “tôi” làm tâm điểm cho mọi luận giải triết học. Nhưng cái “tôi” đó không phải là cái “tôi” nguyên vẹn, mà  là một cái “tôi” vỡ tan thành nhiều mảnh. Những mảnh này liên tục đối thoại nhau trong đó đối thoại thường trực là giữa cái tôi giá trị và cái tôi giải giá trị của cái tôi đó” [2; 16].

Tinh thần của chủ nghĩa hậu hiện đại từ khi xuất hiện đã có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển ở nhiều lĩnh vực văn hóa, xã hội và nghệ thuật, nhất là ở lĩnh vực sáng tác nghệ thuật. Riêng trong sáng tác văn học, thuật ngữ “văn học hậu hiện đại” được xem là một trào lưu xuất phát từ phương Tây từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và đạt đến đỉnh cao vào những năm 70, 80 của thế kỉ XX. Khi nhắc đến văn học hậu hiện đại, ngoài ý nghĩa chỉ thời gian còn thể hiện những quy định của các thuộc tính nghệ thuật đối với nó.

Chúng tôi đồng ý với ý kiến đa số của các nhà nghiên cứu khi nhấn mạnh đến các đặc tính của văn học hậu hiện đại như tính phi lý tính (hoặc phản lý tính), tính phi xác định, phi chủ thể, tính phân mảnh và tính đại chúng. Văn học hậu hiện đại cũng đã sử dụng hàng loạt khái niệm, thuật ngữ mới trong cách viết, tạo nên những văn bản nghệ thuật chưa từng có trước đó cả về hình thức lẫn nội dung như: cảm quan hậu hiện đại, giễu nhại, mã kép, phi lựa chọn, giải nhân cách hoá, bất tín nhận thức, mặt nạ tác giả, ngoại biên, liên văn bản, siêu truyện… và trong số đó nhiều cái được xem như thủ pháp nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà văn hậu hiện đại chủ trương sử dụng các phương thức thể hiện khác biệt với quy chuẩn của văn học hiện đại. Mọi yếu tố nghệ thuật của văn học hiện đại hầu hết được thể hiện một cách tập trung, liền mạch. Ngược lại, ở văn học hậu hiện đại các yếu tố đó được thể hiện một cách rải rác, phân tán như thể những mảnh vỡ… Nhà nghiên cứu Ihab Hassan đã chỉ ra một số điểm khác biệt cơ bản giữa tác phẩm văn học hiện đại và hậu hiện đại. Về hình thức, văn học hiện đại có hình thức đóng thì văn học hậu hiện đại theo hình thức mở (còn gọi là phi hình thức). Các chi tiết, biến cố…trong tác phẩm văn học hiện đại được sắp xếp và thiết kế một cách kĩ lưỡng bởi sự hư cấu khéo léo và chặt chẽ (chẳng hạn nhiều tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn thường được sắp đặt theo trật tự chặt chẽ của một vở kịch: thắt nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút) thì ở văn học hậu hiện đại, chúng được sắp xếp một cách ngẫu nhiên, gần như không theo một trật tự nào. Do cấu trúc như thế mà một tác phẩm văn học hiện đại như là một cuộc hành trình về đích, còn văn học hậu hiện đại là một hành trình vẫn còn dang dở. Bởi thế, đọc văn học hiện đại, người đọc có thể dễ dàng nhận ra dấu ấn sắp đặt của nhà văn. Đến với văn học hậu hiện đại, người đọc lại có cảm giác được tiếp xúc với một thế giới bề bộn, ngổn ngang. Nhà văn hậu hiện đại hạn chế một cách tối đa sự bộc lộ chủ quan của mình. Họ sẽ không bao giờ viết những dòng văn, câu thơ miêu tả mang đậm cảm xúc chủ quan. Nghệ thuật hậu hiện đại cũng nhấn mạnh tính tự quy chiếu của tác phẩm, tính đứt gãy và hỗn loạn của thực tại, cũng phủ nhận ranh giới các thể loại và thế giới khách quan đơn nhất, tuy đi xa hơn thế. Nó chống lại sự phân chia nghệ thuật cao cấp với bình dân, đề cao tính giễu nhại, lắp ghép, hài hước, đa nghĩa của sự vật và tác phẩm. Cái khác cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại so với chủ nghĩa hiện đại là thái độ của nó đối với thực tại. Trái với cách nhìn nhuốm màu bi thảm của chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại nhìn sự đổ vỡ, đứt đoạn và vô nghĩa của thực tại như là một cái gì đó đương nhiên. Nói cách khác, nếu nghệ thuật hiện đại là sự thương tiếc những ước mơ của thời Khai sáng thì trong nghệ thuật hậu hiện đại, những ước mơ ấy đã hoàn toàn bị lãng quên, thậm chí không hề có. Khi đề cập đến văn học hậu hiện đại, chúng ta phải kể đến những gương mặt nổi tiếng trên thế giới đã thành công với lối viết này. Barry Lewis, trong Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương đã thống kê khá đầy đủ các tác giả nổi bật của văn học hậu hiện đại: Văn chương hư cấu hậu hiện đại là một hiện tượng mang tính quốc tế, với những đại diện quan trọng từ khắp nơi trên thế giới: Gunter Grass và Peter Handke (Đức); Geogrges Perec và Monique Wittig (Pháp); Umberto Eco và Italo Canvino (Italy); Algela Cater và Salman Rushdie (Anh); Stanislaw Lem(Ba Lan); Milan Kundera(trước kia ở Tiệp); Mario Vargas Llosa (Peru); Gabriel Garcia Marquez (Colombia); J. M. Coetzee (Nam Phi); Peter Carey (Úc). Trong đó, tổng số những nhà văn Mỹ có thể được liệt vào đề mục hậu hiện đại là một con số lớn” [2, 237].

Những tên tuổi được nêu ở trên là minh chứng thuyết phục về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của trào lưu văn học hậu hiện đại trên toàn thế giới. Một trào lưu văn học mới đã thu được những thành tựu lớn, do vậy sự ảnh hưởng của nó đến nền văn học Việt Nam là điều không tránh khỏi. Chưa thể nói rằng trong văn học Việt Nam đã xuất hiện các trường phái, khuynh hướng hay trào lưu hậu hiện đại như các nền văn học lớn trên thế giới. Tuy vậy, chúng ta vẫn tìm thấy những dấu hiệu và yếu tố hậu hiện đại trong sáng tác của một số cây bút tiêu biểu. Khi nhận xét về chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học nước ta, tác giả Nguyễn Hưng Quốc (nguồn talawas.com) khẳng định:“Chúng ta có thể xem chủ nghĩa hậu hiện đại tại Việt Nam là một thứ chủ nghĩa hậu hiện đại nguyên hợp”, tức là các nhà văn Việt Nam chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác nhau để tạo nên màu sắc hậu hiện đại.

Như vậy khi bàn về chủ nghĩa hậu hiện đại và văn học hậu hiện đại ở Việt Nam, mặc dù còn có nhiều ý kiến tranh luận, song chúng ta có thể nhận định, văn học hậu hiện đại là một bước phát triển mới của văn học nhân loại. Những phương thức thể hiện có nhiều sự biến đổi phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và thị hiếu thưởng thức nghệ thuật giàu tính trí tuệ của bạn đọc đương đại. Văn học Việt Nam không nằm ngoài vòng quỹ đạo ấy, mang ít nhiều màu sắc hậu hiện đại là một sự thú vị và khả thể, đây cũng là một mảnh đất đang tạo ra nguồn cảm hứng lớn để nhiều người yêu thích khám phá nó.

1.1.2. Quá trình tiếp nhận và quan niệm về văn học hậu hiện đại ở Việt Nam

Cuộc sống luôn vận động và biến đổi không ngừng. Sau năm 1975, bước ra khỏi những năm tháng chiến tranh gian khổ, cả dân tộc Việt Nam bước vào guồng quay mới của cuộc sống thời bình. Bước vào cuộc sống mới, tư duy của con người cũng thay đổi. Cách sống, cách nghĩ không còn đơn giản và bình dị như trước đây. Cuộc đời vì thế trở nên muôn màu muôn vẻ. Từ đó đến nay, không thể phủ nhận rằng chính cơ chế kinh tế thị trường đã góp phần quan trọng làm nên sự khởi sắc của đất nước. Thời kì mở cửa để hội nhập và phát triển, dân tộc ta đón nhận nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu cho Tổ quốc. Chính môi trường chính trị cởi mở đã tạo điều kiện để Việt Nam giao lưu, tiếp xúc với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghệ thuật hậu hiện đại thể hiện quan điểm mỹ học hậu hiện đại với những đặc điểm như vứt bỏ tính hàn lâm của các nhà hiện đại, xóa nhòa ranh giới giữa nghệ thuật và đời sống hằng ngày, bởi sự phát triển mạnh của tính công khai và dân chủ. Phủ nhận tính nguyên bản của một tác phẩm nghệ thuật và muốn hướng tới tính phổ quát, đại chúng. Phá bỏ cấu trúc, sự tiếp nhận hay mô tả hiện tượng không cần suy diễn, không chú ý đến chiều sâu, không diễn dịch bản chất sự vật theo chủ quan tác giả, giá trị nghệ thuật tùy thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của người tiếp nhận, tùy thuộc vào nền văn hóa mà họ sở thuộc… Trái ngược với chủ nghĩa hiện đại muốn tạo lập một thế giới hoàn thiện, bất biến, thì chủ nghĩa hậu hiện đại lại xem thực tại hỗn loạn, phi lí, giễu cợt những điều mang tính toàn trị. Họ muốn nghệ thuật gắn liền với hoàn cảnh xã hội đặc trưng cụ thể, mang tính thời sự. Đối thoại với hỗn loạn chính là chiến lược nghệ thuật của hậu hiện đại. Trong lĩnh vực nghệ thuật, đi tiên phong là các nhà kiến trúc sư. Họ phê bình lối kiến trúc đơn điệu, thô kệch của các tòa nhà mang nặng tính thực dụng mà lại bỏ quên tính đa dạng. Do đó họ sẵn sàng cắt đứt với nghệ thuật tiền phong, chấp nhận thử bất cứ điều gì như sự phi lí, sự hỗn loạn và sự ngớ ngẩn. Cái phản chất lượng được lên ngôi bởi sự khác thường, sự tự do và sự phá vỡ khuôn khổ. Sự xuất hiện của khuynh hướng hậu hiện đại trong văn chương Việt Nam thể hiện một quy luật bình thường trong giao lưu văn hoá nhưng lại ghi một dấu ấn quan trọng đối với sự tiến triển của văn chương. Nó chứng tỏ tinh thần hội nhập mạnh mẽ và thuận chiều của văn chương nước ta với tiến trình văn chương thế giới. Khuynh hướng hậu hiện đại trên thực tế đã góp phần làm phong phú thêm diện mạo thi pháp văn học dân tộc, thay đổi tư duy văn học, cách đọc và thị hiếu thẩm mĩ của công chúng. Thử nghiệm theo khuynh hướng hậu hiện đại đáp ứng được đòi hỏi phát triển của bản thân văn chương, và trước hết nó giúp cho các nghệ sĩ thoả mãn nhu cầu với cái mới, cũng là để mở rộng chân trời sáng tạo của mình… Riêng ở lĩnh vực thơ, những sáng tác theo khuynh hướng hậu hiện đại du nhập vào nước ta và thực sự nở rộ từ những năm 1980 với những tên tuổi tiêu biểu như: Nguyễn Quang Thiều, Trương Đăng Dung, Thanh Thảo, Lê Vĩnh Tài, Lê Hữu Khóa, Mai Văn Phấn, Inrasara,… và sau này là Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Trần Tuấn… Sự góp mặt của đội ngũ này đã mở rộng lãnh thổ thơ ca và đưa đến những cách nhìn mới, suy nghĩ mới, đánh giá mới trong tiến trình phát triển.

Trước thực tế cuộc sống mới đầy những đổi thay, văn học tất yếu phải đổi mới để hoàn thành sứ mạng của mình, đồng thời để đáp ứng những nhu cầu, thị hiếu của một thế hệ độc giả có tư duy hoàn toàn khác so với trước đây. Nhưng điều đầu tiên là trước những ngổn ngang, phức tạp của đời sống hiện đại, chắc chắn tâm hồn của mỗi nhà thơ, nhà văn không khỏi chất chứa những “sóng ngầm”, “bão xoáy”, để rồi họ đưa tất cả vào thơ ca làm nên một thời kì văn chương không yên tĩnh. Văn chương hậu hiện đại đã góp phần không nhỏ làm phong phú thêm cách tiếp nhận cuộc sống từ nhiều chiều. Các nhà văn, nhà thơ tỏ ra năng động, ráo riết và táo bạo trên hành trình tìm kiếm bản sắc, lối đi trong công cuộc sáng tạo của mình. Do đó, sự khai sinh của thời đại cộng với khát vọng thay đổi cuộc sống, thay đổi cách tư duy, cách nghĩ theo tinh thần dân chủ trong sáng tác đã trở thành động lực thúc đẩy các hoạt động sáng tạo. Đây cũng chính là tiêu đề cho sự đổi mới văn chương.

Trong quá trình vận động và phát triển, văn chương Việt Nam đương đại, đặc biệt là các tác phẩm viết theo tâm thức hậu hiện đại đã dung nạp vào trong nó những kĩ thuật mới. Ở đó, các yếu tố hậu hiện đại đã được các nhà văn, nhà thơ lựa chọn, tiếp biến ở nhiều cách thức và mức độ khác như kĩ thuật lạ hóa, bút pháp giễu nhại, nghịch dị, trò chơi ngôn ngữ, nhằm thể hiện tính chất phức tạp quay cuồng của trật tự đời sống, qua đó thể hiện sự bế tắc của con người, sự băng hoại đạo đức, sự đau đáu bơ vơ và bất an của phận người trước thời cuộc.

Chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn chương Việt Nam bắt đầu từ bao giờ? Ai là người tiên phong? Câu hỏi này cho đến nay vẫn thật khó để tìm được câu trả lời. Tùy thuộc vào quan niệm của từng nhà nghiên cứu sẽ có những lựa chọn khác nhau. Theo quan điểm của Lê Huy Bắc: “Tôi thấy Nguyễn Khải là người tiên phong trong lĩnh vực đổi mới văn xuôi từ hiện đại sang hậu hiện đại. Dễ nhận thấy điều này qua việc ông chuyển đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời thường. Song hành với quá trình đó là việc chuyển đổi vai trung tâm: từ người lính với cảm hứng ngợi ca lãng mạn cách mạng (Xung đột, 1959 – 1962; Mùa lạc, 1960) sang người thường dân bé nhỏ với cảm hứng châm biếm mỉa mai, hoài niệm (Gặp gỡ cuối năm, Một người Hà Nội,...). Quá trình chuyển đổi đó được thể hiện ngay từ chính nhan đề truyện. Năm 2003, Nguyễn Khải đã tiếp cận hơn chân lí hậu hiện đại qua Thượng đế thì cười (2003). Tác phẩm tuy về hình thức là tập hồi kí về cuộc đời viết lách của ông nhưng nó cho thấy cái nhìn của ông chênh chao không còn vững chãi như xưa nữa” [42]. Lê Huy Bắc cho rằng Nguyễn Khải là người đầu tiên đổi mới văn học theo hướng hậu hiện đại ở Việt Nam ta. Những tác phẩm của Nguyễn Khải đã có sự chuyển đổi cảm hứng, nhân vật trung tâm rất rõ rệt theo khuynh hướng hậu hiện đại, khác với các tác phẩm văn xuôi truyền thống.

Góp phần tạo tiền đề cho sự đổi mới văn học là các nhà lý luận phê bình, nhà nghiên cứu. Họ là những người đã có công trong việc tiếp biến “mã hóa” để các trào lưu vào Việt Nam một cách rộng rãi. Khi mà luồng văn hóa, văn học phương Tây du nhập vào, họ luôn là người mở ra những chiều hướng cho văn học phát triển. Họ phải tìm những lối nghiên cứu mới, họ phải là những nhà chuyên môn, chuyên nghiệp chứ không phải là những người làm công tác tư tưởng, một ca sĩ trong dàn đồng ca. Trong cuộc hành trình đó, họ đã trang bị cho mình, tìm cho mình một lối đi. Sẽ là không quá khi nói rằng nếu thiếu đi sự nghiêm túc của các nhà nghiên cứu thì nền văn học sẽ không phát triển được. Ở Việt Nam, đội ngũ phê bình, lí luận, dịch thuật còn khiêm tốn, tuy nhiên không vì thế mà làm mất đi tính hiệu quả trong văn chương nghệ thuật. Các lí thuyết hậu hiện đại thường xuyên được giới thiệu, có thể kể đến các tác giả như Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Đỗ Đức Hiểu, Trương Đăng Dung, Đỗ Lai Thúy…đó là những cây bút phê bình lý luận, dịch thuật sắc sảo, đưa ra ý kiến tạo tiền đề cho sự đổi mới. Họ đã tìm tòi những con đường đi mới, thoát khỏi những lối mà người trước đã đi. Dấu hiệu này cho thấy nghiên cứu văn học Việt Nam đang có những dịch chuyển tích cực. Văn chương hậu hiện đại Việt Nam sẽ ngày càng phát triển hơn nữa, hội nhập với nền văn chương thế giới. Nói như ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dũng thì: “Tìm hiểu hoạt động nghiên cứu, phê bình hậu hiện đại trong lĩnh vực văn học mới thấy hết được sự gian khó của cái mới để tồn tại, khi nó phải đối diện với những thái độ ứng xử rất khác nhau, và không phải bao giờ cũng có sự công tâm và sự khách quan khoa học. Thời gian là người thầy của các sự kiện, câu trả lời về hậu hiện đại và tất cả những gì là nội hàm và ngoại diên, tất cả những gì bao bọc lấy khái niệm này sẽ có câu trả lời ở tương lai, một tương lai gần. Nhưng tất cả chúng ta đều buộc phải thừa nhận rằng, cả trên thế giới và ở Việt Nam, hậu hiện đại đã đem đến một nhận thức mới, một luồng sinh khí mới cho đời sống, trong đó có cả cho đời sống văn hóa, văn học”[45]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu sâu về những biểu hiện cụ thể của văn học hậu hiện đại thì có thể nói bài viết của tác giả Nguyễn Hồng Dũng là một trong những công trình nghiên cứu tổng hợp khá công phu về tình hình nghiên cứu - phê bình văn học hậu hiện đại ở Việt Nam hiện nay.

Nếu chủ nghĩa hậu hiện đại nói chung rất khó xác định phạm vi thì đối với thơ hậu hiện đại càng khó khăn bội phần, vì nó không những gắn với cá tính và phong cách của từng nhà thơ mà còn phụ thuộc vào đặc điểm xã hội và truyền thống văn hóa của từng khu vực. Ranh giới giữa thơ hiện đại và thơ hậu hiện đại là rất khó phân định tuyệt đối. Theo Phương Lựu “Trước hết đây là loại thơ không mang đến việc kết tinh ý nghĩa, không hẳn vô nghĩa, nhưng hiểu thế nào thì tùy. Chủ nghĩa hậu hiện đại phủ nhận bên trong hiện tượng có bản chất, bên cạnh ngẫu nhiên có tất yếu, bên dưới vô thức có ý thức, bên sau ngôn từ có ngôn ngữ. Chính vì thế cứu cánh của hành động đan dệt ngôn từ trong sáng tạo thơ không cần thiết mà cũng không thể kết tinh thành một nội dung, ý nghĩa chủ đạo nào cả” [25; 260]. Nhà nghiên cứu Phương Lựu đã nói rõ thêm vấn đề sau ngôn từ có ngôn ngữ của văn học hậu hiện đại. Đây là điều rất quan trọng trong quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học hậu hiện đại. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự du nhập của các trào lưu tư tưởng phương Đông, chủ nghĩa hậu hiện đại đã đi vào và trở thành phong cách sáng tác của một bộ phận lớn các nhà thơ trẻ ở nước ta. Các nhà thơ đã và đang cố gắng đưa nền thơ ca Việt Nam thoát khỏi lối mòn cũ để tiến đến một chân trời mới. Trên cái nền chung ấy, thơ hậu hiện đại đã có một bước phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Các tác giả không ngừng tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới không chỉ nội dung mà cả hình thức biểu đạt. Thơ hậu hiện đại đã góp phần tạo một nền tảng tương đối vững chắc để thơ ca tiếp tục phát triển, hội nhập cùng nền thơ ca nhân loại. Có thể nói ở Việt Nam, Bùi Giáng là nhà thơ đầu tiên sáng tác thơ theo cảm thức hậu hiện đại, hoặc gần như thế. Sáng tác của Bùi Giáng giai đoạn sau, nhất là các bài thơ mà tỉ lệ từ Hán Việt lấn át. Có khi những bài thơ  của ông chỉ là một chuỗi liên hệ âm, vần, phép nói lái trong ngôn ngữ nối tiếp hoặc chồng chéo lên nhau, lồng vào nhau như thể một ma trận chữ vô nghĩa, rồi cả chuỗi hình ảnh, ý nghĩa giẫm đạp lên nhau, xô đẩy, nhảy cóc rối tù mù. Bởi chưa tiếp cận hệ mĩ học của trào lưu văn nghệ này nên cả giới sáng tác lẫn phê bình cứ giật mình mỗi khi nhắc đến hậu hiện đại. Những tác phẩm thơ hậu hiện đại chủ yếu được in photocopy hay được đăng trên báo điện tử. Nếu như nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (đặc biệt là thơ mới và tiểu thuyết) gắn liền với sự ra đời và phát triển của báo chí tiếng Việt thì thơ hậu hiện đại Việt Nam hình thành  và gắn kết chặt chẽ với Website. Trong hành trình đưa thơ ca Việt thoát khỏi quỹ đạo và biên độ chủ nghĩa hiện đại không thể không nhắc đến Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Hoàng Nam, Khế Iêm,… Những tác phẩm của họ tiêu biểu cho phong cách sáng tác theo cảm quan hậu hiện đại. Những tác phẩm đó mang đậm những dấu ấn của thơ hậu hiện đại như mảnh vỡ, dán ghép, giễu nhại, giải nhân cách, bùng nổ ngôn từ theo hướng bình dân và suồng sã. Theo ý kiến của Inrasara các nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự bằng cách hiệu quả nhất là giải thiêng sự thể. Giải thiêng để có cơ hội nhìn nhận thực tại bằng một cảm thức khác. Mang tư tưởng tự do, các nhà thơ hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại chúng muốn tác động vào xã hội. Đồng thời, thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác. Do vậy, đội ngũ sáng tác thơ hậu hiện đại lúc này xuất hiện những gương mặt nữ có cá tính riêng như Giáng Vân, Vi Thùy Linh, Lê Thị Thẩm Vân... Với những hình thức và phương tiện khác nhau, họ sáng tạo nên các phong cách, các bộ mặt, các  giọng điệu khác nhau. Xu hướng đổi mới thơ triệt để, từ hình thức cho đến nội dung theo hướng hậu hiện đại, đây là xu hướng hậu hiện đại toàn diện và “có ý thức”. Có thể kể đến một số cây bút trong xu hướng này như Khế Iêm, Trần Tuấn, Inrasara, Bùi Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, Đặng Thân… đặc biệt là thơ tân hình thức, thơ văn xuôi, kịch đường phố, thơ trình diễn…Tuy nhiên, những sáng tác của họ đa phần mới chỉ dừng lại ở mức những thể nghiệm ban đầu và chưa thực sự dấn thân vì nó. Hàng loạt những cách tân khiến cho bộ mặt thơ hậu hiện đại nói riêng và nền thơ ca đương đại Việt Nam nói chung càng thêm phong phú. Nhìn nhận một cách khách quan tinh thần hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đã thể hiện được cảm quan của thời đại với những phương thức biểu hiện đầy mới mẻ. Tuy nhiên, trong quá trình mải mê đi tìm cái mới, một số cây bút sa đà, nhầm tưởng hậu hiện đại là phá cách, là khác người nên họ sử dụng từ ngữ tục tĩu, nổi loạn...mà không chú ý đến truyền thống văn hóa của dân tộc. Việc thúc đẩy tính hiện đại mới mẻ trong thơ không đơn thuần là chạy theo mốt thời thượng mà người nghệ sĩ phải biết chọn lọc, thể hiện đúng tinh thần của thời đại. Đảm bảo tính cá nhân nhưng đồng thời vẫn giữ được bản chất thuần khiết, chức năng thẩm mỹ của thơ ca.

Mỗi lí thuyết đang trên hành trình tiếp nhận vào một nền văn hóa, không phải lúc nào cũng có thể khẳng định được vị trí và chỗ đứng của mình ngay, đặc biệt lý thuyết ấy lại được thơ vận dụng – một vấn đề khó nắm bắt của thế giới tâm hồn con người. Nếu quá trình tiếp nhận những trường phái lý luận phương Tây ở Việt Nam như thi pháp học, tu từ học, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức Nga…các cách hiểu thường mang tính bổ sung, làm tiền đề cho nhau thì ở hậu hiện đại, ở mỗi nhà nghiên cứu lại có những quan điểm trái ngược, thậm chí tranh luận gay gắt. Một số nhà nghiên cứu có xu hướng tin tưởng vào những thành tựu mà chủ nghĩa hậu hiện đại có thể mang lại cho nền văn học Việt Nam, tiêu biểu có Nguyễn Hưng Quốc, Inrasara, Phùng Gia Thế… Các nhà nghiên cứu này đều xem lý thuyết văn học hậu hiện đại một khi được du nhập vào đời sống văn học nước nhà sẽ tạo ra tiền đề cơ bản, nhằm đổi mới triệt để nền văn học Việt Nam. Các luận điểm được đưa ra nhằm chứng minh cho tính khả dụng của văn học Việt Nam bao gồm: Thứ nhất, lý thuyết hậu hiện đại sẽ giúp cho nền văn học nước nhà bắt kịp và hòa chung với tâm thế và trình độ của nền văn học thế giới. Thứ hai, văn học hậu hiện đại với tính đả phá đại tự sự mạnh mẽ, chủ trương không ngừng giải cấu trúc các hiện tượng đã có, đi kèm với tính chất dung hợp bảo vệ cho các “tiểu tự sự”, cái đối lập, cái khác, sẽ khiến nền văn học Việt Nam phá bỏ sức ì, phát triển một cách đa màu sắc hơn, mang tính đối thoại hơn. Ngược lại, những nhà nghiên cứu có quan điểm xem lý thuyết hậu hiện đại sẽ mang lại nhiều tác hại hoặc không có lợi gì đáng kể cho nền văn hóa, văn học nước nhà như Đỗ Minh Tuấn, Bùi Công Thuấn… Họ xem chủ nghĩa hậu hiện đại là một “yêu nữ”, “bóng ma chập chờn”, “một con ma hậu hiện đại” [21]. Với các nghiên cứu này, chủ nghĩa hậu hiện đại đã du nhập vào Việt Nam dưới những mặt trái và tiêu cực, làm biến đổi các giá trị văn hóa, hoặc đã có những âm mưu sử dụng thuật ngữ hậu hiện đại để gán cho những sự kiện văn hóa suy đồi.

Không thể phủ nhận rằng, những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, hậu hiện đại là một trong những tiêu ngữ mang lại nhiều nguồn cảm hứng và sự quan tâm nhất của cả giới sáng tác và nghiên cứu - phê bình văn học ở Việt Nam. Dù muốn hay không, nền văn học Việt Nam vẫn không thể chối từ cái khí quyển chung của thời đại, chính vì vậy, tuy còn nhiều bất cập, nhưng hậu hiện đại vẫn là giai đoạn phát triển mang tính tất yếu trong văn học nước nhà. Từ sự nhận thức đó, thơ Việt Nam trên hành trình dấn bước theo con đường hậu hiện đại, còn vấp phải nhiều chông gai. Đó là ý thức giữa việc bảo tồn bản sắc hay lai căng mất gốc, đổi mới triệt để hay kế thừa cơ bản. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào người sáng tác, sự tương tác của độc giả và cả giới phê bình nghiên cứu.

1.2. Thơ Mai Văn Phấn trong quá trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1986

1.2.1. Những đổi mới của thơ Việt Nam sau 1986

Giai đoạn từ năm 1986 đến nay ghi nhận sự chuyển mình mạnh mẽ của thơ ca từ nội dung đến hình thức. Các nhà thơ đã và đang cố gắng đưa nền thơ ca Việt Nam thoát khỏi lối mòn để đi vào một chân trời mới. Trên cái nền chung ấy, thơ ca đã có bước phát triển vượt bậc cả về số lượng và chất lượng, đóng góp một phần không nhỏ vào việc đưa văn chương Việt Nam hội nhập cùng nền văn chương nhân loại. Trong Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi đã nhận định “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống. Tóe lên ở nơi giao nhau giữa tâm hồn và ngoại vật, trước hết là những cảm xúc” [67]. Hiện thực và tư duy cuộc sống thay đổi thơ ca cũng phải tìm được hướng đi mới cho mình thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Từ sau 1986, thơ ca tìm về với cuộc sống đời thường, khai thác những đề tài gần gũi nhất trong xã hội và trong tâm hồn cá nhân con người. Thơ ca suốt chặng đường từ đó đến nay phát triển cùng “ý thức cởi trói” “để xác lập một quan niệm mới về nghệ thuật”. Có thể nhìn nhận thơ ca giai đoạn này như ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp: “Ý thức nhìn nhận cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng về đời sống” [8; 31]. Các nhà thơ đang “nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn dấu” dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để đi tìm những giá trị mới” [8; 31]. Thơ ca đưa cái tôi trở về sau nhiều năm hòa nhập cùng cái ta cộng đồng do điều kiện khách quan của lịch sử. Cùng với sự trở lại ý thức cá nhân là cái nhìn đa chiều về cuộc sống, về những gì vốn đã quá ổn định xưa nay. Mặc dù chiến tranh trôi qua chưa lâu nhưng nếu đặt nó trong tương quan với lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc dễ nhận thấy một thực tế: các nhà văn đã có một độ lùi cần thiết đề nhìn về cuộc chiến bằng cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn. Trước đây hiện thực hiện lên trong tác phẩm thường là hiện thực “nhìn thấy” thì nay chiến tranh chủ yếu hiện lên trong kí ức. Cùng với công cuộc đổi mới năm 1986, tư duy cuộc sống thay đổi mở ra một chân trời mới cho thơ ca. Không còn bị gò ép, chi phối về mặt tư tưởng, các nhà thơ bây giờ không còn muốn đứng mãi trong dàn đồng ca đơn điệu, họ muốn được nói lên tiếng nói của chính mình, sống thật với từng rung động của con tim. 

Năm 2002 cùng với sự ra đời của hàng loạt website văn học tiếng Việt, văn học hậu hiện đại có bước phát triển đột phá, đặc biệt trong lĩnh vực thơ. Internet và các loại hình thông tin bùng nổ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà văn, nhà thơ trẻ có cơ hội tiếp cận với mọi trào lưu văn học trên thế giới và văn học hậu hiện đại cũng không ngoại lệ. Theo Inrasa, nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự bằng cách hiệu quả nhất là giải thiêng sự thể. Mang tư tưởng tự do, nhà thơ hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại chúng muốn tác động vào xã hội. Đồng thời thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác.Trước đây, các nhà thơ dường như ngại đề cập đến những mặt trái của cuộc sống thì đến thời kì này thơ nhìn thẳng vào cuộc đời bằng những cái nhìn không giấu diếm, quanh co. Và cũng đến giai đoạn này, xu hướng văn học hiện đại, văn học hậu hiện đại phát triển mạnh mẽ. Từ cái nhìn hiện đại, hậu hiện đại, thơ Việt đã đặt các nhà thơ trước một thực tế: nếu quay lại với cách cảm cũ, cách nói cũ thì có nghĩa là anh ta đã chấp nhận hậu quả “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuy nhiên trong quá trình chạy theo hướng hiện đại này đã có rất nhiều cây bút nhầm tưởng. Họ cứ nghĩ đổi mới theo hướng hiện đại, hậu hiện đại là phải dùng những từ ngữ tục tĩu hay dùng những từ ngữ thời thượng, nổi loạn… Tuy nhiên thực tế không phải như vậy. Cái quan trọng nhất là các tác phẩm phải thể hiện được chân dung tinh thần của thời đại hậu chủ nghĩa cũng như tâm thức của con người trong xã hội hiện nay. Điều đó đòi hỏi họ phải tìm ra một hình thức tổ chức diễn ngôn mới, cách tạo âm và tạo nghĩa mới. Việc thúc đẩy tính hiện đại trong thơ không phải là chạy theo những thời thượng nghệ thuật mà quan trọng hơn nhà thơ phải thể hiện được tinh thần hiện đại trong tác phẩm của mình. Trong nghệ thuật hiện đại và nhất là hậu hiện đại con người có ý thức nêu lên quan điểm cá nhân và chống lại những quan điểm mang tính toàn trị. Dù đổi mới thế nào đi chăng nữa thì thơ ca vẫn phải là tiếng nói hồn nhiên nhất, nguyên sơ nhất và giàu tính nhân bản nhất của con người về cuộc sống, vì sự cao đẹp của con người.

Trong một thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, người nghệ sĩ sẽ có cơ hội lựa chọn nhiều cách để trình bày tư tưởng của mình. Từ đội ngũ sáng tác mới, nền văn học nước nhà có cơ hội quảng bá văn chương Việt ra nước ngoài. Vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó không chỉ tác động đến cách thế giới nhìn nhận bản sắc văn hoá Việt ra sao mà còn khơi dậy niềm tự hào về thành tựu văn học của dân tộc. Nó gián tiếp thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ trong lĩnh vực du lịch - ngành được mệnh danh là “ngành công nghiệp không khói”. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã khai thác hiệu quả những thành tựu văn chương trong quảng bá đất nước, con người để thu hút khách du lịch, thậm chí là thu hút cả những nhà đầu tư nước ngoài. Điều đáng mừng là, trong công cuộc đổi mới này, tuy chúng ta đang đi sau thời đại nhưng không phải là một khoảng cách quá xa. Một phần lớn lợi thế đó là nhờ công lao tiếp nhận lý thuyết hậu hiện đại vào Việt Nam khá hiệu quả. Thách thức vẫn còn ở phía trước, bởi công cuộc hiện đại hóa lần thứ nhất đã để lại quá nhiều thành tựu (thơ Mới, văn xuôi lãng mạn, văn xuôi hiện thực…). Thế nên, công cuộc đổi mới thời nay cần cố gắng rất nhiều để hoàn thiện nền văn chương dân tộc. Đúng như nhận định của Inrasara: “Nếu không tiếp nhận ngay từ hôm nay, tôi e rằng chúng ta tiếp tục chương trình làm kẻ trễ tàu thời đại” [49]. Mặc dù mang lại nhiều thành tựu, nhưng các tác phẩm thuộc xu hướng này mới chỉ dừng lại ở dạng mang “yếu tố”, “dấu ấn” hậu hiện đại, chứ chưa thể hoàn toàn xem đó là các sáng tác mang đầy đủ diện mạo và bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại. Cũng chính bởi lý do này, nên mới có sự tranh luận, nghi ngờ diễn ra thường xuyên ở những năm qua trong giới phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam về việc phân định và xác định các tác phẩm, tác giả hậu hiện đại. Trong chỉ hơn ba mươi năm, vừa tiến hành tiếp thu lý thuyết, vừa triển khai ứng dụng vào sáng tác, lại phải vừa tiến hành việc tiếp thu và ứng dụng nhiều hệ hình lý thuyết văn học khác, có thể nói văn học theo xu hướng hậu hiện đại Việt Nam đã có những thành tựu nổi bật, không thể không tính đến trong phê bình nghiên cứu văn học. Mặc dù vẫn còn nhiều tiếng nói e ngại, nhiều cái nhìn phiến diện, những sự rụt rè và hoài nghi về hệ hình lí thuyết văn học này nhưng không thể phủ nhận rằng, những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, hậu hiện đại là một trong những tiêu ngữ mang lại nhiều nguồn cảm hứng và sự quan tâm nhất của cả giới sáng tác và nghiên cứu - phê bình văn học ở Việt Nam. Dù muốn hay không, nền văn học Việt Nam vẫn không thể chối từ cái khí quyển chung của thời đại. Chính vì vậy, tuy còn nhiều bất cập, nhưng hậu hiện đại vẫn là giai đoạn phát triển mang tính tất yếu trong văn học nước nhà. Từ sự nhận thức đó, thơ Việt Nam trên hành trình dấn bước theo con đường hậu hiện đại còn vấp phải nhiều chông gai. Đó là ý thức giữa việc bảo tồn bản sắc hay lai căng mất gốc, đổi mới triệt để hay kế thừa cơ bản. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào người sáng tác, sự tương tác của độc giả và cả giới phê bình nghiên cứu. Trong thời gian hơn ba mươi năm qua đã tạo được một nền tảng tương đối vững chắc để thơ ca Việt tiếp tục phát triển, hội nhập cùng nền thơ ca hậu hiện đại thế giới.

1.2.2. Thơ Mai Văn Phấn - nỗ lực cách tân theo hướng hậu hiện đại

Mai Văn Phấn được xem là một trong những gương mặt cách tân nổi bật của thơ Việt Nam đương đại. Thơ ông đã tạo được những dấu ấn rất riêng trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của thơ ca nói chung với tư cách “một nhà thơ rất chuyên nghiệp, chuyên sâu và nhiều ý tưởng mới” [38; 278].  Trong thơ của Mai Văn Phấn, mỗi một thi phẩm là “một thể nghiệm để có được một phát hiện mới, một ghi nhận mới về sự cách tân” [38; 284]. Mai Văn Phấn luôn coi quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc “vong thân”, một cuộc vượt thoát chính bản thân mình. Mỗi nhà thơ phải biết tự phủ định mình, tức là phải coi cái mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới mong đạt đến thành công đỉnh cao trong nghệ thuật. Ông cho rằng, bài thơ mà nhà thơ viết ra không còn thuộc về anh ta nữa mà thuộc về độc giả. Và nhà thơ muốn tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong một bài thơ khác đang chờ đợi phía chân trời: "Tôi quan niệm tác phẩm sau khi được công bố tồn tại độc lập với người làm ra nó (...). Tôi không có thói quen chiêm bái những con đường cũ của mình, không “quay vái lậy chiếc áo vừa treo lên giá" [38; 368]. Không chỉ dừng lại ở đó, Mai Văn Phấn còn xem vấn đề cách tân là vấn đề trung tâm trong quan niệm thơ của mình. Ông dùng từ “vong thân” để nói đến quá trình vượt thoát khỏi cá tính của người nghệ sĩ. Mai Văn Phấn cho rằng: “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất đã cằn cỗi” [38; 399]. Mà quá trình “vong thân” thường đồng hành với quá trình đổi mới thi pháp. Với Mai Văn Phấn: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại”[38; 378]. Nói thì dễ mà làm mới khó. Ai đã từng làm thơ đều biết rằng, đổi mới thi pháp luôn là con đường đầy khó khăn và hiểm trở. Nó đòi hỏi ở người làm thơ một bản lĩnh, một nghị lực, một sự quyết tâm cao độ và hơn thế là một tài năng thực sự. Nhưng điều đáng trân trọng ở Mai Văn Phấn là lời nói luôn song hành cùng hành động. Hơn ai hết, là một con chiên của Chúa, Mai Văn Phấn hiểu rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Thánh Gia-cô-bê). Vì thế, trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Mai Văn Phấn luôn tâm niệm: “Các khuynh hướng sáng tác đều rất cần và làm phong phú thêm cho nền thi ca của chúng ta. Hiện chúng ta vẫn còn hồ nghi vì còn quá ít tài năng cho những “thể nghiệm” được thuyết phục” [48; 439]. Bàn về vấn đề đổi mới thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ - tình – cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân” [22; 420].

Quả đúng như vậy, sau năm 1986, tư duy nhận thức của con người về cuộc sống thay đổi, đòi hỏi kéo theo đó là sự đổi mới văn chương để bắt kịp xu thế thời đại. Mai Văn Phấn đã nỗ lực hết mình đưa thơ Việt hòa nhập với nền văn chương thế giới. Những tập thơ của ông ngày càng có sự cách tân mãnh liệt, bỏ qua hơi hướng thi pháp truyền thống và đến gần hơn với văn chương hậu hiện đại. Và những thành tựu ông mang lại là không nhỏ. Nhìn lại chặng đường sáng tác của ông, ta thấy rõ cả một quá trình vận động mạnh mẽ, quyết liệt, đổi mới cả về nội dung và hình thức thể hiện. Nỗ lực thay đổi liên tục lối thể hiện như thế – từ Giọt nắng (1992), Gọi xanh, Cầu nguyện ban mai, Nghi lễ nhận tên, trường ca Người cùng thời cho đến những tập thơ mới nhất: Lặng yên cho nước chảy, Tĩnh lặng, Thời tái chế (2018) và cả hàng trăm bài thơ lẻ đăng trên Website các nơi, mỗi tập thơ, mỗi giai đoạn là một tìm tòi phong cách độc đáo hơn, mới và khác hơn.

Sự cách tân trong thơ Mai Văn Phấn biểu hiện qua hệ thống ngôn ngữ đa dạng kết hợp một cách linh động với nhiều biện pháp tu từ để tạo nên sự lạ hóa mang hiệu ứng thẩm mĩ cao. Sự phá cách nhưng vẫn lấy nền tảng tư tưởng cổ điển làm nòng cốt đã tạo cho ông có một phong cách độc đáo riêng biệt. Nhiều bài thơ, tập thơ của ông đã được giới phê bình nước ngoài đánh giá cao. Mai Văn Phấn đã xuất bản 16 tập thơ và một công trình phê bình - tiểu luận trong nước; 15 tập thơ xuất bản ở nước ngoài. Thơ ông đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng (tính đến tháng 10/2019 và vẫn còn tiếp tục được dịch ở một số thứ tiếng khác nữa); xuất hiện trong hơn 50 tuyển tập thơ và tạp chí quốc tế: tập thơ tiếng Thụy Điển Igar - Tolv vietnamesiska poeter (Cho ngày hôm qua - Mười hai nhà thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Tranan, 2009), do Erik Bergqvist chuyển ngữ; Tạp chí Poetry NZ 36 (New Zealand) 5 & 6 (Anh); Tạp chí Poesy 33, Fulcrum 3, Nhà văn Viết tập 6, 7 & 8, Wordbridge (Hoa Kỳ); Tạp chí Thơ và Bình luận (Hàn Quốc); Tạp chí Hạt nhân Softblow (Singapore), Báo Văn học (Indonesia)…Thành công trong sáng tác của Mai Văn Phấn đã được ghi nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ năm 1995, chuỗi giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994, 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tập thơ Bầu trời không mái che năm 2010; Giải thưởng văn học Cikada của Thụy Điển trao năm 2017 (Giải Cikada được sáng lập năm 2004 và được trao cho các nhà thơ Đông Á, nơi "cảm quan thơ ca của họ chỉ ra tính bất khả xâm phạm của đời sống) và mới đây nhất là giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia Cộng hòa Serbia được trao năm 2019. Mỗi tập thơ là sự bứt phá, đổi mới khỏi chính mình của tác giả để thực hiện sứ mệnh cách tân thơ Việt theo hướng đi tìm một diện mạo riêng cho thơ dân tộc, làm giàu thêm truyền thống thơ dân tộc. Tài năng và nghị lực là yếu tố cơ bản giúp Mai Văn Phấn khẳng định được vị trí của mình. Thơ cách tân theo hướng hậu hiện đại của ông mềm mại uyển chuyển, là sự thăng hoa về mặt cảm xúc và ngôn từ được mã hóa bằng trí tuệ của một con người từng trải. Ông đã vẽ nên một màu sắc riêng, mới và lạ, hòa chung trong dòng chảy của nền thơ ca đương đại Việt Nam. Để thể hiện được nhiều cung bậc tình cảm, suy tư trước đời sống nhân sinh, thế sự, Mai Văn Phấn  đã sử dụng rất linh hoạt các thể thơ, trong đó thành công nhất là thể thơ tự do. Thơ tự do của Mai Văn Phấn là sự kết hợp giữa thơ không vần và thơ văn xuôi đã làm nên một giọng điệu riêng biệt và mới lạ. Ở đó người viết đã bỏ qua hết những vần điệu để tìm về với sự tự do trong cảm hứng, những câu thơ thực sự thoát khỏi mọi sự ràng buộc để có thể chuyển tải tốt nhất cảm xúc của nhà thơ, sự đa dạng, phức tạp của đời sống. Mai Văn Phấn dụng công tìm kiếm khả năng thể hiện ý tưởng bằng nhiều cấu trúc câu thơ dài ngắn khác nhau. Có lúc câu thơ được dồn nén, cô đặc có lúc lại chảy tràn bung phá. Cảm xúc dạt dào của thi sĩ đã vượt qua mọi luật lệ khuôn khổ của thơ truyền thống. Sự gián đoạn trong cấu trúc câu thơ, bài thơ cũng là một đặc điểm khác biệt của thơ anh so với thơ truyền thống. Sự gián đoạn đó được hình thành trên sự đồng hiện, phân mảnh hoặc lắp ghép hình ảnh khiến cho câu thơ mất đi quan hệ nhân - quả theo chiều tuyến tính. Phương thức này giúp gia tăng độ căng của cảm xúc. Sự cách tân trong hệ thống cấu trúc hình ảnh, biểu tượng và ngôn ngữ trong thơ Mai Văn Phấn cũng rất đáng chú ý. Trong thơ ông, hình ảnh được sử dụng với cường độ cao, câu thơ chất chồng những hình ảnh, nhưng đó thường là những hình ảnh vừa mang tính hiện đại vừa mang âm hưởng bản sắc riêng của dân tộc bình dị, gần gũi. Trong thơ Mai Văn Phấn, biểu tượng gần gũi, hài hòa với thiên nhiên, đời sống con người. Với những tìm tòi và cách tân về cấu trúc thơ, hình ảnh, biểu tượng, ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ, Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ mới có thể chuyển tải được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng, với nhiều cung bậc tình cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức trách nhiệm với con người và cuộc sống. Mai Văn Phấn là một trong rất ít nhà thơ tiêu biểu nhất của thơ hậu hiện đại Việt Nam góp phần đưa thơ hậu hiện đại Việt Nam hội nhập với nền văn chương nhân loại.

*

*       *

Hậu hiện đại không phải là chủ nghĩa nghệ thuật thuần tuý, mà là trào lưu văn hoá mang tính toàn cầu, tác động rộng lớn đến nhiều mặt trong đời sống văn hoá xã hội của nhiều quốc gia. Văn học hậu hiện đại vì thế cũng mang tính phổ quát. Người sáng tác văn chương hậu hiện đại phải mang đầy đủ cảm thức hậu hiện đại, với những phương thức thể hiện mới. Để thể hiện thành công một tác phẩm hậu hiện đại không hề đơn giản. Các nhà thơ Việt Nam thời kì đổi mới trong những năm gần đây đã vận dụng các thủ pháp hậu hiện đại một cách sáng tạo. Nhìn chung sự cách tân đã có thu nạp những yếu tố của hậu hiện để tạo nên bức tranh thơ đa dạng hơn. Trong hành trình sáng tạo, Mai Văn Phấn đã góp phần cùng các nhà văn, nhà thơ khác đưa văn chương nước ta hội nhập với văn chương nhân loại.

 

 

 

CHƯƠNG 2


DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
NHÌN TỪ CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI

 

Văn học nghệ thuật là một phạm trù thuộc ý thức xã hội, là sự đánh giá chủ quan về thế giới khách quan của nhà văn. Xã hội Việt Nam sau “đổi mới” vừa là cơ hội vừa là thử thách đối với mỗi nghệ sĩ. Nhiều nhà văn, nhà thơ phản ánh hiện thực theo những quan điểm và những cách nhìn hoàn toàn mới, trong đó có cảm quan hậu hiện đại. Cảm quan hậu hiện đại là phạm trù then chốt của hậu hiện đại. Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Con người hậu hiện đại nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, sự thay đổi các thang bậc giá trị, sự hoài nghi về một mẫu hình thế giới lý tưởng và chân lý, sự vong thân của con người trước ngưỡng cửa bất an của xã hội hậu hiện đại. Kéo theo đó là sự mất niềm tin vào sự áp đặt của cái chính thống, con người rơi vào tâm trạng cô đơn, lạc loài... Đấy là tinh thần chung nhất. Còn sự thể hiện chúng trong văn chương lại khá đa dạng, phức tạp. Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn thể hiện trước hết, rõ nhất là từ cảm quan hiện thực đời sống, con người.

2.1. Cảm quan về cuộc sống trong thơ Mai Văn Phấn

Nếu như chủ nghĩa hiện thực cổ điển khát khao mãnh liệt một trật tự đời sống mới (cái cần phải có) để thay thế cho cái hiện tồn, chủ nghĩa hiện đại muốn tạo ra trật tự từ việc điều chỉnh cái hỗn độn của đời sống thì ở chủ nghĩa hậu hiện đại cảm quan phổ biến của nhà văn là: không còn tin vào cái gì tốt đẹp, nền tảng, không tin vào cái lí tưởng ở cả ba thì: quá khứ, hiện tại và tương lai. Đành rằng trong sâu thẳm, người nghệ sĩ chân chính không bao giờ hết ước mơ. Nhưng cũng phải thừa nhận tinh thần hoài nghi, hư vô chủ nghĩa ở đây là có thật. Nhà văn dường như chỉ còn lại niềm tin sau cùng: tin rằng cuộc đời vốn không thể khác.

Cảm quan hậu hiện đại, xét ở phương diện chung nhất là như thế. Còn trong thực tiễn sáng tác của mỗi nghệ sĩ, sự biểu hiện cảm quan này lại có những nét đặc thù. Cảm quan hậu hiện đại trong thơ không chỉ thể hiện ở chỗ nhà văn tái hiện sự hỗn loạn của đời sống, mà quan trọng hơn, chính là một nguyên tắc nhìn đời sống của nhà thơ: đời sống như là một sự hỗn độn, không còn tiêu chuẩn giá trị và định hướng có ý nghĩa nào. Nhà văn xem bản chất thế giới là hỗn mang, anh ta chấp nhận sự hỗn độn như là một sự kiện…Và theo đây, sự dịch chuyển về tâm thức hậu hiện đại trong văn chương của ta còn thể hiện ở chỗ: trước cái hỗn loạn, đổ vỡ, tai biến của hiện thực, thay vì “khóc than”, “đề kháng”, hay “nỗ lực chữa trị”, nhà văn lại “xâm nhập vào nó bằng một tình cảm mật thiết”, thậm chí, anh ta còn “chơi cùng cái hỗn loạn”…

2.1.1. Hiện thực thế giới đa chiều

Chủ nghĩa hậu hiện đại là sự khước từ các đại tự sự, những chủ thuyết lớn nhằm muốn thiết lập một trật tự xã hội ổn định của thời hiện đại. Nhiều phát biểu của các nhà lý luận hậu hiện đại nhấn mạnh tính “chống lại quyền uy”. Chủ trương “bất tín nhận thức” và “giải trung tâm hóa” tất cả. Thực tiễn đời sống là chất liệu, là nguồn cảm hứng để người nghệ sĩ phản ánh vào tác phẩm với cảm xúc chủ quan của mình. Trước hiện thực đời sống mới, Mai Văn Phấn là nhà thơ đã có những cảm quan mới về thế giới. Biểu hiện trong thơ ông mang một cảm thức sáng tác mới (cảm quan hậu hiện đại) phản ánh hiện thực cuộc sống đa chiều, trên bình diện chiều rộng lẫn chiều sâu.

Với nhà thơ Mai Văn Phấn, tình yêu quê hương đất nước luôn ấp ủ trong tim và nó đã phát triển thành niềm tự hào, lòng biết ơn sâu sắc. Đất nước tươi đẹp hôm nay không thể nào có được nếu không nhờ máu xương của các vị anh hùng dân tộc đã anh dũng ngã xuống. Họ lên đường ra trận khi đang độ xuân xanh, có những người mãi mãi nằm xuống khi đang còn son trẻ, máu của họ đổ xuống để đất nước được nở hoa. Chúng ta - thế hệ hôm nay không thể nào làm ngơ trước sự hi sinh cao cả đó. Tên tuổi của họ phải được lưu danh sử sách, phải được con cháu đời đời ca tụng:

Tháng ngày gương lược về đâu

Chân trời để xõa một màu cỏ non

Nhang này quặn nỗi đau xưa

Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.

(Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc)

Bài thơ đã lột tả tận cùng tâm trạng Mai Văn Phấn khi đứng trước những ngôi mộ mười cô gái thanh niên xung phong hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc trong thời kỳ ác liệt nhất của cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đấy là một tâm trạng hàm ơn, da diết nhớ thương và thấu hiểu tận cùng sự hy sinh của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc cũng như bao người con yêu khác đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc để đem lại sự sống vĩnh hằng cho Tổ quốc chúng ta. Đứng trước ngôi mộ mười nữ thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ da diết nhớ thương, bồi hồi xúc động khi mường tượng tới những vật dụng của họ. Gương lược, bồ kết, khăn thêu của các cô như vẫn còn kia, in đậm “dấu tay gầy”. Những vật dụng ấy không còn tĩnh mà trở nên thiêng liêng và sinh động vô cùng trong sự mường tượng của nhà thơ, khi nhìn “gương lược” nhà thơ như thấy cả mái tóc xanh rờn “xõa” vào nền trời thành “màu cỏ non”; hay khi nhìn tấm khăn in dấu tay thêu của người con gái, nhà thơ như thấy ở đó là cả một trời mây bay. Mây bay trắng trời hay là vành khăn tang của nhân dân, của trời đất tưởng nhớ khôn nguôi những người con đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Thơ kiệm lời mà giàu sự gợi mở, liên tưởng. Chỉ giây phút ngắn ngủi mà nhà thơ như gặp lại chính người thân của mình đang nằm lại nơi đây, qua tiếng gọi gần gũi, thân tình: “Người ơi, tôi lại gặp người”.  Dường như khi sắp phải rời ngã ba này, nhà thơ ra về trong tâm trạng bâng khuâng không thể kìm nén khi cắm những nén nhang lên từng phần mộ trong nghĩa trang. Truyền thống quý báu “ăn quả nhớ người trồng cây” của dân tộc đã được nhà thơ diễn đạt qua hình ảnh “cơn mưa về nguồn”. Đấy cũng là nét đặc trưng thơ Mai Văn Phấn gắn chặt truyền thống với hiện đại.

Trong thơ Mai Văn Phấn, những nỗi hoài nghi đã xuất hiện bên cạnh niềm tin cuộc sống. Những vấn đề của đời sống con người thời đại và cả những vấn đề nhân loại cũng đã được đặt ra bên cạnh tình yêu quê hương đất nước. Mạch cảm xúc trong thơ Mai Văn Phấn hướng về đời thường, những chuyện bây giờ mới kể bởi trước đây không được kể, không nên kể trong thơ, những chuyện tầm phào như: gieo giống, mắc võng, cỏ, cây… Đằng sau những câu chuyện ngỡ như phiếm ấy là những suy tư chiêm nghiệm của nhà thơ về thân phận con người và cuộc sống. Thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, xã hội và nhân sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá. Vậy nhưng nhà thơ lại đang phải chứng kiến cuộc sống gắn bó với mình là sự lạc hậu, chậm tiến quá so với thế giới bên ngoài. Người người, nhà nhà e dè trước sự đô thị hóa, trước sự phát triển đi lên của xã hội:

Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất

Đất ở dưới chân mà cao hơn những suy nghĩ của mình

Đêm thai nghén những thị thành trứng nước

Ai ấy còn ngơ ngác trước văn minh.

Trong bóng tối lùm cây tôi chợt nhận ra mình

Với nỗi e dè từ cái thời Văn Lang lúa nước

Nỗi e dè tự thắp mình thành ngọn nến mùa thu đi rước đuốc

Và ngôi nhà của mẹ là chiếc đèn lồng lặng lẽ sáng dần lên.

(Nhật kí đô thị hóa)

Mai Văn Phấn buồn vì sự lạc hậu của làng quê xứ sở trước sự tiến bộ của văn minh nhân loại. Ông đã nhìn thấy những ánh sáng bắt đầu lóe lên, rồi đây mảnh đất quê hương, đất nước ông cũng sẽ văn minh như thế. Giọng thơ của ông mang một niềm tin mãnh liệt. Những đô thị rồi sẽ mọc lên từ nơi đây, giờ đây đang là quá trình thai nghén. Chỉ cần con người dẹp bỏ đi sự e dè từ thời xa xưa thì nền văn minh sẽ nhanh chóng chạm ngay đến đích.

Mỗi bài thơ của Mai Văn Phấn là những câu chuyện thơ về cuộc sống như những tiểu tự sự. Đó là một câu chuyện đời thường, kể về một cuộc đời, một con người, một sự việc:

Xuống núi gánh nước tưới cây

Về đến sân chùa

Trời đổ mưa

(Chú tiểu chùa nghèo)

Bài thơ kể về hình ảnh chú tiểu ở một ngôi chùa nghèo trên núi. Một ngày, chú tiểu quang gánh xuống núi gánh nước về tưới cây vì lâu ngày không có mưa sợ cây cối khô héo.  Trớ trêu thay khi chú tiểu vừa về đến sân chùa cũng là lúc trời đổ cơn mưa. Bài thơ phát ra tiếng cười, nhưng đó không phải là tiếng cười châm biếm, giễu nhại mà là tiếng cười chua xót cho những điều trớ trêu trong cuộc sống. Cuộc sống không phải bao giờ cũng màu hồng, thuận theo những gì mình mong muốn mà nhiều khi đi ngược lại. Chúng ta phải biết vui vẻ chấp nhận, đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống một cách lạc quan:

Vũng nước nhỏ dưới chân núi

Soi

Tận đỉnh.                       

(Cái nhìn)

Bài thơ ngắn gọn, chỉ vẻn vẹn có ba câu nhưng mang diễn đạt ý nghĩa trọn vẹn, sâu sắc. Câu thơ thứ nhất đã có ý ngầm hướng người đọc suy nghĩ tới hình ảnh vũng nước nhỏ đó ở một vị trí nghệ thuật "dưới chân núi" đã tạo nên hai hình ảnh tương phản cả về vị trí không gian và hình khối không gian. Đến câu thứ hai thu gọn chỉ trong một động từ "soi" đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều hàm ý. Vũng nước trở thành tâm điểm tập trung mọi ngầm ý. Tuy nó nhỏ bé nhưng vì là nước mà lại rất trong nên nó có thể soi hình mọi thứ phía trên nó. Thật thú vị và sâu sắc làm sao! Đến câu thứ ba chỉ lắng đọng hai chữ "tận đỉnh" cực đắt. Từ "tận" nhấn mạnh tuyệt đối khả năng soi bóng hình của vũng nước nhỏ. Ô, hóa ra vũng nước nhỏ mà không nhỏ tý nào bởi nó nuốt gọn cả hình ảnh ngọn núi cao lớn bên nó vào tận đáy lòng. Thật tuyệt! Từ đây ta có cái nhìn sâu sắc về cuộc sống con người. Sự thanh lọc trí tuệ và tâm hồn, sự tự do tuyệt đối sẽ giống như vũng nước nhỏ kia, nó có thể chế ngự và làm chủ được những gì lớn hơn nó rất nhiều.

Không chỉ là một câu chuyện, mỗi bài thơ của Mai Văn Phấn còn là một bức tranh tuyệt đẹp với chỉ vài nét phác thảo. Ông đã sử dụng ngòi bút tài hoa của mình để chụp lại những khoảnh khắc luân chuyển nguyên sơ, tự nhiên, thuần khiết của thiên nhiên vạn vật cũng như vẻ đẹp tâm hồn thánh thiện, nồng hậu của con người:

Thả bầu vú

Đọt mầm

Nhú                          

(Nắng xuân)

Những tia nắng ấm mùa xuân như một bầu sữa tươi rót sức sống xuống nuôi sống muôn loài. Sau cái giá lạnh của mùa đông cỏ cây trơ trụi lá, cành khẳng khiu, mùa xuân đến mang lại sức sống cho vạn vật. Từ những thân cây khô héo, khẳng khiu kia nhú lên những chồi non xanh mơn mởn. Rồi đây cành lá sẽ đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua nở. Muông thú sẽ rời chỗ ẩn náu, vươn mình tắm dưới tia nắng ấm áp của mùa xuân. Cả đất trời sẽ nhú lên, bừng bừng nhựa sống. Nắng xuân xuất hiện vẽ ra một khung cảnh tươi đẹp, hùng vĩ biết bao!

Đối tượng trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ là con người, cây cối, hoa cỏ mà nhiều khi còn là những con vật nhỏ bé nhưng ẩn chứa đằng sau đó là cả một câu chuyện ý nghĩa:

Con nhái bén

Thè lưỡi

Liếm trăng                     

(Ngồi giữa lá sen)

Con vật xuất hiện trong thơ thường mang theo tiếng động, thế nhưng con nhái bén xuất hiện trong thơ Mai Văn Phấn xuất hiện trong sự tĩnh lặng. Tĩnh lặng nhưng không hề mờ nhạt. Trong đêm trăng mùa thu, hình ảnh những con nhái bén xuất hiện chễm chệ ngồi giữa lá sen. Bằng con mắt tinh tế và sự cảm nhận nhạy bén Mai Văn Phấn đã vẽ nên bức tranh con nhái trên lá sen và dưới ánh trăng. Hình ảnh ánh trăng thơ mộng với con nhái bén ngồi trên lá sen như hòa vào nhau xóa nhòa ranh giới giữa cái tao nhã và cái bình thường, giữa cảnh thực và cảnh mộng. Khoảng cách không gian huyền ảo, vời vợi trên cao và không gian dưới thấp cũng được rút ngắn bởi hành động “thè lưỡi” “liếm trăng” rất thơ mộng và giàu sức gợi.

Cảm quan về cuộc sống đa chiều là những câu chuyện kể, cảm nhận về cuộc sống đời thường muôn mặt. Thơ Mai Văn Phấn nhiều khi xa rời hiện thực của đời sống, đôi khi đưa người đọc đến một miền “không đầu không cuối”, thậm chí vô định:

Mây xếp lên vai từng tảng đá nặng

nhòe mắt cát

thở đầy ngực cát

(Ghi ở Vạn Lí Trường Thành)

Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở “cánh cửa” vào quá khứ cho ta thấy được không gian hiện thực của buổi xây Vạn Lý Trường Thành, thấy được hình ảnh những dân phu bị đày ải bỗng chốc hiện ra. Đâu đó vang tiếng truyền chỉ và ta nghe tiếng hoạn quan truyền lệnh “đánh hộc máu mồm” những ai “vừa vác đá vừa làm thơ”. Tiếng “Khâm thử!” vang lên cuối khổ thơ như kết thúc một màn kịch.

2.1.2. Hiện thực thế giới phồn tạp, bất an

Hiện thực thế giới hiện lên trong thơ Mai Văn Phấn phong phú, sinh động, phồn tạp như nó vốn có. Đó là một thế giới hỗn loạn, kéo theo những bất an của con người. Sống trong xã hội hiện đại nhưng con người luôn hình dung về quá khứ và cảm thấy lo lắng, bất an. Cuộc sống trước mắt họ mơ hồ, thực ảo lẫn lộn nhiều khi khiến họ chao đảo. Là vậy nhưng thực ra không phải vậy. Cuộc sống hiện tại đó như những mảnh vỡ có sự đan cài của những mặt đối lập, đúng với bản chất thực, đôi lúc phũ phàng buộc con người phải chấp nhận:

Pha xong ấm trà

Quay ra

Ông khách không còn ở đó

Gọi điện thoại

Người nhà bảo ông đã mất bảy năm

Nhầm lẫn

Nhà mình

Mọi sự đảo lộn…

(Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ – Hôm sau)

Con người đang sống trong thế giới của mình, trong căn nhà của chính mình nhưng luôn trong trạng thái lơ lửng, bay bổng, không xác định được thực hư. Ấm trà vừa pha xong còn ấm những tưởng sẽ cùng bạn hàn huyên tâm sự nhưng rồi ngoảnh lại thì bạn đã đi đâu mất. Gọi điện thoại hỏi thăm thì mới hay tin là bạn đã mất cách đây bảy năm. Rồi mọi thứ trong nhà dường như đảo lộn cả: bức chân dung được treo trên tường bị hạ xuống từ bao giờ? Ai là người đã hạ nó xuống? Rồi chiếc đồng hồ chạy bằng dây cót nữa, nó đã biến mất từ bao giờ? Bộ ấm chén giả cổ ta đã cho ai hay chăng mà giờ cũng chẳng thấy đâu? Đâu là thực? Đâu là hư? Con người đang cảm thấy chơi vơi, lạc lõng ngay trong chính căn nhà của mình, cuộc sống của mình. Điều đó thật là đáng sợ. Nhưng đó không phải là cảm xúc riêng của mình tác giả mà đó là tâm thế chung của nhiều người trong xã hội hiện đại. Họ - những con người trong xã hội hiện nay đang ghê sợ chính bản thân mình, ghê sợ cuộc sống. Cái cuộc sống không rõ thực hư này nó khiến con người mơ hồ, chao đảo.

Trong xã hội đó không chỉ người lớn mới cảm thấy bất an, lo lắng mà những đứa trẻ con cũng mất đi vẻ ngây thơ, trong sáng của mình. Chúng nó mang trong mình những nỗi lo như người lớn, những nỗi lo mà ở tuổi chúng chưa đáng có:

Lũ trẻ con xóm tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm mắc những căn bệnh tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì thào trong những khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm, chôn dấu những đồ vật cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc hoàng hôn chuyển màu, lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt… (Dạy trẻ con)

Trẻ con ngây thơ, trong sáng, đáng lẽ giờ này phải tụ tập chơi đồ hàng, bắn bi, kéo co… Vậy mà chúng lại luôn trong trạng thái chuẩn bị “đề phòng lúc biến động”. Chúng lo sợ, hốt hoảng khi nghe thấy tiếng động lạ, khi thấy có sự thay đổi “hoàng hôn chuyển màu”, “sóng vỗ”, “quả vỡ”… Trẻ con đang tuổi ăn tuổi lớn, có lẽ chúng sẽ reo hò ầm ĩ khi được cho những thức quà này nọ, trẻ con rất ít khi chú ý đến những đồ ăn thức uống của mình có an toàn hay không, với chúng chỉ cần ngon là được. Thế nhưng những đứa trẻ nơi đây lại rủ nhau ăn kiêng “đề phòng  cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt”. Những căn bệnh này ta chỉ thấy ở người lớn chứ ai đời những đứa trẻ con mà lại đi lo mình mắc phải những căn bệnh này. Nếu thực sự có lo xa đến vậy thì bố mẹ chúng mới là người phải lo chứ nhỉ? Không chỉ hành động mà suy nghĩ của những đứa trẻ con nơi đây, tại thời điểm này cũng không khác gì người lớn. Suy nghĩ lớn nên hành động của chúng cũng chẳng giống trẻ con. Thay vì gào khóc như những đứa trẻ con chúng ta thường thấy thì chúng không “gào khóc ăn vạ”. Có đứa còn phát biểu rất già dặn: “Trẻ con nước mắt chảy vào trong”.

Thế giới hiện lên trong thơ Mai Văn Phấn dường như khác hẳn với thế giới thông thường, dị hình, dị dạng. Nó hàm chứa trong đó sự bất ổn, nó nghiêng ngửa, xộc xệch, rời bỏ những ranh giới cố hữu nào đó của cuộc sống:

Nhưng hình như

mọi con vật trong nhà

vẫn chế tác từ đồ phế thải

con mèo tam thể được sin ra từ mớ giẻ rách?

đàn kiến đang nhẫn nại tha mồi là đống mạt cưa?                                                                         

(Không thể tin)

Thế giới của sự xô lệch, thế giới ngổn ngang hiện lên thông qua hệ thống hình ảnh hài hước, phi lí, méo mó, dị hình dị dạng: con mèo – mớ giẻ rách, con cá – vỏ lon beer, chim họa mi – chiếc ấm vỡ, con chó – cuộn báo cũ, đàn kiến – đống mạt cưa… Những hình ảnh đó gợi những tiêu cực, những hiện tượng bất cập,  những bất công của xã hội. Ngay từ chính nhan đề “Không thể tin” đã thể hiện rất rõ trạng thái tâm trạng của nhà thơ. “Không thể tin” vào những gì hiện hữu trước mắt, không thể tin vào những gì sẽ diễn ra trong tương lai. Tương lai đó là cả một mối lo âu, là những dự cảm chẳng lành. Cuộc sống hôm nay đầy rẫy những dự báo, hoài nghi về những đổi thay tiêu cực. Trong chính căn nhà của mình nhưng người ta lại cảm thấy cô đơn, lạc lõng, mọi thứ luôn trong tư thế đảo lộn, trong trạng thái rạn vỡ.

Không chỉ có Mai Văn Phấn nhận ra sự bề bộn, phức tạp của cuộc sống, mà có rất nhiều nhà thơ đương thời cũng nhận thấy điều đó, tuy nhiên mỗi người lại có cách thể hiện khác nhau trong văn chương. Chính hiện thực cuộc sống đã tác động đến con người, họ ganh đua, bon chen, lừa lọc, đố kị, cầu cạnh để tiến thân, họ sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để đạt được mục đích của mình. Giá trị sống nhường chỗ cho những ma trận rối ren của cuộc sống:

Trái đất cái cối xay rất cũ

Những vòng quay nặng nề mệt mỏi

Những cánh rừng trơ cuống họng

Tham vọng khiến họ loại trừ nhau, ném bom xả đạn vào đồng loại.                                          

(Thế giới hiện hữu – Vi Thùy Linh)

Còn trong thơ Mai Văn Phấn, mọi vật sẽ:

quay không thể dừng lại: thùng rác quay mắc phải khung ảnh, quạt trần, dây điện thoại. Chiếc quần lót mắc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy tập thể hình. Chổi cùn, bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh. Con cá tắt thở trên đường gần đến cửa sổ…/ Và nhanh chóng đặt chân vào vạch xuất phát.                                        

(Quay theo mái nhà)

Mọi thứ trong căn nhà đang quay cuồng, chao đảo. Chúng đã vượt qua giới hạn nào đó, trở thành một mớ hỗn độn. “Đồ vật quay không thể dừng lại” không đơn thuần là một câu kể. Trong thế giới hỗn độn và phi lí ấy con người quay cùng với đồ vật. Họ luôn cảm thấy cô độc, bất trắc và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến thành đồ vật. Đây có thể là một lời cảnh báo, một lời thức tỉnh mạnh mẽ. Nếu ta không tự chủ, nếu không quyết đoán thì đến một lúc nào đó ta sẽ thành đồ vật, thậm chí là một thứ phế thải. Và ta sẽ đánh mất đi nhiều thứ, kể cả chính bản thân mình. Mai Văn Phấn đã lên tiếng cảnh báo con người về nguy cơ mà họ phải đối mặt khi sống trong xã hội hiện đại.

Cuộc sống đầy khó khăn, cạm bẫy và giả dối làm con người luôn lo lắng. Và cũng tại bởi cuộc sống quá nhiều những chông chênh, ngả nghiêng như thế nên con người cứ luôn tự vấn lương tâm, tự trách, tự hỏi chính bản thân mình. Ngay cả trong vô thức của nhân vật trữ tình, những câu hỏi luôn được đặt ra cho thấy sự hoài nghi về cuộc sống càng lúc càng tăng lên. Sự an toàn, thân thiện và tốt đẹp trong cuộc đời này dường như là không thể:

Nếu đêm qua không có con mưa?

Nếu tôi không ngủ trên giường?

Nếu  không phải khoảng cách ba mét bảy mươi cm?                                       

(Nếu)

Nếu? Nếu? Một loạt câu hỏi được đặt ra mà chưa thể giải quyết. Nhưng làm gì có giả thuyết nào đặt ra cho cuộc sống như thế đâu. Cuộc sống này là một vòng quay liên tục và không ngừng nghỉ, và sẽ chẳng có dự đoán nào đúng cho tương lai cả. Chúng ta chỉ có thể hi vọng nhưng không thể nào đoán trước được tương lai đó rồi mai đây sẽ ra sao cả. Trạng thái nghi ngờ với tất cả mọi thứ xung quanh mình khiến con người trở nên hoảng loạn:

Tôi đặt vào cái miệng những ngữ âm

như gõ lên ô Search một website tìm kiếm

Kết quả làm tôi choáng ngợp

Tôi bị lạc vào ổ phục kích?

Là phần mềm bị nhiễm virus?

Hay hòn than vừa rơi xuống tảng băng?                

(Cái miệng bất tử)

Con người cảm thấy bất lực và không biết bản thân đang mong muốn tìm kiếm điều gì. Bản thân sẽ lạc vào “ổ phục kích”, sẽ sa vào “phần mềm nhiễm virus” trong máy tính hay “sẽ là hòn than rơi xuống tảng băng”. Sự hoài nghi về những giá trị đạo đức, những quy chuẩn của xã hội có thể được coi như là một phản xạ tự nhiên của tinh thần con người khi nhận thức bản chất giả dối của những vấn đề đời sống.

Tâm thế bất an trước cuộc đời còn được chủ thể trữ tình thể hiện qua sự hoài nghi về các giá trị chân, thiện, mỹ trong cuộc sống:

Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu

phải hồn nhiên như cây cỏ

Đung đưa một lúc cũng mỏi

càng thêm đau đầu trong nắng tháng sáu

(Sống hồn nhiên)

Không tin rằng muốn “chữa bệnh đau đầu” thì phải sống một cuộc sống tốt đẹp, “hồn nhiên như cây cỏ”, chủ thể trữ tình tìm về thôn quê để thử trải nghiệm và sống như lời “vợ” dặn, sống hòa mình vào thiên nhiên “giang tay nhờ gió lay lắt”. Nhưng sự thật không như mong đợi, chủ thể “càng thêm đau đầu” vì trong thời tiết oi bức “nắng tháng sáu” của mùa hạ “phải tưởng tượng ra mưa xuân”. Một sự thật hiển nhiên cho thấy con người luôn suy nghĩ, đau khổ trong mọi hoàn cảnh. Vì thế không thể sống “hồn nhiên” trong xã hội đương đại.

Thiên nhiên trong Thơ Mai Văn Phấn cũng đầy dự cảm bất trắc về sự đổ vỡ và ám ảnh. Nỗi lo tan tác lòng ao sâu trong hai câu thơ sau cũng là nỗi lo rạn vỡ những giá trị truyền thống trong thời đương đại:

Chênh vênh nhịp cầu ao

Xin đừng ai khẽ động

Mà tan lòng ao sâu”

(Nét quê)

Hình ảnh giọt sương xé tan mạng nhện để nhỏ lên các ngọn cỏ sắc lạnh cũng là một hình ảnh đầy dự cảm:

Võng nhện sương tan xé rách

Lưỡi cỏ mềm tự do         

(Linh hồn đã bay)

Những biểu hiện của biến đổi thiên nhiên thời tiết mà cả nhân loại ngày nay đang lo ngại cũng được phản ánh trong cảm hứng về một thiên nhiên đầy bất trắc. Hiện tượng tan băng được nhắc đến:

Đúng hơn là đông cứng

Rồi băng đá

Rồi rữa tan 

(Biến tấu con quạ)

Vừa là biểu tượng của sự trường tồn, của sức sống nhưng cũng vừa biểu tượng cho một sự đổ vỡ, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nhiều bất trắc, thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn đã đưa ra một thông điệp về một môi sinh vốn đẹp đẽ nhưng đang đứng trước nguy cơ bị phá hủy, bị lạm dụng trở thành một môi trường tàn úa, ẩn chứa cái chết và sự hủy diệt. Mai Văn Phấn đã lí giải quan điểm của mình về thế giới. Những trang thơ của ông đã phơi bày hiện thực thế giới phồn tạp đầy rẫy bất an, phản ánh khá đầy đủ các đặc điểm, trạng thái tâm lý cũng như tâm thế của con người sống trong thời hiện tại.

2.1.3. Hiện thực thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định


Hiện thực thế giới trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên không chỉ là một thế giới phồn tạp, đầy rẫy bất an mà đó còn là cuộc sống phong phú, sinh động. Đó là một thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định. Vạn vật trong thơ ông đều được ngắm nhìn từ sự sinh sôi, nẩy nở và tràn đầy năng lượng. Giống như lời nhận định của nhà phê bình Văn Giá: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế giới phồn sinh và hóa sinh bất định” [22; 529].

Thế giới phốn sinh là “thế giới phì nhiêu, nhiều tầng, nhiều cá thể cộng sinh chen chúc đầy hoan lạc, tựa như cánh rừng nhiệt đới vậy” [22; 529]. Thế giới phồn sinh ấy trong thơ Mai Văn Phấn tập trung khai thác ở hai khía cạnh: phì nhiêu và sinh nở. Xuyên suốt các tác phẩm của Mai Văn Phấn ta nhận ra một thế giới phì nhiêu, đa tầng, ở đó muôn loài chen chúc, cộng sinh: có mùa màng, có cỏ cây, đất đai, cánh đồng, con người... Tất cả những cái đó tượng trưng cho sự sinh sôi, nảy nở, cho sự vĩnh hằng của thế giới. Trái đất vẫn quay, vạn vật vẫn sinh sôi thì đương nhiên thế giới này còn tồn tại:

Yêu nhau

Là những nghi thức dâng tụng trời đất

Đất rùng mình

Sông chảy

Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung                       

(Anh anh em em)

Và thấy trong tiếng chim

Một ban mai vừa nở

Bọc trứng vừa nở

Trong chiếc nôi sương mờ                                                                    

(Nhóm lửa)

Trong con mắt của Mai Văn Phấn, thiên nhiên căng tràn sức sống, chúng luôn luôn vận động, chen chúc đầy hoan lạc:

Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên khuôn mặt

Dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời

Những mùa tái sinh trổ đồng chín rục

Sấm nổ vang trong lòng tay mầm hạt

Vòng phù sa tươi ròng ấp âm thớ đất”                     

(Bài ca mùa màng)

Thiên nhiên động tiếng mùa sang

Dấu chân trong cỏ mỡ màng trổ hoa

Quả thơm trĩu ngọt la đà

Tạ ơn sương đọng vái xa chân trời

(Chương VIII: Trái tim giải thoát)

Mai Văn Phấn vẽ nên bức tranh lung linh, nhiều màu sắc sinh động. Những bức tranh đó là phương tiện để ông giãi bày tâm sự, để chuyển tải thông điệp của mình cho người đọc. Trong thế giới rộng lớn đó, vạn vật vẫn đang sinh sôi, nảy nở, nó cũng có linh hồn chứ không phải là những thực thể vô tri vô giác:

Hừng đông sinh muông thú, cây trái, tiếng động

Hoa lồng đèn, mai dạ thảo tươi ròng

Màu rạng đông chìm vào đất

Tan trong sóng lớn

Hắt vòm lá xanh

Con vành khuyên xóa mọi dấu vết

Ngực sơn dương mở lớn

Sau lưng hừng đông

(Hình đám cỏ)

                                

Nhãn quan phồn sinh hướng về thiên nhiên thực chất là hướng về con người, hướng về đời sống nhân thế. Trong thơ Mai Văn Phấn, con người và thiên nhiên luôn tồn tại trong mối quan hệ mật thiết. Hình ảnh “Em” trong thơ Mai Văn Phấn là hiện thân của đất đai, mùa màng, tươi tốt và sự gieo trồng:

Em chợt hiện

Từ hương thơm trái chín

Trong dập dờn bãi ngô mà thụ phấn

Lá giật mình

Cá lặn xuống chân

Hút mãi về em

Từng hơi thở đất

Anh hạn hán

Cơn mưa chiều tất bật                                  

(Nỗi nhớ mùa thu)

Và “Anh” khao khát đón nhận sự gieo trồng của “Em”:

Anh mơ được em gieo trồng trên ngực

Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt

Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào

Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp

Từng giọt mát lành thấm nhuần trong đất

Tươi từ môi anh đến gót chân em

Anh ngỡ mình được phép lành thánh thể

Đêm vừa qua hay đã mấy nghìn năm

(Bài ca buổi sớm)

Không chỉ dừng lại ở trạng thái phì nhiêu của sự sống, thơ Mai Văn Phấn còn mở rộng vào trạng thái sinh nở của nó. Với thi nhân, trạng thái sinh nở, mang thai, giao hợp... là những biểu hiện đẹp đẽ nhất của sự sống nơi trần thế. Bởi nó không chỉ đơn giản là quy luật sinh tồn mang tính chất tự nhiên mà chính nó đã góp phần quan trọng để tái sinh ra một thế giới mới:

Giữa em là anh

Một con hoẵng vừa sinh trên cỏ ướt

Một bát nước ngùn ngụt bốc hơi

Một thế giới đang vội vàng hoàn hảo       

(Hình đám cỏ)

Thế giới phồn sinh viên mãn còn được thể hiện qua khát vọng nhục cảm trong tình yêu nam nữ, trong cái khát khao gieo trồng và sinh nở. Ái tình với Mai Văn Phấn dâng lên từ cô đơn, nó giống như dòng nước được bắt nguồn từ luồng lạch, từ hạt giống, từ khao khát sinh sôi để truyền sinh. Ái tình được thực hiện như nguyên lí nảy mầm sinh sôi cho cây cỏ, chim muông và toàn thể vũ trụ, trong đó có chàng trai và cô gái đang mang trong mình khát vọng được gieo hạt:

Tìm miệng anh và gieo hạt

Gió níu chân tay đất dịu dàng       

(Đỉnh gió)

Để rồi sức mạnh ái tình như ngọn gió thần diệu đã thổi bốc mọi thứ lên tận đỉnh chon von. Còn cao hơn cả đỉnh, nó nhắm hướng cả mặt trăng bay tới:

Anh dìu em lộng lẫy váy hoa

Hôn em, ngón tay út

Nâng em lên trăng  

(Đỉnh gió)

Mai Văn Phấn coi sự gần gũi trong tình yêu là một thứ nghi lễ. Trong thơ ông, ân ái trở thành một thứ nghi lễ linh thiêng của con người. Dưới không gian thiên nhiên bát ngát, đôi lứa yêu nhau tan biến vào thiên nhiên, hòa lẫn vào thiên nhiên:

Yêu nhau. Là nghi thức dâng tụng trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh kim và em mệnh hỏa. Từ lửa làm ra Thổ, ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung.

(Anh anh em em)

Nhìn thế giới qua lăng kính phồn sinh, tình yêu của con người, của vạn vật trở thành một biểu tượng đẹp nhất, mãnh liệt nhất trong thơ Mai Văn Phấn. Thơ Mai Văn Phấn cũng đậm màu sắc nhục cảm, thậm chí hơn thế, là tính dục. Nhưng dục tính nồng nàn trong thơ ông đã được đẩy tới những hình ảnh mang tính tượng trưng phổ quát, vạn vật và con người luôn trong trạng thái sung mãn, tràn trề năng lượng:

Cuộn chảy

trong tiếng gào những dải phù du

đáy sông quặn thắt chưa hết sáng

Hoàng hôn ngậm chặt ánh ngày

lửa co giật

sục sôi mầm nụ

đỉnh cây ngùn ngụt bốc cao                                                                             

(Đất mở)

Ngựa thở dốc

bời ngợp cảm giác cỏ

chùm lưỡi dìu nhau đứt cuống

xuyên qua tim lăn vào đất tơi

nở những bàn tay sau lưng tươi tốt

(Được quyền nghĩ những điều đã ước)

Sau khi tiếp cận thế giới phồn sinh, thơ Mai Văn Phấn tiếp tục mở ra cái thế giới của sự hóa sinh bất định. Đó là sự rình rập, hủy diệt, tàn tạ và phân rã của thế giới. Vạn vật, con người lại lo lắng cho cuộc sống, cho tương lai. Sự sống đó rồi sẽ về đâu?

Chim chóc nghe lách cách giữa thân cây tiếng viên đạn lên nòng, nấp vào đám mây bị quay văng trong hoàng hôn chảo lửa / con hà sặc khói hun mở miệng luận bàn về sự bất tử của nước và thoáng chốc con thuyền. / Con gấu ôm trọn tổ ong buông mình từ đinh cây xuống nơi giăng bẫy.                   

(Mùa hạ rất gần)

Trong cách cảm nhận của Mai Văn Phấn, chết chưa phải là đã hết mà chết là một sự khởi đầu mới. Theo ông vạn vật chuyển hóa luân hồi, giống như lời nhận định của PGS.TS Văn Giá: ta có thể hình dung thế giới thơ Mai Văn Phấn là “một thế giới phồn sinh động cựa và luân chuyển hóa hóa sinh sinh vô hồi vô hạn với tất cả vẻ đẹp bí ẩn và màu nhiệm nhất đã tràn vào thơ anh, thống ngự thơ anh, chiếm ngôi trị vì, không nhượng bộ. Bằng một cách tự nhiên nhất, thơ Phấn đã biểu đạt thế giới này trong trạng thái đó, và coi đó là hiện thân của Cái Đẹp” [22; 534].

“Cầu nguyện ban mai” là tập thơ thể hiện rõ nhất quan điểm của Mai Văn Phấn về sự luân hồi của thế giới. Ban mai là thời khắc trong trẻo, thanh khiết nhất của một ngày. Ban mai xuất hiện cũng là lúc bóng đêm phải lụi tàn, mọi vật sẽ được tái sinh trong một sức sống mới và tiếp tục sinh nở, phát triển dưới ánh sáng ban mai:

Cầm tay gió dắt vào đêm

Má hồn xanh lỡ để quên cuối trời

Dấu chân xin cát chớ vùi

Cho ta niệm chắc ban mai lại về                

(Qua hoàng hôn)


2.2. Cảm quan về con người trong thơ Mai Văn Phấn

Con người là trung tâm của văn học, văn học là nghệ thuật miêu tả và biểu hiện con người nên quan niệm nghệ thuật về con người là phạm trù trung tâm của hệ thống thi pháp. Sự đổi mới, cách tân văn học bao giờ cũng gắn với sự đổi mới cách tân quan niệm nghệ thuật về con người. Nếu con người trong chủ nghĩa hiện đại tỏ ra ưu tư chán chường trước trạng thái tha hóa của nhân sinh, thì con người trong chủ nghĩa hậu hiện đại lại càng dị thường hóa, ảo giác hóa sự tha hóa đó một cách thản nhiên để lấy làm thú vị, mặc dù có lúc cũng hoảng sợ. Nếu ý thức về cái tôi rất mãnh liệt trong chủ nghĩa hiện đại, thì trái lại nó bị hoài nghi về sự tồn tại trong chủ nghĩa hậu hiện đại. Con người ở đây thường bị phân tán thành “một chủ thể phi trung tâm”, bao hàm nhiều mảnh vụn và tất cả đều bị hòa tan trong bối cảnh xám xịt chung quanh.

2.2.1. Con người cô đơn

Hình tượng con người cô đơn không phải đến thơ Mai Văn Phấn chúng ta mới bắt gặp. Con người cô đơn đã xuất hiện trong rất nhiều sáng tác của các nhà thơ trước đó như: Nguyễn Du, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… Tuy nhiên mỗi thời đại lại mang một nét đặc trưng riêng. Theo TS Chu Văn Sơn: “Nếu cái tôi trong Thơ Mới là cái tôi cá thể, cái tôi trong thơ ca Cách mạng là cái tôi tập thể/đoàn thể thì cái tôi của thơ Đương đại là cái tôi bản thể. Cái tôi cá thể soi mình vào mọi người – cái ngoài ta (ngoại vật và tha nhân) để nhận ra mình còn cái tôi bản thể soi mình vào các giá trị phổ quát để tri nhận bản lai mục diện của mình”[6,564].

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

(Độc Tiểu Thanh ký)

Hai câu thơ trên thể hiện nỗi cô đơn tột cùng của Nguyễn Du – một hồn thơ tài hoa bạc mệnh. Nó vút lên như lời tiên cảm của người luôn sợ mình phải làm kẻ lữ hành cô độc trên cõi nhân gian. Nguyễn Du cảm thấy mình cô độc trong cuộc đời, không có ai làm tri âm, tri kỉ. Nhà thơ cất tiếng hỏi vọng về một tương lai xa xôi – ba trăm năm nữa, và rồi ông hình như cũng không tin có một tương lai nào đó, nhân loại sẽ hiểu mình.

Nếu Nguyễn Du cô đơn vì không tìm được tri âm tri kỉ trong cuộc đời thì đến Thơ Mới, hình tượng một con người cô đơn trú ngụ ở muôn nẻo. Như lời nhận định của GS. Phan Cự Đệ: “ Cái tôi trong thơ Mới trốn vào nhiều nẻo, có nhiều màu sắc phức tạp khác nhau, nhưng ở đâu cũng buồn và cô đơn. Không có lối thoát, không thấy tương lai, chỉ thấy đất trời tối tăm mù mịt”.

Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

(Cặp hài vạn dặm – Xuân Diệu)

Cái Tôi của Xuân Diệu chính là cái tôi với bi kịch của cái hữu hạn và cái vô hạn. Xuân Diệu luôn có khát khao được sống mãnh liệt, vồ vập với sự sống, tuy nhiên ông ý thức được cái hiện tại tuy thực nhưng rất mỏng manh, thời gian trôi qua nhanh và đời người là hữu hạn. Do đó con người trong thơ Xuân Diệu cô đơn là do sự nhận thức về thời gian biến ảo.

Trật tự xã hội bị đảo lộn, hiện thực cuộc sống thay đổi cuộc sống của mỗi con người cũng không thể nằm ngoài vòng quay chung đó. Con người chịu  ảnh hưởng của sự biến đổi đó một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Do đó, cảm quan về con người cũng được nhìn bằng con mắt khác. Và cô đơn là trạng thái luôn tồn tại trong con người trong thế giới hậu hiện đại. Đầu tiên đó là nỗi cô đơn trong các mối quan hệ xã hội:

Nhà thơ trú trong bóng râm

Từng con chữ bị khoét mất mắt.    

(Biến tấu con quạ)

Hình ảnh “Nhà thơ trú trong bóng râm” cho thấy sự yếu đuối, cô đơn và chơi vơi của con người xã hội. Cái chết ẩn náu đâu đó trong những bóng râm, những khoảng tối rồi bất thần ập đến khiến chủ thể trữ tình không kiểm soát được. Con quạ trong bài thơ là biến tấu của con người. Nhà thơ – những người làm nghệ thuật cô đơn trong chính ngôi nhà lớn mà họ đang sống và làm việc, không những chỉ cô đơn mà còn có khả năng gặp nguy hiểm. “Từng con chữ bị khoét mất mắt” -  những bức tranh hiện thực được nhà thơ đưa vào trang viết đang gặp những mối nguy hại, bị xâu xé và khoét đục dần.

Bằng góc nhìn đa chiều về cuộc sống, Mai Văn Phấn đã đưa vào trang thơ của mình một xã hội hậu hiện đại thu nhỏ. Ở đó con người hiện lên với những hình ảnh đáng thương, cô độc:

Lật đống chăn nơi ông vẫn nằm

thấy mẩu giấy với nét chữ nguệch ngoạc:

“Ai tìm thấy tôi ở đâu, gọi về số...

Xin cảm ơn và hậu tạ”.

sau mẩu giấy vẫn văng vẳng: quấy rồi đục... nhục rồi than... tan rồi huề... mê rồi tỉnh... thỉnh rồi buông...                                  

(Đúng vậy)

Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ là một minh chứng rõ nét cho những con người đáng thương, cô độc. Sống cả cuộc đời, hi sinh cả cuộc đời vì xã hội, vì gia đình, vì con, vì cháu nhưng đến khi sắp gần đất xa trời lại không thấy được một người ở bên. Con người phải tự tìm cách cứu lấy mình bởi ở cái tuổi đó trí nhớ không còn minh mẫn, khi nhớ khi quên. Mỗi lần bước ra khỏi nhà nhân vật trong thơ phải viết một mẫu giấy ghi chú lại “Ai tìm thấy tôi ở đâu, gọi về số...”. Trong cái cô đơn nhà thơ tự ý thức được mình phải làm như vậy để có thể trở về nhà khi lạc đường. Đó là nỗi cô đơn của thi sĩ trong chính gia đình của mình, không có ai cùng đi, cùng chia sẻ, sợ rằng không ai biết mình đi đâu và ở đâu để tìm.

Đọc những tập thơ của Mai Văn Phấn ta thấy xã hội đa diện đã khiến cho con người thay đổi, họ không tìm thấy cái gì là chuẩn để đánh giá những thang giá trị cho những hành động của con người. Họ cảm thấy lẻ loi trước thời cuộc đầy nghiệt ngã và không còn nhận ra cái đẹp và cái xấu. Nói chung con người hồ nghi tất cả mọi thứ:

Không nên tin vào một con ong

tôi kiểm chứng bằng những cử động nhỏ:

vẫn còn đủ 532 trang một cuốn sách cũ

tôi bấm móng tay, thông nỏ điếu

thử báo cáo, thử ký, thử hủy tài liệu                                                                       

(Không thể tin)

Con người không xuất hiện trong thơ với tư cách là vị trí trung tâm mà sự mờ nhòe của con người đã làm cho câu thơ có một cảm nhận khác, dùng sự vật, hiện tượng để qua đó miêu tả con người, những lo âu bất trắc của con người đã được tác giả thể hiện thông qua sự hiện hữu của đồ vật, con vật. Thế giới loài vật hòa chung trong cuộc sống con người:

Tôi tồn tại bởi cánh bướm, biển quảng cáo và thiếu nữ không quen biết

Họ nói giùm tôi cuống lưỡi vực sâu                

(Ở những đỉnh cột)

Trong cuộc sống hiện đại đầy sóng gió, phức tạp, huyền hoặc, con người luôn mang trong mình những lo âu, dự cảm. Họ luôn cảm thấy mình bơ vơ, lẻ loi trước thời cuộc.  Họ cảm thấy trên con đường mình đang đi chỉ mình mình đơn độc, không bạn bè, không gia đình, không người thân, không ai bên cạnh và chỉ mình họ phải đối mặt: dễ rơi vào trạng thái cô đơn. Cũng có thể nói, cô đơn đã trở thành tâm thế của con người hiện đại. Chính Mai Văn Phấn đã từng thú nhận nó một cách thành thật trong bài “Ở Sokcho”:

Tôi là con chim bay đến đây

Thu mình trong chiếc tổ lạ

 Cửa sổ, mặt hồ yên tĩnh

Giọng nói thân tình bỡ ngỡ ban mai

Hay như trong bài “Tắm đầu năm”:

Tắm gội cho mùa xuân về

vừa lặn vào ánh sáng

vừa gọi thầm ông bà, cha mẹ

cơ thể bốc cao về phía ngọn đèn

vừa xối mạnh vừa gọi tên em

ánh sáng bồng bềnh bụng mang dạ chửa

thử gọi một ai xa lắc xa lơ

ngọn đèn lặng phắc càng tỏ

càng tỏ.                            

(Tắm đầu năm)

Trong cái đêm đầu năm ấy, thi nhân cảm thấy cô đơn, chơi vơi đến tột cùng nên đã tìm đến với ngọn đèn dầu mong được thanh tẩy tâm hồn và cả thể xác. Trong giây phút tĩnh lặng và thiêng liêng ấy, nhà thơ cất tiếng gọi ông bà cha mẹ, những người đã khuất,… nhưng không một hồi âm từ những linh hồn lạnh lẽo. Sau nữa nhà thơ “gọi tên em” nhưng cũng không một tiếng đáp lại. Cuối cùng, nhà thơ gọi một ai nữa bất kì cũng không một sự hưởng ứng. Con người rơi vào tột cùng của sự cô đơn, lạnh lẽo.

Khi một mình ta cảm thấy cô đơn, đó là trạng thái hết sức bình thường. Thế nhưng khi bên cạnh những người mình yêu thương mà vẫn cảm thấy cô đơn thì thực sự đáng sợ. Trong thơ Mai Văn Phấn, nỗi cô đơn đó được thể hiện hết sức thấm thía:

Em ngủ say không biết

anh đang nhìn hạt mưa

bóng tối xơ xác ngoài cửa sổ

tán cây đè nặng ngực mình

Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh

Những đế giày chuẩn bị vỡ tung

Chân tường mở cánh cửa thoát hiểm

Bụi mưa phùn phùn hay châu chấu nay qua

Cả ngôi nhà lao đi chóng mặt

Sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh...                             

(Để nhận ra anh)

Người đàn ông đang ở bên cạnh người vợ thân yêu nhưng lại mang trong mình một nỗi cô đơn đau đáu, một nỗi lòng không biết tỏ cùng ai. Người vợ đã ngủ ngon mà không hề hay biết rằng chồng mình đang mang một bầu tâm sự, những “hạt mưa”, “bóng tối”, “tán cây” ngoài kia khiến lòng anh nặng trĩu. Và rồi anh hiểu ra giữa người vợ và con người nghệ sĩ của mình không phải khi nào cũng có sự đồng điệu về cách hiểu, cách cảm, cách nghĩ. Anh cảm thấy bơ vơ trong chính cuộc tình của mình bởi không nhận thấy được sự thấy hiểu, bởi có những lúc con tim không cùng nhịp đập.

Con người trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ cô đơn trong các mối quan hệ của xã hội mà còn cô đơn trong chính gia đình của mình:

Tôi bị con cháu chê cười, khinh bỉ chẳng ra gì. Bị vu khống trắng trợn, không thể thanh minh. Trước khi tự tử tôi muốn khóc. Nhưng tự nhiên khóc là việc rất khó với một người già. Tôi đành dỗ dành một đứa trẻ sơ sinh vừa thức dậy trong tã lót còn cuốn chặt.                                                     

(Kể lại giấc mơ)

Người đàn ông trong câu chuyện trên đau khổ thất vọng đến mức muốn tự tử khi bị người thân ghẻ lạnh. Cả đời sống vì con vì cháu, khi về già lại bị chính con cháu cười chê, khinh bỉ. Người đàn ông đó đã tự an ủi chính bản thân mình bằng cách “dỗ dành một đứa trẻ sơ sinh vừa thức dậy”. Một đứa trẻ sơ sinh sẽ chẳng thể cười chê hay khinh bỉ. Ta chỉ có thể tự mua vui, tự an ủi cho chính bản thân mình.

Nguy hiểm hơn cả trạng thái cô đơn đó chính là sự vô cảm của con người trước sự xoay vần cuộc sống. Nhiều khi con người thả cho hồn mình trôi vô định về một chốn xa xôi, không bận tâm, không suy nghĩ:

Lặng yên cho nước chảy

Xối xả lâu lạnh toát mình đá

Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn

Hơn hết lúc này

Ai hãy ở yên chỗ đó          

(Đá trong lòng suối)

“Đá” ở đây chính là một hình ảnh ẩn dụ về trạng thái sống vô cảm của con người. Trước không gian sinh động với tiếng chim hót, lũ voọc chuyền cành, mùi ổi chín và đám mây trên trời dừng lại mà đá vẫn nhắm mắt trơ gan, thả lòng an nhiên cho nước cuốn. Cũng giống như trước vòng xoáy cuộc đời con người vẫn chọn cho mình cái nhắm mắt an yên, không bận tâm, toan tính. Con người cô đơn, vô cảm là sự ý thức của Mai Văn Phấn về hiện thực cuộc sống bày ra trước mắt, ở đó họ tạo cho mình một tâm thế chủ động khi trật tự xã hội đã có những thay đổi, nhưng nhìn sâu trong tận cùng bản chất, nó là dấu hiệu của sự khủng hoảng, đổ vỡ niềm tin khi hệ hình đã có nhiều thay đổi.

Con người cô đơn trong thơ Mai Văn Phấn mang dấu ấn hậu hiện đại rõ nét. Trước hết đó là sự cô đơn trong các mối quan hệ của xã hội, tiếp đến là cô đơn trong gia đình. Đó chính là tận cùng cô đơn cá thể, cô đơn bản thể của con người thời hiện đại. Sự cô đơn đó luôn tồn tại trong tâm thức của con người ở xã hội đương đại. Nhà thơ Mai Văn Phấn đã đi sâu vào khám phá từng ngóc ngách của nội tâm con người, lột tả tận cùng nỗi cô đơn ấy bằng nhiều cách khác nhau. Thơ ông vì thế thấm đẫm nỗi cô đơn của con người Việt Nam đương đại.

2.2.2. Con người vô bản sắc

Nếu nhân vật trong văn học tiền hiện đại được biết đến là con người tính cách, văn học hiện đại là con người tâm lí thì con người trong văn học hậu hiện đại là “mờ mờ nhân ảnh”. Con người trong văn học hậu hiện đại không chỉ không được xác định về tính cách, tâm lí xã hội mà ngay cả hoàn cảnh, nghề nghiệp thậm chí danh tính cũng không được chú trọng. Họ chỉ là một sinh linh biến ảo. Có ý kiến còn nói quá lên rằng nhân vật hậu hiện đại mang “sáu không”: “vô lí, vô bản, vô ngã, vô căn, vô hội, vô dụ” [4; 68]. Văn chương hậu hiện đại từ chối những kiểu nhân vật trong văn chương cổ điển, đã đi đến sự phản nhân vật. Nghĩa là ở những nhân vật này, nghệ thuật tẩy trắng được tác giả thực hiện một cách tối đa: nhân vật không tên, không xuất thân, không ngoại hình, không tính cách... Đó là những con người vô bản sắc, con người không biết nguồn cội, con người sinh ra và bị quẳng ném vào dòng đời, dòng thời gian đầy rẫy phi lí, thậm chí đó là những người mất cảm giác, mất tri giác, bị xoáy vào sự u mê, u lì dường như không nhận thức được sự có mặt của thế giới ngoại tại. Thế giới nghệ thuật trong thơ ca hậu hiện đại dần dần thiên về thế giới đồ vật. Thế giới con người và loài vật dường như đan xen, hòa lẫn trong một mớ hỗn độn, không có sự phân biệt rạch ròi như văn chương thời kì trước.

Mai Văn Phấn là một nhà thơ mang tâm thức hậu hiện đại, cách cắt nghĩa, lí giải của ông về con người cũng không nằm ngoài vòng chung đó. Con người trong thơ ông xuất hiện không lai lịch, gốc gác, không cả ngoại hình, tính cách. Họ xuất hiện với tư cách là những mảnh ghép trong cuộc đời, là một sinh linh tham dự vào cuộc sống này, không nổi bật, không nêu bật cái tôi như con người trong văn chương hiện đại mà nó trở nên nhòe mờ, những con người bị lôi xoáy vào vòng quay của cuộc sống:

Em đi cùng đám mây bông

Mình anh gió hú dọc sông Ngân Hà

Tàn mùa chiếc lá lia qua

Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần

Sáng thì làm trăng thượng tuần

Lu thì ghép với mấy lần cong vênh                                                 

(Một mình)

Thế giới con người trong thơ Mai Văn Phấn nhiều khi hòa chung với thế giới đồ vật. Con người và loài vật cùng nhau sống, sinh hoạt:

Con gián bò quanh tôi và nói

vừa đầu thai được ba tháng tuổi

kiếp trước từng là người đàng hoàng

Đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?

Tôi không tin và đu lên khung cửa

Thế nhân chứng đâu? Vật chứng đâu?             

(Chuyện còn dài)

Vì quá bất an với hiện thực trong cuộc sống hiện tại nên con người nhiều khi hình dung thân phận mình với thế giới loài vật. Con người trong đoạn thơ trên đang trò chuyện với con gián như hai người bạn. Con gián tâm sự nó vừa được đầu thai chưa đầy ba tháng, kiếp trước nó cũng là con người bằng xương bằng thịt, không những thế lại là con người đàng hoàng. Nhưng lời tâm sự của con gián lập tức bị phản bác ngay: “đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?” Nghĩa là kiếp trước nó là người tốt thì cơ sao kiếp này lại phải làm con gián, phải chịu kiếp loài vật. Và con người cũng đang đắn đo trăn trở liệu rằng rồi đây tương lai của mình có phải chịu số phận như con gián kia không khi mà xã hội hiện tại quá đỗi bất an, đầy rẫy những vấn đề phải lo lắng và rồi con người cũng chấp nhận thỏa hiệp:

Tôi và con gián cùng hội thảo khoa học

cùng đeo khẩu trang, cùng ngắm hoa

cùng bẫy chim, cùng khắc phục hậu quả

cùng lau mồ hôi, cùng tiên tri

(Chuyện còn dài)

Con người và con vật – hai loài ở hai thế giới khác nhau nhưng giờ đây dường như giao hòa làm một, cùng nhau tham dự hội thảo khoa học, cùng bẫy chim, còn khắc phục hậu quả, cùng lau mồ hôi, cùng tiên tri... Có thể  là do hiện thực cuộc sống quá ngột ngạt, éo le mà con người phải hòa mình vào thế giới đồ vật, tìm thấy ý nghĩa của mình ở trong đó. Bởi chăng mối quan hệ  giữa con người với con người quá căng thẳng, bởi chăng cuộc sống hiện tại quá đỗi bất an.

Nhiều khi muốn trốn tránh thực tại  mà con người muốn hòa mình vào thiên nhiên, muốn mình không còn là mình nữa. Con người tìm đến thiên nhiên như một vị cứu cánh để giãi bày tâm sự. Thông qua mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên, Mai Văn Phấn muốn chuyển tải thông điệp của mình đến cho người đọc. Trong thơ Mai Văn Phấn thiên nhiên không đơn thuần là những  vật thể vô tri vô giác mà nó có hồn, có những quyền lực riêng  và có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực lên đời sống của con người.

Trăng tỏa mềm đất rộng. Mặt đất lặng thinh dưới sức mạnh trăng. Như những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng anh. Gió.

Gió tung bờm đột ngột

Tiếng vó anh khua vào xa tít                                     

(Nhìn anh)

Những câu thơ hiện lên cho ta thấy rõ mối quan hệ giữa thiên nhiên, vũ trụ và con người. Nhân vật “anh” hòa mình vào trời đất và cảm nhận được mọi sự thay đổi tế vi nhất của thiên nhiên. Những cơn gió mát lành trong đêm trăng sáng được “anh” cảm nhận như “những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng”. Đây là sự liên tưởng rất mới lạ và độc đáo. Con người và thiên nhiên như hòa vào nhau, quên đi những phiền muộn của cuộc sống xung quanh. Con người trong thơ Mai Văn Phấn tìm đến thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên để cùng nhau sinh tồn. Con người nhập cái tôi vào vũ trụ, vào thiên nhiên, vào thế giới để nhận ra cái tinh thần, thần thái của muôn vật, để tìm ra hướng đi cho bản thân.

2.2.3. Con người khát khao

Ý nghĩa cuộc sống không gì khác ngoài sự đam mê hay khao khát mãnh liệt một điều gì đó trong cuộc đời. Một ngày nào đó điều này có khả năng sẽ chế ngự trái tim, linh hồn và thể xác chúng ta. Nó có thể cháy mãi tới khi ta chết. Nếu con người biết trải qua nỗi khao khát, đam mê sâu sắc ấy theo hướng thiện thì họ sẽ không sống vô ích. Nếu hành xử ngược lại, nỗi khao khát, đam mê sâu sắc có thể trở nên độc ác bất nhân ngay cả với chính bản thân mình.

Sống trong cái xã hội ngột ngạt, phức tạp với đầy rẫy những lọc lừa, dối trá, con người luôn khát khao một sự tẩy rửa, thanh lọc tâm hồn:

Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch

Quay về tắm bằng ngọn đèn   

(Tắm đầu năm)

Bài thơ mở đầu bằng một sự phi lí, phi lí ở sự tắm. Thông thường người ta tắm bằng nguồn nước nhưng ở đây Mai Văn Phấn lại tắm bằng “ngọn đèn”. Hai câu thơ mở đầu gợi cho ta một sự suy ngẫm. Việc tắm ở đây không phải là tẩy rửa, gột bỏ đi những thứ nhơ nhớp, bẩn thỉu bên ngoài cơ thể mà là loại bỏ đi những thứ không trong sạch bên trong. Mai Văn Phấn đã vẽ lên một bức tranh “Tắm đầu năm” vừa ảo vừa thực, ngỡ như nhắm mắt lại ta vẫn có thể hình dung được từng động tác, từng ý nghĩ của nhân vật đang nghiêm trang thực hiện lễ tẩy trần đầu năm:

thử đưa bờ vai về phía ánh sáng

rồi cả hai tay

bàn chân, cằm, đầu gối

cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan 

tắm gội cho mùa xuân về 

Sống trong xã hội đầy rẫy những thị phi, rối ren hiện nay, cả thể xác và tâm hồn con người quanh năm đều bị vấy bẩn. Việc tắm tất niên hay tắm đầu năm là không thể thiếu. Nhưng chỉ với cách tắm thông thường thì làm sao có thể tẩy hết bụi trần? Chỉ có tắm bằng ngọn đèn, tắm bằng ánh sáng tâm linh với một tấm lòng tôn kính và một nghi lễ thiêng liêng như “Tắm đầu năm” mới mong thanh tẩy được mình để đón mùa xuân đang tới. Ánh đèn xối vào những góc khuất của tâm hồn làm sạch mọi ngóc ngách. Cả tâm hồn và thể xác con người bừng lên trong ánh sáng ấy như ngọn lửa. Họ đón mùa xuân về với một tâm thế nhẹ nhàng, vui tươi, thoải mái, vô tư, hồn nhiên, không bon chen, đua ganh, lọc lừa, toan tính.

Con người trong thơ Mai Văn Phấn dù có bị cuộc sống làm cho quay cuồng đến nghẹt thở, mệt mỏi đến rã rời thì họ vẫn khát khao đươc sống vô tư, hồn nhiên, được trở về với bản thể tự nhiên của mình:

Lặng yên cho nước chảy

Xối xả lâu lạnh toát mình đá

Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn                                                   

(Đá trong lòng suối)

Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên về mùa xuân tuyệt đẹp. Khác hẳn với những bức tranh xuân của các tác giả khác, bức tranh của Mai Văn Phấn không có hoa mai, cũng chẳng có hoa đào... Bức tranh của ông hiện lên với dây hoa leo, sắc hoa dại, với tiếng chim róc rách, với mấy con voooc chà vá chân xám, mưa bụi bay, mây dừng chân, mùi ổi chin và hình ảnh con nhím xù lông bất động.... Đây là bức tranh xuân được vẽ nơi rừng núi hoang vu thơ mộng với đầy vẻ nguyên sơ, tinh khiết. Và nổi bật lên giữa bức tranh đó là hình ảnh đá trong lòng suối: “nhắm mắt an nhiên”, “lặng yên cho nước chảy”. Hình ảnh đá ở đây gợi tư thế thảnh thơi, bình lặng với tâm thế an nhiên tự tại. Đá nằm yên ở trong lòng suối, mặc cho “nước chảy xối xả”, mặc cho “nước cuốn” một cách an nhiên. Nhà thơ đã mượn hình ảnh đá ở yên trong lòng suối để nhắn nhủ, gửi gắm tâm tư, nguyện vọng của chính mình và của mọi người:

Hơn hết lúc này

Ai hãy ở yên chỗ đó

Ai nấy xin hãy ở yên chỗ đó, như hòn đá kia an nhiên trong lòng suối để không phá vỡ cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp của núi rừng. Cảnh quan ấy cũng đa dạng, phong phú như đời sống của con người. Và mỗi người đều khát khao được tồn tại, được sống với dáng vẻ hồn nhiên, vô tư, không muốn nhận sự can thiệp, sắp đặt của bất cứ thế lực nào. Họ muốn được sống với chính bản thể tự nhiên của mình. Họ khao khát được trở về với sự tinh khôi, hồn nhiên, trong trẻo của tâm hồn Việt, trở về với cội nguồn. Cuộc sống như thế thật tươi đẹp và đáng quý biết nhường nào!

Không chỉ khát khao được trở về với bản thể tự nhiên, con người trong thơ Mai Văn Phấn còn luôn khát khao được sống, khát khao được là chính mình. Họ luôn nỗ lực không ngừng nghỉ trong bất cứ mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh. Cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, phức tạp, chính vì vậy họ phải bản lĩnh, luôn tỉnh táo và sẵn sàng đứng dậy để chiến đấu để chống lại hoàn cảnh. Khi cái chết càng đến gần thì khát khao được sống của con người càng trỗi dậy mãnh liệt. Họ cố gắng bằng mọi cách để tìm được lối thoát cho cuộc đời mình. Dù cái chết đã ở ngay trước mắt thì họ vẫn cố tìm cho mình một ánh sáng và coi đó là lẽ sống, là động lực để tiếp tục và không bao giờ nản chí:

Cả chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng tối.                                  

(Biến tấu con quạ)

Con người đang cồn cào trong đói khát, trong sự bất lực trước thế lực hùng mạnh. Một ánh sáng le lói phát ra từ que diêm như nguồn sống lúc bấy giờ, thứ ánh sáng đó tuy nhỏ nhoi, le lói nhưng có hơi ấm. Nó truyền cho con người sức mạnh dẫu biết “ngọn bấc còn rất xa” để có thể cháy bùng lên, nhưng cũng là một động lực để tìm đến sự sống. Bằng sự khao khát “vung tay lên” một cách mạnh mẽ, họ cất tiếng nói to trong không khí bao trùm tử khí và bóng tối. Cả bài thơ đã bộc lộ được khao khát cháy bỏng đứng lên giải thoát bản thân tìm đến nguồn sống. Con người trong thơ Mai Văn Phấn luôn tiềm ẩn những sức mạnh to lớn, có khả năng chống trả quyết liệt để bảo vệ những giá trị người ngay cả khi họ chỉ còn là những linh hồn: Những linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới. Tuy chỉ còn là linh hồn, nhưng cái tôi đã mạnh mẽ tìm về để chiến đấu với con quạ. Trong cuộc chiến, cái tôi ý thức được kẻ thù của mình, không chịu khuất phục ngay khi đã mất mạng và còn muốn chiến đấu với kẻ ác dù chỉ còn là linh hồn. Cuộc chiến không gây sát thương bởi vì họ đã chết, kẻ thù không thể bắn trúng những linh hồn.

Khao khát một cuộc sống là chính mình còn thể hiện ở bản chất và cá tính của con người trong thơ Mai Văn Phấn. Con người trong thơ ông dám liều mình chiến đấu, đối mặt với kẻ thù. Con người dám khác biệt với những thứ tồn tại trong cuộc sống đương đại. Xã hội hiện đại với đầy rẫy những bất an, và nạn trộm cắp là một trong số những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Chẳng ai xa lạ gì với những tin tức trộm cắp ra rả hàng ngày, thậm chí là hàng giờ trên vô tuyến. Xã hội rối ren và nhiều người chấp nhận cuốn vào cái vòng rối ren luẩn quẩn đó, họ chọn cách làm người xấu để mong cuộc sống nhàn hạ chứ không chịu bỏ ra công sức lao động mà hưởng thụ. Và trước những tin tức mang tính thời sự đó có mấy ai quan tâm, để ý tới. Người quan tâm có chăng đó là những kẻ trong cuộc. Còn lại những kẻ ngoài kia đều chép miệng may quá người bị lấy cắp không phải là mình. Chẳng ai quan tâm, để tâm an ủi hay tìm cách giúp đỡ người bị nạn. Mai Văn Phấn luôn cảm thấy bất bình trước cuộc sống thực tại ông luôn đau đáu tìm cách để mong có thể thay đổi cái trật tự xã hội rối ren đó. Và trước tình cảnh hiện tại, ông dám lên tiếng, dám đối diện với tên trộm để “tóm ngay kẻ vừa chui vào nhà bạn”. Ông muốn mình trở thành một thám tử tư để tìm hiểu sự việc “nhà bạn” mất trộm. Từ những cảm xúc ấy, ta thấy hiện lên hình ảnh của một con người có cá tính mạnh mẽ, sống vì bạn bè trong mọi lúc khó khăn, hoạn nạn, sống có lí tưởng, dám đứng lên để chiến đấu chống lại cái xấu, cái ác.

Để được là chính mình, con người không thể sống nhạt nhòa mà phải thể hiện mình, bằng chính cá tính của mình. Trong thơ Mai Văn Phấn, con người với cá tính mạnh mẽ không chỉ được thể hiện qua những hành động cụ thể mà nó còn được thể hiện bằng những lời tự căn dặn, động viên mình:

Đêm nay

Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố

Nhưng đừng sợ!

Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt

Trời tối không ai ra đường.

Ai đang rình nấp trên cây

(Còn cậu hãy đứng đằng kia)

Sau những thông tin dự đoán về những thay đổi kì lạ sẽ xảy ra “Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố”, con người như nói với chính bản thân mình để trấn an nỗi sợ “Nhưng đừng sợ!”. Họ đưa ra hàng loạt những chứng cứ, những giả thiết để bình tĩnh: Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt / Trời tối không ai ra đường.

Một cái tôi đầy mạnh mẽ quyết liệt đấu tranh với nỗi sợ hãi của chính bản thân và của rất nhiều người, biết làm cho mọi thứ trở nên đơn giản hơn và làm chủ tình huống hơn. Không những thế, khi biết rõ có kẻ lợi dụng thông tin trên để “rình nấp trên cây”, thực hiện ý đồ đen tối, họ đã đối diện với nó không một chút ngần ngại:

Thôi được

Để tớ mai phục ở đây

và thức dậy lúc năm giờ sáng.

Những câu thơ ấy cho thấy con ngươi hiện lên với vẻ can đảm, mạnh mẽ dám đối diện với mọi thử thách trong xã hội đầy rẫy những nguy hiểm rình rập, đe dọa tính mạng và những âm mưu của kẻ xấu.

Con người  trong thơ Mai Văn Phấn còn bộc lộ khát vọng được sống giao hòa với thiên nhiên, được vươn tới những giá trị sống tốt đẹp:

Tự nhiên nhớ em, rất nhớ

Anh không dám nhìn đi nơi khác

Để trời xanh ngấm xuống gót chân                                         

(Vô tình trong nắng sớm)

Nhân vật Anh trong bài thơ trên đang da diết nhớ về một người Em nào đó “tự nhiên nhớ em, rất nhớ”.  Theo lẽ cảm nhận thông thường thì Em ở đây có thể là người yêu hay một người em nào đó. Nhưng Mai Văn Phấn thường dùng Em để gọi tên cỏ, cây, hoa, lá, đất, nước… với tất cả sự trìu mến nên có thể hiểu Em trong ngữ cảnh này là thiên nhiên. Nỗi nhớ Em không ùa về lúc nào khác mà lại ngay lúc mưa. Phải chăng vì tiếng mưa đã gọi dậy nỗi niềm tâm sự của con người và mưa ở đây cũng chính là hiện thân của Em đó. Nhớ Em, “Anh không dám nhìn đi nơi khác” và “Để trời xanh ngấm xuống gót chân”. Từ một hiện thực: nước mưa từ trên trời  đổ xuống ngấm đến gót chân Anh nhà thơ đã xây dựng nên một hình ảnh thơ lạ và độc đáo “ trời xanh ngấm xuống gót chân” để diễn tả thời khắc giao hòa của đất trời trong cảm nhận của con người. Với Anh, đó là thời khắc rất đẹp - vẻ đẹp lúc trời đất giao duyên đã “ngấm” vào cơ thể và tâm hồn Anh. Lúc này “Anh không dám nhìn đi nơi khác” nghĩa là Anh nhìn thẳng vào Em để tận hưởng phút giây tuyệt đẹp đó.          

             

Từng mưa to, mưa rất to

Tắm cho viên cuội nhỏ

Chỉ riêng hình ảnh này

Đã làm anh yêu đời mê dại

Thiên nhiên vốn dĩ đã thanh khiết, trong trẻo,  sau mưa lại càng thanh khiết hơn vì được nước mưa thanh tẩy. Hình ảnh “viên cuội nhỏ” được mưa “tắm táp” thanh tẩy chắc chắn thanh sạch hơn bao giờ hết. Hình ảnh viên cuội nhỏ được thanh tẩy đã làm Anh yêu đến “mê dại” vì đó là hiện thân của thiên nhiên và của tâm hồn con người được thanh tẩy.

Bên cạnh tình yêu thiên nhiên, con người trong thơ Mai Văn Phấn luôn khát khao yêu đương mãnh liệt. Tình cảm đó vừa nồng nàn, rạo rực vừa thuần khiết và thiêng liêng. Con người trong thơ ông khao khát được bộc lộ và đón nhận tình yêu, tình dục nhưng không đưa đến cho ta cảm giác thô thiển, trần trụi:

Mùa thu đổ những dòng thép nóng

Chảy về chầm chậm rót vào khuôn.

Những mái rạ xếp lên nhau thở dốc

Mặt đất nôn nao mở miệng sông hồ

Mùa thu chảy vào nỗi niềm thâm căn cố đế

Hơi nóng rân rân truyền lên thịt da.

(Quyền lực mùa thu)

Đọc bài thơ trên của Mai Văn Phấn ta không hề tìm thấy bất cứ một câu dung tục, sỗ sàng, bất nhã nào. Tình yêu và hành động tính giao ở đây được ẩn sau những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Những mái rạ xếp lên nhau thở dốc/ Mặt đất nôn nao mở miệng sông hồ” và sự biến chuyển nhiệt lượng vũ trụ của mùa thu với những quyền năng, sức mạnh khiến “mọi bền chặt” đều “đến giờ tan loãng”.

Con người ai cũng mong có được cuộc sống bình yên, trọn vẹn, từ đó vươn tới những giá trị sống tốt đẹp. Nhà thơ gửi gắm vào cái tôi trữ tình một thông điệp về cá nhân mỗi người rằng hãy sống có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Tuy cách sống, suy nghĩ… không giống nhau nhưng đều hướng tới một mục đích là khát khao được sống, có cuộc sống trọn vẹn và sống có nghĩa.

2.3. Cảm quan về xã hội trong thơ Mai Văn Phấn

2.3.1. Xã hội hiện thực

Xã hội hiện thực là hiện thực cuộc sống được phản ánh vào trong tác phẩm văn học. Mỗi nhà thơ khi sáng tạo đều thể hiện sự nhận thức của bản thân về cuộc sống hiện thực và nhu cầu bộc lộ cảm xúc của cá nhân giữa cuộc đời. Theo Mai Văn Phấn, hiện thực trong tác phẩm văn học là một “siêu hiện thực”. Tức là nó không còn là hiện thực khách quan mà đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà thơ. Sự khúc xạ đó diễn ra như thế nào còn tùy thuộc vào sự trải nghiệm, vốn sống, vốn kiến thức, nền tảng văn hóa của từng cá nhân.

Xã hội hiện đại hiện lên trong thơ Mai Văn Phấn đầy sóng gió, phức tạp, huyền hoặc, đầy bắt trắc.  Trước hiện thực cuộc sống đó buộc con người khát khao đi tìm tự do cá nhân . Cuộc sống vốn phức tạp với chằng chịt các mối quan hệ xã hội nhưng các mối liên kết lại quá lỏng lẻo khiến nó có xu hướng ly khai khỏi mọi sự ràng buộc mặc dù con người chẳng bao giờ có ý nghĩ nổi loạn:

Tôi đi xe hết ga hết số. Răng nghiến chặt. Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt trên mặt đất... Đích đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng...

(Đến trong ý nghĩ).

Mai Văn Phấn luôn đau đáu, day dứt, trăn trở trước những mặt trái của xã hội hiện đại. Ở bài “Chỉ là giấc mơ”, Mai Văn Phấn hình như đang phiêu lưu trong một ảo giác khủng khiếp, ở đó đầy rẫy những bất công, lừa lọc, hèn hạ, xấu xa, đê tiện, ác độc... mà đỉnh cao là sự tha hóa của con người đến mức trở nên ngang hàng với thế giới loài vật, đồ vật:

Chúng bịt miệng

trấn lột mọi thứ

và xin tôi bộ phận sinh dục.

Tôi cúi xuống đón chiếc ách lên vai

Tôi xù lông và bắt đầu sủa lớn

Tôi lúc lắc và kêu bíp bíp

Tôi mài cơ thể mình xuống sàn nhà

Tôi chạy quanh và miệng sùi sọt

Tôi nhễ nhại, giả chết, lồng lộn

Tôi rã rời, loạn nhịp, vỡ tung

Tôi thấm nước và vắt ra nước.

Nhịp sống hiện đại quay cuồng  nhiều khi khiến cho con người bị ngạt thở, chao đảo. Sự văn minh đã đem lại cho con người nhiều tiền đề vật chất và tinh thần để nâng cao chất lượng cuộc sống. Nhờ khoa học kỹ thuật, con người đã thực hiện được rất nhiều công việc phi thường, hiện thực hóa được rất nhiều thế hệ cha ông đi trước chỉ biết gửi gắm vào những câu chuyện cổ tích. Cùng với nó là tốc độ đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng, nhiều thành phố và khu công nghiệp mọc lên như nấm dại sau cơn mưa rào, bộ mặt nông thôn và thành thị đang thay đổi từng ngày. Con người có đủ điều kiện thoát khỏi ý nghĩa ăn no mặc ấm để hướng tới ăn ngon mặc đẹp. Công bằng mà nói, công nghiệp hóa hiện đại hóa đã mang đến cho chúng ta rất nhiều mặt tích cực, trong xu thế hội nhập đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở cửa đón nhận những làn gió mới từ các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng, mặt trái của nó giống như một quá trình biện chứng của sự vật. Cái được luôn đi cùng với cái mất. Bên cạnh những yếu tố tích cực luôn tồn tại song song trùng với mặt tiêu cực. Khi xây dựng thêm một khu công nghiệp là đồng nghĩa với việc chấp nhận tăng cường một luồng ám khói cho lá phổi xanh, chúng ta mong muốn được đón những ngọn gió văn hóa trong lành nhưng những nguồn gió độc cũng tràn vào không ít. Cuộc sống ở đô thị cũng đã mang lại nhiều tiện nghi vật chất nhưng nó chật chội, bức bối, ngột ngạt và tiềm ẩn rất nhiều bất an. Không còn những bãi cỏ ngát xanh để con người tha hồ đùa giỡn, trò chuyện; không còn tiếng chim hót líu lo, yên bình trên những cành cây cao vút… Cánh đồng cỏ giờ đây đang héo quắt vì bệnh tật, đàn chim đang bay chập choạng, rũ rượi cố công hát bài ca đánh dấu sự sinh tồn. Con người trong môi trường ấy dường như bị giam cầm quanh bốn bức tường ngột ngạt, đôi lúc chúng rối tung lên như cách ông miêu tả trong bài “Quay theo mái nhà”:

Đêm tỉnh dậy. Đồ gỗ trong phòng mọc tua tủa nấm nhĩ. Bức tượng chảy xệ xuống thành nắm đất nhão. Chiếc quạt mở ra lần cuối rồi khép lại làm ống tre. Trong bóng tối, tiếng những nghệ nhân đã khuất cùng đồng vọng:

- Hãy quay theo mái nhà đánh thức các đồ vật!

Tôi quay cùng chai lọ, con giống, bóng đèn… qua môi người thợ thổi thủy tinh, qua con chữ rùng mình nhìn bột giấy chìm trong thuốc tẩy. Những giọt mực tụ lại rồi loang xa như một vết dầu. Bộ quần áo trang nghiêm rũ xuống. Đấy là giờ mặc niệm tơ tằm và những cây bông. Bóng tối nuốt sạch thực phẩm ôi thiu, không khái niệm về văn hóa ẩm thực. Hương trà thơm về rừng. Nước gào thét trong chiếc ấm bục đáy.

Họ thật sự bị cầm tù bởi những khối bê tông, những tòa nhà cao tầng không ngừng mọc lên và đau đớn hơn là bị cầm tù bởi chính những guồng máy khổng lồ do họ tạo ra, với những kiểu suy nghĩ, những cách hành động như máy móc. Mặt trái của quá trình đô thị hóa không chỉ biểu hiện ở bình diện nổi (vật chất) mà nguy hại hơn là nó đang xâm nhập vào tâm lí của con người (tinh thần). Dần dần, cuộc sống vật chất đầy đủ đã khiến những con người ở đô thị bước vào địa hạt của sự hưởng lạc với nhiều thú vui tiềm ẩn và những nỗi bất an.

Mai Văn Phấn đã dùng ngòi bút của mình để làm nổi bật những vấn đề phức tạp, rối ren của xã hội đương đại, làm nổi bật những hiện trạng bất ổn của đời sống. Đó là tình trạng quản lý nhiễu nhương, áp đặt thay vì lắng nghe:

Không bảo được

Thanh trừng Bỏ phiếu kín           

(Xử lý nghiêm)

Đó là sự lãng phí được cho phép, là có lý do, là không thắc mắc:

Còn tươi

Vẫn phải thay

Vì cuộc họp khác       

(Hoa ở hội trường)

Những bông hoa, những lẵng hoa được trang trí trong hội trường chỉ đóng vai trò là yếu tố phụ, góp phần điểm xuyết, tăng phần trang trọng cho các cuộc họp. Nếu thiếu những yếu tố đó nội dung cuộc họp cũng không có gì thay đổi chứ khoan hãy nói đến việc là thay đi khi vẫn còn tươi. Qua đó cho thấy được thái độ ích kỉ, tham lam của một số bộ phận con người làm ảnh hưởng đến ngân sách chung. Họ chỉ chăm chăm cho lợi ích của bản thân mình. Quả thật đáng trách!

Đó là sự thờ ơ của những kẻ được giao quyền “cầm cân nảy mực”:

Vẽ một nét

Vào đâu

Mặc         

(Quy hoạch con đường)

Chỉ với ba dòng thơ ngắn gọn nhưng củng đủ để phơi bày được thực trạng công việc của các nhà cầm quyền trong xã hội đương đại.  Nhan đề thể hiện sự quan trọng, chỉnh chu, tầm cỡ bao nhiêu thì khi đi vào bài thơ lại càng thể hiện sự qua loa, tùy hứng bấy nhiêu. Còn lại sau cùng, kết thúc bài thơ chỉ là một từ “mặc”, mặc con đường được thực hiện ra sao, đi vào hoạt động thế nào, đời sống dân cư hai bên đường bị ảnh hưởng gì… đó không phải là điều mà nhà đầu tư, nhà lãnh đạo, quy hoạch thực sự quan tâm. Xã hội ngày càng lụi tàn há chẳng phải bởi những người cầm đầu như thế sao?

Không dừng lại ở việc nhìn thấy và chỉ ra những mối đe dọa từ đời sống bên ngoài, bằng cái nhìn tinh tế, cảm thông và đầy dự cảm, Mai Văn Phấn còn nhìn ra được những bất ổn, những mối đe dọa ngay cả trong đời sống tinh thần của mỗi con người hiện đại. Đó là thực trạng con người không được và không dám sống là chính mình, mờ nhòa dần những định hình căn cước:

Ai cũng thất vọng

Không dám nói

Vậy hãy viết             

(Nhật ký)

Nền công nghiệp biến con người thành đồng bộ trong những bộ đồng phục, thể chế vẽ nên tương lai và phân phát những giấc mơ giống nhau cho hết thảy mọi người. Những bản thể cá nhân riêng biệt, đậm cá tính đứng trước mối đe dọa mất quyền tự do, quyền tự quyết:

Ghi giấc mơ

Vào mẩu giấy

Nộp cho một người        

(Mọi người)

Và một hiện thực trần trụi nữa hiện lên trong thơ Mai Văn Phấn đó là cuộc sống ảo. Con người trong xã hội hiện đại dường như quên đi những khó khăn trong cuộc sống trước đây và với thời kì công nghệ 4.0 – họ sống như những cổ máy chỉ biết tô vẽ, làm đẹp cho thế giới ảo của mình:

Sống kín đáo

Giờ có facebook

Gặp cảnh gì cũng chụp      

(Bác tôi)

Bác tôi trước đây là một người sống kín đáo, khiêm nhường, ít khi phô diễn. Thế nhưng từ khi tiếp cận với công nghệ, sử dụng smart phone, biết đến facebook dường như trở thành một con người khác – gặp cái gì bác cũng chụp ảnh lại để đưa lên facebook. Thậm chí có những người kè kè điện thoại ở bên suốt ngày, không quan tâm gì đến cuộc sống xung quanh, chỉ chực chờ xem xét cuộc sống ảo ở trên mạng. Đi theo xu hướng, tiếp cận công nghệ là tốt, nhưng cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Cái gì cũng cần có chừng mực để tránh xảy ra những hệ lụy không đáng có.

2.3.2. Xã hội phi lí

Bất tín nhận thức (Epistemological Uncertainty) là một phạm trù thế giới quan tiêu biểu nhất cho ý thức hậu hiện đại.  Là sự khủng hoảng niềm tin vào các siêu giá trị đã tồn tại.  Các nhà hậu hiện đại quan niệm về thế giới như một sự hỗn độn, vô nghĩa và bất khả nhận thức, thế giới phi trung tâm mà con người trong mối quan hệ với nó luôn thể nghiệm “sự hoài nghi quyết liệt mang tính nhận thức luận và bản thể luận”(N.Bertens). Bất tín nhận thức về một thế giới hỗn mang, một hiện thực thậm phồn (hyper-reality) là một phạm trù thế giới quan tiêu biểu nhất cho ý thức hậu hiện đại. Con người không biết chắc thế giới, và cũng hoài nghi cả suy nghĩ hay hành động thường nhật của bản thân. Thuật ngữ “bất tín nhận thức” hay bất tín lý trí thuần túy (Epistemological Uncertainty) đã được Immanuel Kant (1724-1804) đề cập từ lâu. Sau đó được các nhà lý thuyết hậu hiện đại như Jacques Derrida (1930–2004), Jean Francois Lyotard (1924)… phát triển. Theo đó vấn đề được hiểu rộng ra đó là:“con người bất tín vào đấng tối cao [đủ loại đấng tối cao], bất tín hệ thống [triết học hay ý thức hệ chính trị], bất tín ngay cả nhận thức của chính mình” [26,189]. Điều đó có nghĩa là họ không đặt niềm tin vào bất cứ nguyên tắc cấu trúc nào thuộc quan niệm tổ chức thế giới như Thượng đế, chúa trời hay các quy luật vật lý. Các nhà văn hậu hiện đại phản ánh hiện thực đời sống là một mớ hỗn độn giữa thực và ảo. Cũng như nhiều nhà thơ hiện nay, thơ Mai Văn Phấn phản ánh hiện thực bất an phi lí là biểu hiện của cảm thức hậu hiện đại. Cụ thể hơn đó gọi là  tính hiện thực thậm phồn. Nó tạo cho con người cách làm quen với một cách hiểu  mới về một hiện thực mới, đó là hiện thực “của bất cứ điều gì con người có thể nghĩ hay tưởng tượng được” [47]. Con người không còn tin vào các chủ thuyết lớn. Không tin vào những gì tốt đẹp làm nền tảng, lí tưởng ở cả ba thì: Quá khứ - hiện tại - tương lai. Trong tư tưởng của Mai Văn Phấn có sự phá sản của niềm tin thần thánh, Chúa, Thượng đế. Thượng đế hay chúa trời hoặc những đấng tối cao là niềm tin để che chở cho con người. Trước một thực tại đảo lộn, phi lí khiến niềm tin ấy dần hao mòn đi, con người rơi vào trạng thái bất an, lo lắng. Các chủ thuyết lớn vẫn đang tồn tại nhưng đang bị “Giải trung tâm”, niềm tin bị lung lay nghiêm trọng, vì thế con người không còn tin vào điều kỳ diệu trong cuộc sống, họ sợ rằng một ngày nào đó sự sống sẽ biến mất:

Vũ trụ choàng áo đen lên con

Chỉ hở đôi mắt cầu nguyện

Lầm rầm con vẫn nghĩ

… bàn tay trắng máu đen lưỡi trắng nước mắt đen lưng trắng vành tai đen lọn tóc trắng mồ hôi đen…

Màu đen tràn lên mọi điều sẽ kết thúc

Hãy nguyện cầu cứu lấy nhân gian                          

(Cửa Mẫu)

Mai Văn Phấn đã thể hiện chất hiện thực là sự chiêm nghiệm về một thế giới đầy mâu thuẫn, khó hiểu, khó lí giải. Cuộc sống như những mảnh vỡ được đan cài bởi những mặt đối lập. Bản chất của thực tại đôi khi thật phũ phàng nhưng buộc con người phải chấp nhận:

Bình minh lên chiếu sáng nửa đời

Còn nửa kia chìm vào bóng tối      

(Màu xanh)

Bình minh mang ánh sáng chiếu nửa địa cầu và nửa địa cầu kia chìm vào bóng tối, một hiện tượng tự nhiên bất biến nhưng hai chữ “nửa đời” gợi nhiều liên tưởng. “Đời” là trái đất, cõi đời mà cũng là cuộc đời, đời người. Ánh sáng của bình minh soi chiếu tâm hồn con người. Con người trước ban mai thanh khiết mà tự nhìn nhận chính mình, đối diện với bản lai diện mục của mình. Và phải chăng không có con người hoàn hảo. Trong mỗi chúng ta đều tồn tại song song những mặt đối lập tốt – xấu, thiện – ác, thiên thần – quỷ dữ,… Phần dễ nhận diện là phần “sáng”, phần lẩn khuất là “bóng tối”. Cuộc đấu tranh giữa “ánh sáng” và “bóng tối” trong mỗi người cũng khốc liệt “một mất một còn” như cuộc giao tranh giữa bình minh và bóng tối của vũ trụ, của hai nửa địa cầu.

Trong thơ Mai Văn Phấn hiện thực ấy còn là sự mơ hồ, thực và ảo lẫn lộn. Ở bài Chọn cảnh, ta thấy con người cảm nhận không gian bằng con mắt đầy lí tính, những va đập mạnh của các giác quan. Bài thơ còn cho thấy mối giao hòa đặc biệt, thơ đi giữa nhiều đối cực, giữa thời sự và tâm linh, mơ mộng và thực tại, nóng bỏng và chán chường… Bầu khí quyển như bị rút cạn khiến con người cảm thấy cuộc sống trở nên ngột ngạt, khó thở, bơ vơ và vô định:

Trong mơ ngả mình trên biển

gối đầu lên tay em

Tôi mang giấc mơ ra phố

lúc ăn sáng thấy mình giống miếng mộc nhĩ

sôi lên trong nồi nước dùng

nồi nước sâu 8 mét

Vào thăm bạn trong ngõ hẹp

biển số nhà giống miếng mộc nhĩ

đang sôi trong nồi nước dùng

tiếng bạn vọng từ độ sâu 8 mét

Khép bớt cửa vì lạnh

Hơi ẩm mơ hồ ngấm xuống rất sâu                    

(Chọn cảnh)

Một bài thơ luôn mang lại cho ta những bất ngờ đến từ mỗi câu thơ và ta không thể đoán định nổi câu thơ trên Mai Văn Phấn sẽ viết gì về “cái độ sâu 8m” đã ám ảnh nhà thơ (và ám thị luôn cả người đọc). Ta thấy có vẻ như ở đây hiện lên sự phi lí, phi đời sống và phi hiện thực. Và ở giác độ mới này, nhà thơ đã phát hiện giúp chúng ta những cảm nhận khác lạ về một số hiện tượng đời sống ở những góc rất khôi hài và nhiều ý vị.

Và cái xã hội phi lí kia hiện lên rõ nét hơn, đậm màu hơn trong tập thơ mới ra lò của Mai Văn Phấn – trường ca Thời tái chế. Là những trang thơ tái hiện cuộc sống hiện thực, thể hiện cái nhìn về xã hội hiện tại. Nhưng càng tái hiện nó càng nổi rõ sự hỗn độn, bất an, phi lí. Xã hội trong hiện tại là “mớ bòng bong, ổ con nhện khổng lồ”, một vùng đất “đang lồng lên như ngựa vía”. Đất nước lúc này là tập hợp của những mô hình rời rạc, lắp ghép một cách cơ học, vĩnh viễn không thành một chỉnh thể.  Tất cả hiện lên như một sân khấu khổng lồ mà các nghệ sỹ “ai cũng cười giống nhau”. Nhưng kì lạ nhất, đó lại là một sân khấu trống rỗng. Nó trống bởi thực chất đó là thực tại đang diễn ra. Một thứ thực tại nước đôi vừa là nó vừa sắm vai chính nó. Với một cá nhân hoặc một cộng đồng, hiện thực là không khí để hít thở hàng ngày, là môi trường để vận động từng giây từng phút. Nhưng trong tổng thể, tất cả đều chỉ là sản phẩm của một đạo diễn “kẻ tiên tri, người tổ chức, nhà thấu thị” đang “mỉm cười khó hiểu, rồi bỏ ra ngoài hút thuốc vặt”.

Xã hội hiện tại có quá nhiều mặt trái, nhiều ngóc ngách, ngã rẽ, nhiều đến mức con người không thể nào thấu hết được. Xã hội quá rộng lớn, cuộc sống cứ diễn ra và con người cứ ngày ngày quay vòng theo guồng cuộc sống đó. Có những điều chúng ta nhìn thấy được, cảm nhận được, nhận thức được bằng lí trí và có những điều  khó nhận ra bởi nó được phủ sau một tấm màn chắn. Chúng ta như bị bịt mắt trước những sự thật đời sống bày ra hiển nhiên “sau khi được bôi mặt trắng, anh ta nhìn sang trần gian bỗng toát mồ hôi. Sao ở bên đó bao nhiêu năm mà nhiều lẽ giản đơn, tự nhiên anh ta không biết”.

Xã hội ngày càng phát triển nhưng kéo theo đó cũng đi kèm với bao nhiêu hệ lụy. Cuộc sống công nghiệp hóa, đô thị hóa không đồng đều dẫn đến thực trạng xã hội càng có sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Cứ tưởng rằng xã hội phát triển, văn minh thì cuộc sống người dân càng ổn định, sung túc. Thế nhưng người ổn định cứ ổn định, kẻ vơ vất vẫn vất vơ. Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn, chỉ thông qua hình ảnh “con chó béo ú” nhưng chẳng thuộc về làng, Mai Văn Phấn đã làm phơi bày được sự xác xơ, khốn khó của làng quê nơi đây. Cuộc sống vốn dĩ là không công bằng, nhưng đến mức kẻ giơ xương người tròn lẳn thế thì quả là quá bất công: 

Làng quê nghèo

Gặp con chó béo ú

Chắc ở đâu đến chơi    

(Qua ngõ hàng xóm)

Trong thế giới này, nhiều thứ tưởng như hữu hình thì hóa ra đều là hư vô. Cuộc đời tưởng là rộng lớn nhưng thực ra lại rất chật hẹp, quẩn quanh, nhàm chán, đơn điệu và bế tắc. Con người sống giữa cuộc đời luôn hoài vọng về những điều tốt đẹp, tưởng như có thể tự nắm bắt được số phận của mình nhưng thực ra họ chỉ là những hạt cát bé nhỏ, trôi dạt, vô định, luôn phải đối mặt với những bất trắc và rủi ro. Nền văn minh mà con người cố tạo dựng đôi khi lại trở nên vô nghĩa, vì chính nó lại đang tạo ra những giá trị ảo khiến con người mất phương hướng. Con người mất niềm tin vào chính nền văn minh của mình. Hiện thực cuộc sống hỗn độn, bấp bênh, phi lí đã khiến cho con người nói chung và những người nghệ sĩ nói riêng cảm thấy bất an. Thế giới ấy không còn nguyên vẹn như trước mà thay vào đó là nỗi thất vọng, chán chường.

2.3.3. Xã hội trong tưởng tượng

Xã hội trong tưởng tượng được hiểu đó là thế giới hiện lên trong tâm tưởng, trong ý nghĩ của nhà thơ. Nó diễn tả thế giới mà nhà thơ khao khát được bước vào, nó khác với cuộc sống thực tại mà nhà thơ đang sống. Xã hội đó, cuộc sống đó bao giờ cũng tươi đẹp, viên mãn hơn, nó không chỉ là niềm khát khao, niềm mơ ước của nhà văn mà của bao con người đang sống trong xã hội hiện tại. Trong sáng tác, các thi sĩ thường có cái hơn người ở năng lực tưởng tượng. Trí tưởng tượng phong phú giúp họ tồn tại mãi với thời gian. Đặc biệt, trong thơ, nếu tác giả không biết cách rèn luyện về khả năng tưởng tượng trước thế giới hiện thực sẽ khó có tác phẩm gây ấn tượng với bạn đọc. Tưởng tượng là năng lực luôn đi liền với trí tuệ và tài năng của nhà thơ. Đọc thơ Mai Văn Phấn ta thấy có rất nhiều bài được xây dựng từ trong giấc mơ, trong ý nghĩ. Nó phản ánh tâm tư, nguyện vọng và bao khát vọng nhà thơ muốn gửi gắm về một xã hội tương lai:

             

Em và anh tụ thành nước mát

mưa xuống những nụ hôn làm lại thế gian

(Những bông hoa mùa thu)

Với Mai Văn Phấn, con người là chủ nhân của thế giới, vậy chính con người mới có thể làm chủ cuộc sống của chính mình, tìm lại những điều mà mình mong muốn và xây dựng nó ngày càng tươi đẹp hơn. “Em” và “anh” là hai giọt nước, là hai cá thể độc lập, nhưng tình yêu đã gắn kết em và anh lại với nhau thành dòng nước mát, em và anh đã hòa vào nhau tạo nên một tình yêu cao đẹp và thánh thiện. Tuy nhiên, thứ tình yêu đó có nghĩa lí gì? Em và anh giờ đây không còn là hai cá thể, không còn là hai con người độc lập riêng rẽ, hai giọt nước vô định nữa và tình yêu của anh và em  cũng không còn là thứ tình cảm riêng tư nữa, nó đã hòa vào dòng nước chung của cõi nhân gian trong một cơn mưa. Tình yêu ấy góp phần dựng xây lại thế giới này, để cõi người thực sự “người” hơn.

Con người trong xã hội hiện tại luôn mơ đến một thế giới tươi đẹp, không xô bồ, thị phi, không rối ren, lọc lừa. Và sống trong xã hội đó con người không cần phải đề phòng nhau, họ có thể thoải mái, vô tư hưởng thụ cuộc sống:

Con chó mơ

thức dậy trong nắng sớm

quen hơi những người khách qua đường

không cần xồ ra và sủa giận giữ

không bị khinh rẻ đánh đập

thức ăn quen đã bày

Tôi mơ:

đêm ngủ không cần khóa cửa

ra đường chẳng ai lừa mình

họ nghĩ sao nói vậy

thoáng món ăn ngon và nắng đẹp                    

(Nếu)

Con chó mơ đến một thế giới tươi đẹp, trong thế giới đó nó được thức dậy đón ánh bình minh, nó đã quen hơi những người qua lại, không cần phải đề phòng, dò xét là người quen hay kẻ lạ, là kẻ thiện lương hay quân trộm cướp. Con chó cũng mơ nó được sống cuộc đời của mình, được ăn những món ăn mà mình yêu thích, đến bữa đã được bày dọn sẵn, và nó không còn bị khinh rẻ, đánh đập. Con chó muốn trở thành những người bạn thân thiết, bạn tâm giao của con người chứ không phải là giống hạ đẳng, bị coi thường. Và con người cũng tưởng tượng đến một cuộc sống  bình yên, đêm đi ngủ không cần phải khóa cửa, không cần phải lo lắng vì nguy cơ kẻ trộm đột nhập bất cứ lúc nào.  Họ mơ con người sống thật lòng với nhau, không toan tính, lọc lừa. Và con người cũng muốn an yên hưởng thụ cuộc sống với những món ăn ngon, những ngày nắng đẹp. Cuộc sống là những chuỗi ngày bình yên dần trôi, vui vẻ và hạnh phúc.

Trong rất nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn đã trực tiếp hay gián tiếp nói đến sự bất an của xã hội. Nhưng ở trong bài thơ “Ngậm em trong miệng” những nỗi bất an đó đã được ông liệt kê ra hàng loạt không né tránh: chiến tranh, dịch hạch, thị phi, cạm bẫy, lọc lừa, lối đi đầy gai nhọn, bão tố triền miên… Và để có thể bảo vệ tốt cho em – tình yêu của anh, hạnh phúc của anh thì anh phải biến thành “bức tường” để ngăn chặn. Và cách tốt nhất là giấu em vào trong miệng anh – một thế giới không hề có những thứ đó tồn tại khiến anh luôn bất an, lo sợ vì sự an nguy của em. Mai Văn Phấn đã mượn hình ảnh anh và em để vẽ nên bức tranh xã hội toàn cảnh – một xã hội rối ren, phức tạp, đầy rẫy bất an. Và sống trong xã hội đó con người muốn an yên thì chỉ còn cách lui về củng cố cái đơn vị xã hội nhỏ bé của mình là gia đình riêng. Từ cái riêng làm nên cái chung, từ cái nhỏ xây dựng nên cái lớn. Trật tự xã hội nhờ đó mới được yên ổn:

Luôn tin có em trong miệng anh

Nơi không chiến tranh, dịch hạch

Mũi tên bắn lén tẩm độc

Thị phi, cạm bẫy, loc lừa

Lối em đi không còn gai nhọn

Bão tràn qua anh dựng tường ngăn                              

(Ngậm em trong miệng)

Để tránh xa thị phi, cạm bẫy, lọc lừa, để rời xa chiến tranh, dịch hạch – Mai Văn Phấn hướng suy nghĩ con người đến một thế giới mới, và trong thế giới đó con người được tự do làm điều mình thích:

Ta là chiếc bình gốm hở miệng

Thông với bên ngoài

Trong tôi

Vườn ươm hạt giống

Nắng sớm đang tưới

Đẫm từng gốc                   

(Tĩnh lặng 11)

Chủ thể phát ngôn của bài thơ tự giới thiệu mình là một chiếc bình gốm. Phải chăng được làm người, được sống trong thế giới loài người quá nhiều thị phi này khiến con người ta qua sợ hãi, muốn xa lánh và muốn được sống như những chiếc bình kia? Chiếc bình mà thi sĩ nhắc đến ở đây không phải là chiếc bình gốm thông thường mà nó là chiếc bình của Bồ tát. Đó là chiếc bình ban dưỡng chất cho thế gian sầu thảm và tưới nước gột rửa những bạo tàn của thế giới. Vậy phải chăng khi muốn trở thành chiếc bình là nhà thơ muốn mang trong mình một khát vọng lớn lao – muốn cứu thế giới? Chiếc bình gốm đang mở miệng ra với thế giới bên ngoài kia. Có cái gì bên trong chiếc bình này? Có cái gì bên trong cơ thể này? Mỗi cơ thể mang trong mình một khu vườn. Và mỗi người tùy ý gieo hạt với sự lựa chọn của mình nơi đó. Và những sự lựa chọn của mình được đâm chồi nảy lộc dưới sự giúp đỡ của tạo vật – nắng sớm tưới đẫm từng gốc.

Cuộc sống quá nhiều những rối ren, thị phi, cạm bẫy nên con người mới mang trong mình những mơ ước, hoài bão, khát vọng. Mai Văn Phấn đã xây dựng trong tưởng tượng của mình một thế giới không chỉ riêng ông mà đó là điều mà ai ai cũng mong muốn. Ở trong thế giới đó con người sẽ được làm chủ cuộc sống của mình, được tự do làm những điều mình thích, và chính con người cùng với tình yêu của họ sẽ cứu rỗi thế giới, làm cho thế giới trở nên tươi đẹp hơn. Xã hội tươi đẹp hơn đó là một nơi mà mọi người sống vui vẻ, hạnh phúc, hòa thuận với nhau, không lọc lừa toan tính, không cạm bẫy thị phi. Con người sẽ ươm mầm, tắm tưới cho cuộc sống xã hội ngày càng tươi đẹp hơn, đúng như cuộc sống mà họ hằng khát vọng, ao ước.

Tổng hợp các tác phẩm có dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ cảm quan về cuộc sống, con người và xã hội được sử dụng trong luận văn, chúng tôi có bảng hệ thống (xem phía dưới Tài liệu tham khảo).

 

Như vậy, trong 11 tập thơ của Mai Văn Phấn được sử dụng trong luận văn, chúng tôi đã khảo sát dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ cảm quan về cuộc sống, xã hội và con người ở 65 bài thơ tiêu biểu. Có thể những bài thơ này không phải là những bài thơ tiêu biểu nhất của Mai Văn Phấn nhưng đây là những tác phẩm thể hiện rõ nhất dấu ấn hậu hiện đại xét về phương diện cảm quan về cuộc sống, con người và xã hội.

 

*

*            *

Cảm quan về cuộc sống, về con người và xã hội chính là động lực thúc đẩy, kích thích sự thay đổi, sự đổi mới thơ ca của các thi nhân. Chính hiện thực cuộc sống bề bộn, ngổn ngang, phức tạp đó đã tác động, thúc đẩy một sự biến đổi mạnh mẽ. Xã hội chúng ta đang sống là xã hội hiện đại nhưng đã mang tâm thức của thời hậu hiện đại. Xã hội ấy đem đến cho con người những lợi ích thiết thực, những nhu cầu được giải tỏa, sự tiến bộ và văn minh hướng đến cái tốt đẹp, những giá trị chân – thiện – mỹ sâu sắc. Nhưng mặt khác cũng chính xã hội ấy lại bắt đầu nảy sinh những mâu thuẫn và hoài nghi, những giằng xé cuộn sóng. Sống trong xã hội rối ren, phức tạp đó, hình ảnh con người hiện lên là những mảnh ghép cô đơn, là những con người vô bản sắc, là những con người với những mong muốn, khát khao mãnh liệt. Mai Văn Phấn luôn đổi mới bút lực của mình. Chính cái nhìn về thế giới, về cuộc sống của Mai Văn Phấn đã làm thay đổi tâm thế và hình thức thơ ông. Thơ Mai Văn Phấn ngày càng có sự cách tân táo bạo, đi gần hơn với nền văn chương hậu hiện đại. Chính cảm quan về cuộc sống, con người và xã hội mang đậm dấu ấn hậu hiện đại đó đã tạo sức hút đối với người đọc.

 

 

 

CHƯƠNG 3


DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN

 

3.1. Ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn

Thơ ca lấy ngôn ngữ làm phương tiện biểu hiện cho mình. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, tư duy thơ lại thay đổi theo tư duy cuộc sống và những yêu cầu của thời đại. Điều đó kéo theo những biến đổi tất yếu trong ngôn ngữ thơ. Không thể đặt một thứ “rượu mới” trong một chiếc “bình cũ”. Tư duy thơ hiện đại không thể nằm trong lớp vỏ ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng của thơ ca trung đại, cũng như chẳng thể dùng ngôn ngữ trang trọng một thời trong thơ ca cách mạng để diễn đạt tư duy tỉnh táo, lí trí, thực tế của thơ ca thời đại hôm nay. Đánh giá về vai trò ngôn ngữ thơ, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Chính con chữ, qua cấu trúc nghệ thuật của nhà thơ sẽ cho ta hiểu được chiều sâu và sự ngân vang của tình, giọng điệu và tư tưởng nghệ thuật của họ... Trong thơ, chữ cũng chính là tư duy, là cách nói và thái độ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Như vậy, sự đổi mới trong thơ bao giờ cũng là sự đổi mới đồng bộ giữa cái nhìn nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ và vai trò của nó” [31; 29]. Để đánh giá, nhìn nhận một tác phẩm, một phong cách tác giả, hay một thời kì văn học, yêu cầu đầu tiên là phải thâm nhập được vào mã ngôn ngữ, để rồi từ đó phát hiện ra được những vấn đề tiềm ẩn trong lớp vỏ ấy: tư duy, tài năng, phong cách của người cầm bút...

Mỗi nhà thơ trong quá trình sáng tác đều cố gắng tạo cho mình một phong cách, và cũng chú ý xác lập nên một mã ngôn ngữ riêng. Mục đích cuối cùng là tạo ra được sự hòa  hợp, thống nhất giữa cảm hứng thơ và ngôn ngữ biểu hiện, tạo nên một thể nhất quán, để trong đó mỗi từ mỗi câu được sử dụng đều có khả năng chuyển tải trọn vẹn cảm xúc, tư duy của người viết và đóng những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Thơ Mai Văn Phấn về đại thể có thể nhận thấy một số đặc điểm nổi bật sau:

3.1.1. Ngôn ngữ mơ hồ hóa

Một trong những đặc tính nổi bật của thơ đó là tính mơ hồ hóa. Tính mơ hồ này không mâu thuẫn với tính chính xác. Tất cả đều được nghệ thuật hóa thể hiện tư tưởng của nhà thơ. Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ là một trong những yếu tố đặc biệt. Nó được thể hiện ở chỗ các tác giả muốn hướng người đọc đến sự không rõ ràng, rành mạch, không xác thực, như thực như hư. Thơ gợi nhiều hơn tả, khoảng trống trong thơ chứa đựng khoảng lặng giàu suy tư cảm xúc, nó đưa người đọc đến tận cùng của suy nghĩ. Sở dĩ vậy, xét về mặt nội dung, thơ giàu tính mơ hồ vì nó nhiều hình ảnh, hàm súc, ý ở ngoài lời. Trên phương diện hình thức, thơ ca cũng mang tính mơ hồ, bởi vì trên mặt giấy ngoài phần chữ nổi còn có khoảng trắng, gợi biết bao điều bí ẩn, câu thơ, lời thơ có khi bỏ lửng để cho người đọc có thể tự do tưởng tượng, tự do suy luận đắm chìm trong suy tư của mình. Theo Trần Đình Sử “Bài thơ là một ảo ảnh, và lời thơ gây mơ hồ cho người đọc”. Như vậy tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ khiến cho lời thơ trở nên mơ hồ đa nghĩa. Thế nhưng để có thể hiểu tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ là gì? Nó có ý nghĩa gì đối với văn chương có lẽ không phải ai cũng trả lời được. Theo W.Empson mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, dùng để biểu đạt nhiều loại sự vật cho phép có nhiều cách giải thích. Trong “Bẩy loại hình nghĩa mơ hồ” ông đã dày công nghiên cứu và phân loại. Tuy cách phân loại này chưa được rạch ròi, nhưng qua đó ta thấy được tính mơ hồ được biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau: dùng các hình ảnh mang tính ẩn dụ, tượng trưng, so sánh; dùng các câu như câu đảo trật tự từ, câu lược từ; sử dụng một từ có hai ý nghĩa, hai ý tưởng, hai giá trị… Giáo sư Trần Đình Sử cũng dựa vào lí thuyết Empson chia mơ hồ thành các phương thức: mỉa mai, nghịch lí, song quan… Như vậy mơ hồ hóa trong ngôn ngữ thơ là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu. Các quan niệm dù khác nhau nhưng chung quy đều có điểm chung: Tính mơ hồ của ngôn ngữ thơ là khả năng tạo nên sự không xác định (mơ hồ) về nghĩa của ngôn ngữ thơ ca. Nghĩa không xác định này tạo nên dư vị tạo tính hàm súc của thơ. Từ đó khiến cho hình tượng thơ trở nên hàm súc, đa nghĩa, gợi nhiều hơn tả.

Sự cách tân, đổi mới thơ ca của Mai Văn Phấn thể hiện rõ nhất ở phương diện ngôn ngữ. Nếu như các nhà thơ cổ điển dùng chữ để biểu hiện cuộc nhào lộn của tu từ pháp thì Mai Văn Phấn với tư cách là một nhà thơ hiện đại lại dùng chữ để biểu lộ ý nghĩ của mình hay cái mình muốn nói. Bằng những cảm xúc rất thật với cuộc đời, Mai Văn Phấn đã viết nên những vần thơ cuồn cuộn phù sa, dữ dội mà không kém phần cuốn hút và ám ảnh. Đọc thơ Mai Văn Phấn, nếu chỉ đọc một lần thì có lẽ rất khó để hiểu, rất khó để cảm nhận. Muốn khám phá thế giới thơ Mai Văn Phấn đòi hỏi phải lao động hết mình, nghiêm túc. Bởi lẽ “chữ nào của anh cũng nặng, hằng số ảo trong từng con chữ rất cao. Giữa hai dòng thơ, giữa các con chữ là sự bất tận của những cảm nhận, những rung động tận đáy tâm hồn, những ấn tượng mạnh mẽ, có khi thành nỗi ám ảnh” [43].

Có khi trong những trang thơ Mai Văn Phấn xuất hiện những câu mà sự kết hợp giữa những ngôn từ không liên quan gì nhau, ngôn từ được tĩnh lược tối đa làm cho hình tượng thơ nhòe đi trong cảm nhận.

Tôi đợi

Những cánh chim

Mỏi mòn

Chân bồn chồn

Dòng sông

Trong đục...

(Lời của đá)

Những câu thơ không đầu, không cuối, không vần, không nhịp, làm cho nghĩa của cả câu, cả bài trở nên mơ hồ, vô nghĩa. Tác giả đã mở ra một khoảng trống tự do và yêu cầu độc giả cùng tham gia sáng tạo để mở ra một chân trời cảm nhận cho riêng mình.

Thơ đôi lúc cũng không cần phải quá rõ ràng, bởi vì trong nhiều trường hợp một câu thơ sẽ đẹp hơn nhiều khi ta cảm nó thay vì hiểu nó. Những câu thơ của Mai Văn Phấn nhiều khi nhòe đi do sự tỉnh lược và dồn nén ngôn từ:

Trời tối

Ghé sát hoa

Đọc nốt trang sách

(Hoa mận trắng)

Câu thơ cho người đọc một sự ngỡ ngàng, khó đoán định. Nhưng tại sao phải cố hiểu hay giải thích nghĩa của từng câu chữ làm gì? Trước mắt ta là cả một bức tranh tươi đẹp. Ta có thể thấy sắc trắng của hoa mận rạng ngời. Hình ảnh gợi lên khung cảnh thật trữ tình. Đó là hình bóng của thi nhân ngồi đọc sách bên hoa mải miết, say mê đến quên cả thời gian.

Hay như với bài thơ Cái nhìn, chỉ với ba câu thơ hay nói đúng hơn là ba dòng thơ ngắn ngủi nhưng nó mang đến cho ta nhiều cảm nhận:

Vũng nước nhỏ dưới chân núi

Soi

Tận đỉnh

(Cái nhìn)

Vũng nước nhỏ dưới chân núi đã tạo nên hai hình ảnh tương phản cả về vị trí không gian và hình khối không gian. Nó gợi liên tưởng đến đẳng cấp, vị trí, tầm vóc của con người trong xã hội, trong hoàn cảnh sống. Và rộng hơn nó còn gợi tới cả trí tuệ, tâm hồn con người. Vũng nước bé nhỏ kia những tưởng sẽ bị ngọn núi che khuất nhưng nó lại có thể soi rõ mọi thứ thì chắc hẳn nó phải rất trong. Phải trong xanh nó mới có khả năng soi lên đến tận đỉnh. Từ đó ta có thể suy rộng ra quan niệm triết lí về cuộc sống con người: nếu con người có ý thức thanh lọc tâm hồn thì sẽ hướng tới sự giải thoát, sự tự do tuyệt đối, không gì có thể che lấp được như vũng nước bé nhỏ kia.

Ngôn ngữ mơ hồ hóa là một trong những thủ pháp quan trọng trong việc cách tân thi ca của Mai Văn Phấn. Đây là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng để nhà thơ tạo ra cảm giác mới lạ, hấp dẫn, cho phép nhìn cuộc sống một cách sâu sắc và toàn diện hơn.

Nhà thơ Hoài Khánh từng nhận định: “Là một nhà thơ tiên phong cho việc cách tân thi ca trong cả nội dung và hình thức, qua những ngôn từ lạ và nền tảng xúc cảm có bề dày, Mai Văn Phấn hi vọng mang đến cho bạn đọc yêu thơ có thêm một giọng điệu mới, một bầu không khí mới” [51]. Còn nhà thơ Vĩnh Phúc lại mách bạn đọc: “Hãy đọc Mai Văn Phấn trong lặng im và để thơ cuốn ta đi với nhịp điệu của cảm xúc nội tại, với tầng tầng ngôn ngữ đa chiều và những xếp lớp hình ảnh lạ lẫm đến bất ngờ kiểu như...em gieo trồng trên ngực/ Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt...hay... Bổ nhào từ đỉnh cao/ Bằng đôi cánh sắc/ Lấy tâm điểm xác chết/ Chém toác bầu không/ Gió hấp tấp không chịu băng bó...” [57].

Bài thơ Con đại bàng của Mai Văn Phấn được rất nhiều người đánh giá là một bài thơ hay. Hay bởi lẽ nó không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn bởi sự độc đáo về ngôn ngữ. Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng  nói lên biết bao nhiêu điều:

Bay cao

Càng tin

Trái đất là giọt sương

(Con đại bàng)

Đại bàng là chúa tể của các loài chim, chúa tể của bầu trời. Ngay từ câu thơ mở đầu Bay cao, nhà thơ Mai Văn Phấn đã cho ta thấy đại bàng hiện lên với một tư thế tuyệt đẹp, hiên ngang, ngạo nghễ giữa trời. Khi bay cao đại bàng “càng tin”... Đại bàng đã tin điều gì? Và vì sao khi bay cao, đại bàng lại “càng tin”? “Càng tin” ở câu thơ thứ hai như bản lề khép mở nối kết ý câu thơ thứ nhất với ý câu thơ thứ ba: Trái đất là giọt sương.  Đây là một thi ảnh rất lạ và đẹp. Một so sánh vừa hữu lý nhưng cũng vừa phi lý. Hữu lý ở chỗ, ở độ cao vót, trong mắt đại bàng, trái đất bị thu nhỏ giống như “giọt sương”. Còn phi lý ở chỗ, trái đất của chúng ta vốn là hành tinh một cá biệt trong vũ trụ, với hình dáng xù xì thô tháp lại được so sánh với cái mong manh, dễ tan biến nhưng trong suốt lung linh là “giọt sương”. Có “bay cao” thì đại bàng mới càng tin “Trái đất là giọt sương”. Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng đã làm hoàn chỉnh vẻ đẹp của Đại bàng: đẹp ở tư thế, niềm tin và đẹp ở tầm nhìn và cái nhìn về cuộc sống. Ba câu thơ đã vẽ nên đường bay của đại bàng. “Bay cao” là điểm xuất phát còn nhìn thấy “Trái đất là giọt sương” mới là cái đích đến của nó. Chính cái đích đến đó mới củng cố niềm tin cho đại bàng “càng tin” về cái nhìn của mình. Cũng như đại bàng, trong hành trình vào đời, con người trước hết phải có ước mơ, hoài bão, có niềm tin vào chính mình và vào cuộc sống. Đó là tư thế nhập cuộc. Có vậy mới giúp ta có cái nhìn tích cực về cuộc sống, biết yêu và biết trân trọng cuộc sống. Trong hành trình cái đích đến mới là cái quan trọng nhất.

Ở một số bài thơ, Mai Văn Phấn sử dụng cách chơi chữ để thể hiện thái độ của mình đối với thế giới.  Qua cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo ông đã làm hiện lên hiện thực thế giới đầy rẫy bất an, kéo theo đó là sự lo âu của con người:

Cánh bướm nặng nhọc nâng mặt đất trầm mặc sũng ướt lên cao mặt nước phẳng lặng giãn nở muôn vẻ hạt mưa rồi tự tin vung lưới rìu sóng nước quăn cùn bổ vào sườn đất hạc khô hóa thạch vọng lên mặt cỏ rân rân tiếng mùa xuân nơi nơi mù khói nứt nẻ dưới gót giày trẻ con mở viện bảo tang khổng lồ soi ánh mắt ngây thơ vào khuôn mặt méo lệch đọng nước mắt rắn đanh hình dạng nham nhở màu máu thớ đất nhểu dài lời người lớn phân bua mơ hồ xa tít bông hoa gần nhất khiến bàn tay rền vang cùng tiếng bi bô tràn âm thanh dội ngược làm vũng nước nín thở rung mình nghe hút nẻo tháng ngày tiếng sấm nổ gọi mùa hoa gạo…             

(Mười bài tập mùa xuân)

Đoạn thơ hiện ra với hàng loạt những hình ảnh rối bời, cuộn xoắn, không chấm, không phẩy, không biết nút tháo khiến ta nghĩ đến một con dốc chữ đang trên đà đổ xuống, ập vào, nuốt trọn. Cái “méo lệch”, “rắn đanh”, “nham nhở màu thớ đất nhểu dài”, “âm thanh dội ngược”, “vũng nước nín thở rung mình”… gợi sự dồn ép, nén chặt trái tim, co thắt lồng ngực và rờn rợn một nỗi sợ hãi như một tiếng thở nén lòng trước báo áp lực cuộc đời mà con người phải đối diện. Là thế giới thực sự đáng sợ như thế hay bởi lòng người cứ tự huyễn hoặc mình? Cách sử dụng ngôn ngữ của Mai Văn Phấn quả thực rất độc đáo và thú vị. Mai Văn Phấn thành công trong việc cách tân ngôn ngữ thi ca nhằm đạt đến độ nhuần nhuyễn, tự nhiên trong quá trình sáng tạo ngôn từ theo hướng mơ hồ hóa mà vẫn không hề đánh đố người đọc.

3.1.2. Ngôn ngữ tạo sinh

Bên cạnh ngôn ngữ mơ hồ hóa,  thơ  Mai Văn Phấn có kiểu ngôn ngữ tạo sinh. Ngôn ngữ tạo sinh nghĩa ở đây có thể hiểu là thứ ngôn ngữ mà nhà thơ sử dụng đưa lại cho người đọc, người nghe nhiều cách hiểu khác nhau. Giống như lời nhận định của PGS.TS Đào Duy Hiệp: “Trong trò chơi ngôn ngữ đó, văn bản thơ không còn cho một nghĩa cố định, duy nhất đúng, mà còn có những nghĩa “tự sinh” trong quá trình đọc. Tôi hình dung rằng, nếu từ ngữ theo nghĩa từ điển là hình vuông, (“trăng” là trăng, “mưa” là mưa), vuông thành sắc cạnh; thì cũng những từ ngữ đó, trong thơ, chúng là hình tròn, mà chứa trong nó là hình vuông của nghĩa từ điển. Phần dư thừa của hình tròn đã mang nét nghĩa khác do được cộng sinh từ trường từ vựng, âm hưởng, giọng điệu, tiết tấu,.. của bài thơ. Thơ thực dụng, thơ tuyên truyền hoặc thơ rao hàng thì chỉ có một nghĩa, tạm gọi là “thơ vuông” [47]. Còn theo nhà nghiên cứu Hồ Thế Hà: “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt Nam – mà là hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ. Ý thức đổi mới thi ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính người thơ mà anh tự gọi là “vong thân” – tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó của mình để được tồn tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một dạng thái ngôn ngữ luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm cho thế giới thơ Mai Văn Phấn không ngừng vận động, không ngừng phá và thay.”

Mai Văn Phấn đã nhận  ra một khả năng kì diệu của ngôn ngữ ở chỗ các đơn vị ngôn ngữ có thể thay thế cho nhau, nhờ vào tính tương đương, đồng dạng giữa chúng. Và ngôn ngữ trong thơ Mai Văn Phấn rất giàu sức gợi, mở ra cho người đọc nhiều cách nghĩ, cách cảm khác nhau:

Xối ánh sáng vào từng góc khuất

Khóc khuất như lò thúc mầm

Như thép nóng đem tôi vào nước

Như quả trứng trong lò đang ấp

Rễ thân cành đã chiết đâm ngang

Tắm gội cho mùa xuân về

Vừa lặn vào ánh sáng

Vừa gọi thần ông bà, cha mẹ

Cơ thể bốc cao về phía ngọn đèn

Vừa xối mạnh vừa gọi tên em

Ánh sáng bồng bềnh bụng mang dạ chửa

Thử gọi một ai xa lắc xa lơ

Ngọn đèn lặng phắc càng tỏ

Càng tỏ                                           

(Tắm đầu năm)

Xưa nay ta thường nghĩ đến tắm là một hành động làm sạch cơ thể. Tắm thường diễn ra vào cuối ngày hoặc ngày cuối năm. Đó là hành động tổng kết cơ thể, loại bỏ hết những tạp chết trên người để đón ngày mới, năm mới. Thế nhưng Mai Văn Phấn lại tắm vào dịp đầu năm, và  tắm bằng ngọn đèn. Ngọn đèn đó chứa đầy ánh sáng, càng lúc càng tỏ, xối sâu vào từng góc khuất như “lò thúc mầm”. Người đọc có thể cảm nhận được rằng thứ ánh sáng đang được dội khắp ngõ ngách cơ thể ấy chính là thứ “nước thánh” để thanh lọc cơ thể, xóa đi những bụi bẩn của cuộc đời, tẩy rửa những hoen ố của tâm hồn, để con người hướng về những tình cảm đơn thuần nhất giữa người với người, để đón mùa xuân của đất trời và đón chào cả mùa xuân tâm hồn của chính mình sau nghi lễ “rửa tội” đầy thiêng liêng, thành kính:

Mặt đất vừa qua phút lâm bồn

Anh về hụt bước trước hoàng hôn

Chân trời phía ấy vừa se lại

Chiều rỗng mặc kim chỉ gió luồn

(Nghe tin em sinh con)

Trong đoạn thơ trên Mai Văn Phấn đã mượn hình ảnh đất đai – một biểu tượng của sự phồn sinh để nói về công cuộc vượt cạn vĩ đại nhưng cũng không kém phần nhọc nhằn của người phụ nữ. Đất đã được hình dung như cơ thể một người phụ nữ, cũng trải qua sứ mệnh thiêng liêng cao cả của mình. “Mặt đất” vừa trải qua phút “lâm bồn” cũng giống như em vừa vượt cạn thành công. Giây phút đó thật nhọc nhằn vất vả nhưng cũng thiêng liêng cao quý biết nhường nào.

Mai Văn Phấn là người có ý thức cách tân thơ ca rất mãnh liệt, điều đó còn được thể hiện rõ trong những trang thơ. Ông đã sử dụng những kí hiệu biểu tượng để nói lên khát vọng của mình:

Từ tưởng tượng

Và niềm khát vọng

Tôi rút những mũi tên

Ra đi tìm đích cho ngày.

Quanh tôi những tấm bia bất động

Đây ngó sen vời vợi đáy hồ

Kia lũ trẻ trần truồng chạy vào tôi hơn bốn mươi năm trước

Tôi mù mờ ngắm những mu mơ.

Từng mũi tên vạch đường bay vun vút

Xuyên táo chiều không gian thời gian

Xuyên táo nhân sinh quan và thế giới quan

Và tôi tin mình bắn trúng đích

(Mũi tên bóng tối)

Kí hiệu mũi tên đang hiển hiện kia chính là khát vọng, là mục đích mà Mai Văn Phấn đang hướng đến. Đó chính là khát khao được đưa nền văn học Việt Nam ra khỏi bóng tối hiện tại, hướng đến những cái mới, cái sáng tạo để bắt kịp nền văn học thế giới. Và người bắn những mũi tên đó không ai khác chính là Mai Văn Phấn và những con người như ông. Thơ ca trong thời điểm hiện tại như những “tấm bia bất động”, nó cũ mèm, nhàm chán, nhưng con đường cách tân không phải dễ dàng. Con đường phía trước “mù mờ” và chưa biết được sẽ về đâu. Họ - những con người mang trong mình khát vọng cách tân đang bắn từng mũi tên dò dẫm về phía trước. Những mũi tên đó vượt hẳn ra khỏi bờ vực của cái cũ, vượt qua không gian thời gian, đâm xuyên thế giới quan và nhân sinh quan. Và Mai Văn Phấn có một niềm tin bất diệt là con đường mà ông và những con người như ông đang đi là hoàn toàn đúng hướng, là sẽ đi tới thành công.

Trong quá trình sáng tạo và đổi mới văn chương, Mai Văn Phấn luôn có ý thức tạo ra tính chất mở cho văn bản thơ để mời gọi bạn đọc đồng sáng tạo với mình thông qua việc sử dụng hệ thống ngôn từ giàu tính chất tượng trưng và tạo ra những khoảng trắng giữa những dòng thơ:

Hãy nhìn xuyên đêm

……………….

Thấy gì không

………………

Chiếc váy cuối hạ

……………..

Lay động thân cành

………….....

Cánh tay em cân đối cảnh vật

……………

Mở rào gai góc

…………...

(Hình đám cỏ - Nhịp VII)

Những hình ảnh ấy, những khoảng trắng ấy giữa các dòng thơ chính là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm. Tùy vào những bạn đọc khác nhau sẽ có cách suy nghĩ và liên tưởng khác nhau. Kêu gọi bạn đọc đồng sáng tạo cũng là một dụng ý nghệ thuật đắt giá của Mai Văn Phấn trong hành trình đổi mới thi ca của mình.

Với việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ tạo sinh nghĩa với đầy ắp những hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng, Mai Văn Phấn đã mang đến cho mình cũng như nền thơ ca hiện đại một hơi thở mới, một luồng sinh khí mới: ngôn ngữ đặc trưng của phong cách hậu hiện đại. Với phương châm sáng tạo này, Mai Văn Phấn đã tạo ra được tính chất mở cho tác phẩm văn học và kêu gọi người đọc đồng sáng tạo với nhà thơ. Tiếp cận thơ ông, người đọc tùy thuộc vào khả năng liên tưởng, tầm văn hóa và tri thức của mình sẽ khám phá ra nhiều lớp nghĩa khác nhau.

3.2. Giọng điệu thơ Mai Văn Phấn

Nghiên cứu về thơ ca không thể không chú ý đến giọng điệu. Mỗi nhà thơ khi cầm bút đều chú ý tạo dựng một chất giọng của riêng mình, vì nếu không có chất giọng riêng ấy, anh ta chỉ mãi là bóng hình mờ nhạt trong cả dàn đồng ca chung của thời đại. Giọng điệu là thước đo không thể thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của nghệ sĩ: “Giọng điệu cá nhân nghệ sĩ là sự tụ kết của nhiều yếu tố, cá tính sáng tạo, quan niệm nghệ thuật, thái độ đối với đời sống, tài nghệ tổ chức ngôn từ trong quá trình tạo giọng để thu hút và thuyết phục độc giả” [18; 39]. Giọng điệu thơ còn là yếu tố góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của người cầm bút, thể hiện cách nhìn, cách nghĩ và thái độ sống của họ trước cuộc đời. Giọng điệu còn là một bộ phận quan trọng tạo nên diện mạo đặc trưng của một thời kì thơ, khu biệt với những thời kì trước và sau đó.

Xuất phát từ hiện thực cuộc sống ngổn ngang, chất ngất rủi ro mà các nhà thơ hậu hiện đại đã đem vào trong thơ mình một giọng điệu riêng, mục đích cuối cùng là để phản ánh những vấn đề của thời đại đang diễn ra. Đây là một phương tiện nghệ thuật hữu hiệu trong việc truyền tải các giá trị văn chương. Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ hậu hiện đại tiêu biểu được ghi dấu đậm nét về giọng điệu thơ. Giọng điệu thơ ông trước hết được bắt nguồn từ quan niệm nghệ thuật về nhân sinh và thế giới. Thơ ông thể hiện sự phong phú về sắc điệu: khi thì giễu nhại, hoài nghi, lúc triết lí, chiêm nghiệm và có lúc lại mang giọng điệu vô âm sắc…

3.2.1. Giọng điệu giễu nhại

Mỗi thời kỳ văn học được quy định bởi một loại giọng điệu điển hình riêng. Đó là sự kết tinh giọng điệu của thời đại đã sản sinh ra nó. Mỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhưng luôn thống nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo của thời kỳ văn học ấy. Xuất phát từ cảm quan hậu hiện đại mà văn học hậu hiện đại rất ưu tiên cho giọng điệu giễu nhại. Giễu nhại với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện trong những tác phẩm văn học từ thời cổ đại. Trong các thời kỳ văn học sau đó, giễu nhại luôn được sử dụng với những sắc thái riêng. Giọng điệu giễu nhại chỉ là một phần của hình thức giễu nhại, hình thức trào lộng hay tiếu trào. Điều đó cho thấy giễu nhại không phải giọng điệu của thơ ca hậu hiện đại sản sinh nó. Các nhà thơ, nhà văn  vận dụng những gì sẵn có để biến tấu theo những dụng ý của riêng mình. 

Hình thức “nhại” là một trong những đặc trưng nổi bật của văn chương hậu hiện đại đang ngày càng phổ biến trong văn học Việt Nam, trong đó có thơ. Giọng điệu giễu nhại được thể hiện rất rõ nét qua những trang thơ của Mai Văn Phấn. Bằng cách ấy, nhà thơ công khai bày tỏ thái độ của mình đối với cái rối ren hỗn độn trong xã hội. Châm biếm, mỉa mai, trào lộng, hài hước là những nhân tố tạo nên sắc thái giễu nhại trong thơ ông. Mai Văn Phấn đã không ngại phô bày trong thơ mình hình bóng những con người trong thời đại mới với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa một thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Con người trong xã hội đó ngày càng thoái hóa, biến chất với một loạt các hành động bỉ ổi, vô liêm sỉ, thiếu văn hóa:

Đạo mạo múa tay trong bị

Đạo mạo giết một con muỗi …

Đạo mạo chỉnh lại con c… trong túi quần nơi hội họp

Đạo mạo xỉ mũi vào cửa kính

Đạo mạo moi tiền của gã ăn mày

Đạo mạo nghe trộm điện thoại

Đạo mạo nhìn ngực chị em trong đám tang

Đạo mạo ký tên vào công trình khoa học

Đạo mạo làm thơ tình khi đã liệt dương…                                                                                                         

(Bài học)

Với giọng điệu giễu nhại, hoài nghi Mai Văn Phấn đã đưa người đọc từng bước tiếp cận gần hơn với bản chất của của một con người. Bản chất đó được phơi bày từ từ và lộ nguyên hình là một kẻ xấu xa, bỉ ổi, là một tên thô tục, vô văn hóa. Bằng cách “nhại” này, nhà thơ thoải mái đẩy sự việc lên đến đỉnh của trào lộng và vì vậy trong thơ tiếng cười cứ thế trào ra. Mai Văn Phấn đã diễn tả thành công cái kệch cỡm, lố bịch, nhặng xị cuả con người trong xã hội này với những nấc thang giá trị bị đảo lộn, những tiền đề truyền thống cũ bị lung lay. “Giết một con muỗi” – hành động này có lẽ không có gì đáng để bàn đến. Nhưng sang những hành động tiếp theo đạo mạo “phát biểu chung chung”, nghiêng mình trống rỗng” nó đã tạo ra một sự hoài nghi trong tâm hồn người đọc. Đáng ra với dáng vẻ đạo mạo kia con người phải nói, phải phát biểu những ý kiến chính xác, sâu sắc, được nhiều người quan tâm. Thế nhưng con người kia lại đang nói về vấn đề gì? Phải chăng hắn cứ đạo mạo nói chung chung, ậm ừ, gật gù để che dấu đi sự ngu dốt của mình? Hình tượng của kẻ đạo mạo này càng méo mó hơn trong mắt người đọc bởi một loạt những hành động tiếp theo: lấy trộm áo mưa, thở mùi hôi vào miệng người khác, bọc nhầm một chiếc răng sâu, tiểu tiện nơi công cộng, xụt xịt trong khăn mùi xoa… Một loạt các hành động được nêu ra càng thể hiện rõ bản chất vô xỉ của cái kẻ đạo mạo kia. Hắn không chỉ là một kẻ dốt nát mà còn là một kẻ vô duyên, vô ý thức với một loại các tính xấu. Và không chỉ dừng lại ở đó, hắn ta lại được hiện lên:

Đạo mạo chỉnh lại con c… trong túi quần nơi hội họp

Đạo mạo xỉ mũi vào cửa kính

Đạo mạo moi tiền của gã ăn mày

Đạo mạo nhìn ngực chị em trong đám tang

Đạo mạo làm thơ tình khi đã liệt dương…

Mai Văn Phấn đã đưa những tình tiết đó vào trong thơ một cách tự nhiên nhất mà không hề né tránh. Đằng sau cái vẻ bề ngoài mà hắn cố tạo ra là một con người đạo đức giả, là một kẻ vô văn hóa, thiếu đạo đức. Hắn là người có thể vì danh lợi, địa vị mà sẵn sàng làm mọi việc bất chấp mọi thủ đoạn: đạo mạo ký tên vào công trình khoa học, thả virus vào e-mail người khác, đánh tráo bài thi…

Hay như trong bài thơ “Chuyện còn dài”, Mai Văn Phấn viết:

Con gián và tôi từ giờ song phẳng

Nó chui ra. Tôi vô cảm

Nó gặm nhấm. Tôi ngập chìm

Nó leo tường. Tôi thù vặt

Nó bài tiết. Tôi ăn gian

Nó hôi xì. Tôi lì lợm

Nó dò xét. Tôi mở đường

Nó nghênh ngang. Tôi u muội

(Chuyện còn dài)

Mai Văn Phấn đã đặt con người ngang hàng với các loài vật, loài côn trùng để tự vấn lương tâm, tự nhìn nhận nhân cách của họ. Đối với ông, nhân thế chỉ còn là chốn súc sinh ngự trị, con người được đặt ngang hàng với các loài vật, cùng sống, sinh hoạt, tham gia các hoạt động. Từ đó ông muốn mỗi người đọc phải nghiêm túc suy nghĩ và chỉnh đốn lại chính bản thân mình nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.

Và giọng điệu giễu nhại được thể hiện khá rõ nét trong tập thơ mới xuất bản gần đây nhất của Mai Văn Phấn – “Thời tái chế”. Khi nghe đến cái tên nhan đề tập thơ này chắc hẳn ai cũng thấy lạ, bởi nó khác hẳn với tên nhan đề những tập thơ trước đó của ông: Cầu nguyện ban mai, Bầu trời không mái che, Lặng yên cho nước chảy… Thời tái chế mang đến cho người đọc một cách nhìn, cách cảm nhận mới. Nó tái hiện rõ nét hiện thực đời sống, nhận diện bản chất những việc đã và đang diễn ra. Chương VII – Mô hình là chương thể hiện rõ nét nhất giọng điệu giễu nhại trong tập thơ. Các mô hình lần lượt hiện ra và mỗi mô hình là một bức tranh trào phúng để từ đó con người nhìn rõ hiện thực cuộc sống đang diễn ra:

Những năm sáu mươi thế kỷ trước, nhiều gia đình người Việt ở miền Bắc được phát miễn phí những cuốn họa báo Trung Quốc.../ Thi thoảng lại có hội thi, thi cày bừa, thi cấy lúa, thi đổ phân, thi gặt hái… Hội thi nào cũng có cờ, trống phách và biểu ngữ. Một nhóm người đứng trên bờ theo dõi, động viên, cổ vũ rất to. Bác chủ nhiệm hợp tác xã khi ấy hao hao giống một người trong trang họa báo.

(Mô hình 1 – Thời tái chế)

Mô hình 1 là kí ức từ những năm 60 của thế kỉ trước, cuộc sống giống như một vở kịch mà sân khấu được trang hoàng bằng vô số những biểu ngữ, những tranh cổ động, cờ và trống phách. Tất cả mọi người cùng thi đua và các hội thi là một “món ăn” không thể thiếu: “Thi thoảng lại có hội thi, thi cầy bừa, thi cấy lúa, thi đổ phân, thi gặt hái… Hội thi nào cũng có cờ, trống phách và biểu ngữ”.

Năm cuối cùng ở đại học tôi bị đánh trượt môn Chính trị… Tôi đã mang theo nhiều tài liệu để quay cóp, ghi những ý chính vào bàn tay và gan bàn chân, trao đổi với cả bàn trước bàn sau mà vẫn trượt. Năm sau tôi vô tình gặp lại thầy giáo dạy môn đó trong quán beer hơi. Thầy thú nhận bây giờ mình cũng không còn nhớ nội dung bài giảng.                                  

(Mô hình 2 – Thời tái chế)

Mô hình 2 là không gian giảng đường đại học, câu chuyện xoay quanh chàng sinh viên thi bao nhiêu lần với bao nhiêu phao vẫn bị trượt bài thi “tinh thần làm chủ tập thể”. Ra trường gặp lại thầy giáo môn đó tại quán bia hơi, ông ta mới thú thực, ngay cả ông cũng chả nhớ nổi nội dung bài giảng đó, học thuộc lòng hôm trước, hôm sau quên ngay. Thật là một chi tiết quá “đắt”. Mô hình 3 lại khiến người đọc liên tưởng đến truyện ngắn “Người trong bao” của Sê Khốp, tất cả mọi người đều bị theo dõi, bị theo sát từng cử động nhỏ, chỉ trừ khi lúc về nhà ngủ, hay thì thầm với vợ. Nhân vật Bê li cốp trong truyện ngắn “Người trong bao” luôn mang những nỗi sợ bị theo dõi, sợ những gì mình làm bị người khác biết dù hắn ta chỉ sống theo “những thông tư, chỉ thị, và các bài báo cấm đoán”, nhưng nỗi sợ đó ám ảnh anh ta cả khi nằm trùm kín chăn trong nhà đã khóa cẩn thận. Ở mô hình 4, 5, 6 lại là những chi tiết về tinh thần làm chủ của tập thể, những người được bầu ra làm “tổ tư vấn” thực ra chỉ là những bù nhìn. “Chủ nghĩa mặt tiền” được lật tẩy bởi những chi tiết sắc bén, những ngôi nhà khang trang, thoáng mát tọa lạc bên hồ nước, không gian và thực phẩm sạch sẽ, trong lành, nhưng thực ra những thứ đó chỉ đặt ở bên ngoài của con đường, đi sâu vào bên trong thì hoàn toàn trái ngược, ngôi nhà đó chỉ là ngôi nhà hình mẫu. Có những thử thách như chiếc cổng lửa, mà những hứa hẹn đằng sau đó là một thế giới đẹp đẽ khi chúng ta đủ ý chí vượt qua. Nhưng vượt qua rồi thì ngoài việc “thân thể, râu tóc cháy thui” thì nơi “thiên đường” sau chiếc cổng lửa chỉ là một bãi hoang với một đàn chuột cũng từng bị thui. Mô hình 7 là câu chuyện tưởng như chẳng liên quan, một câu chuyện giả tưởng khi các nhà khoa học có thể lai nhiều giống quả trên một thân cây, nhưng điều đáng nói là: “Mọi người đã đưa về trung tâm khoa học này nhiều giống cây trồng ưa thích, từ cam quýt, nhãn, chanh đào, mơ, nhót, thị, quất hồng bì miền Bắc, đến mận, xoài, chôm chôm, mít, bưởi, dâu, sầu riêng, vú sữa phương Nam. Nhưng đến khi trái chín thì lớp vỏ bên ngoài chỉ hiện lên một màu hồng rực. Vẫn chưa ai nghĩ ra cách thay đổi từng phần lớp vỏ cho phù hợp với chủng loại bên trong.” Dù là quả gì đi nữa thì chúng vẫn phải mang một loại “đồng phục”, không thể khác. Nó khiến chúng ta liên tưởng đến những “đồng phục” đang tồn tại nhan nhản ngoài xã hội: “đồng phục khuôn mặt”, “đồng phục tư tưởng”. Kết thúc là mô hình 8 với phương án xây ngôi nhà hình tổ chim trên cây, ngôi nhà được thiết kế như một căn cứ quân sự, nhưng cũng hoang sơ như thời khủng long tuyệt chủng, tất cả mọi người đều phải chung tay xây dựng nó, dù bắt đầu bằng những mầm xanh bé tí ti. 8 mô hình là 8 mảnh hiện thực được cắt dán ngẫu nhiên, tưởng như chả cái nào liên quan đến cái nào, nhưng khi xâu chuỗi vào ta sẽ có một bức tranh toàn cảnh với những điển hình bản chất cho một không gian, một đối tượng được hướng tới. Giọng điệu tưởng như trung tính của chương Mô hình thực chất lại ẩn chứa những ý vị trào phúng với màu sắc châm biếm sâu sắc.

Ngoài những yếu tố trên thơ Mai Văn Phấn còn đầy ắp những tiếng cười. Nhưng đằng sau những tiếng cười châm biếm và giọng giễu nhại ấy là nỗi đau đớn vô cùng tận của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống hôm nay. Tiếng nói của nhà thơ tuy nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa đằng sau đó là hàng loạt những vấn đề lớn lao được đặt ra với toàn xã hội.

3.2.2. Giọng điệu vô âm sắc

Theo Roland Barthes sử dụng thuật ngữ lối viết trắng là lối viết không thể hiện thái độ, cảm xúc. Có nghĩa “Lối viết trung tính đứng chính giữa những tiếng la hét và những lời phán xét ấy, mà không tham gia gì vào bên nào cả; chính sự vắng mặt những thứ đó làm nên lối viết này; nhưng sự vắng mặt này là toàn vẹn, nó không chứa một sự ẩn giấu, một bí mật nào, cho nên không thể nói đó là lối viết thản nhiên; đúng hơn là lối viết “vô tội”, là “độ không của lối viết” [21]. Theo Janh Manfred “Trần thuật theo con mắt máy ảnh, giọng điệu vô âm sắc là cách trình bày sự kiện từ bên ngoài và mang tính hành vi – phần lớn là trần thuật ngôi thứ ba mang tính chất trung tính, thiếu vắng điểm nhìn bên trong và có cái nhìn tĩnh tại của máy quay phim” [21]. Có thể hiểu một cách khái quát giọng vô âm sắc là giọng trung tính, dửng dưng, không thể hiện thái độ, cảm xúc của người kể chuyện. Nói khác, là giọng văn trắng. Người kể chuyện kể một cách tĩnh tại theo lối của máy quay phim để tái hiện cuộc sống, hành động, sự việc từ bên ngoài.

Trong những trang thơ của Mai Văn Phấn ta bắt gặp rất nhiều những bài thơ mang giọng điệu vô âm sắc. Câu thơ tái hiện hiện thực cuộc sống với thái độ thản nhiên:

Trên nền cũ ngôi nhà xưa, một liên doanh mới làm lễ động thổ. Ký ức hiện về tựa ngôi đền, dâng trong tóc mình dĩ vãng tôn nghiêm.

(Hải Phòng trước năm 2000)

Tác giả đang đứng ở vị trí người kể chuyện, với giọng khách quan nhất kể về mảnh đất Hải Phòng những năm 2000 mà cụ thể ở đây là sự xuất hiện của một tiêu điểm công nghiệp. Một liên doanh mới làm lễ động thổ trên nền cũ ngôi nhà xưa. Một liên doanh xuất hiện hứa hẹn một dây chuyền sản xuất công nghiệp hiện đại. Thế nhưng hình ảnh ngôi đền xuất hiện, nó vừa nhuốm màu xưa cũ vừa có nét trầm mặc. Nhà thơ đang diễn tả từng bước đi của mảnh đất Hải Phòng trước năm 2000, đó là những bước đi trong sự hoài niệm, ghi nhớ.

Cũng có khi Mai Văn Phấn sử dụng giọng điệu lạnh lùng, dửng dưng để diễn tả sự đảo lộn trong cuộc sống hiện tại. Mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội nhiều khi đến mức tàn nhẫn, thơ văn trở nên đời thường, trần trụi, mang âm hưởng, mang không khí thời đại:

Chúng bịt miệng

trấn lột mọi thứ

và xin tôi bộ phận sinh dục.

Nói rằng xin /bởi nếu tôi không đồng ý

của quý kia phải liệng xuống hố phân

(chúng biết cả bí quyết thần chú).                                                   

(Chỉ là giấc mơ)

Giọng điệu cũng giống như một cuốn phim vậy! Khi nhúng vào nước màu sẽ nổi hình, nổi khối, làm hiện rõ tất cả những gì sống động được ghi lại trong cuốn phim đó.  Xuất phát từ hoàn cảnh bức bối của hiện thực đời sống đầy rẫy những bất an, khủng hoảng và đổ vỡ niềm tin, mối quan hệ giữa con người với con người nhiều khi kéo theo sự tha hóa. Con người sống với nhau nhiều khi mất đi sự tin tưởng, đoàn kết mà thay vào đó là sự dọa dẫm, khống chế lẫn nhau, đưa lợi ích cá nhân lên trên hết. Những câu thơ xót xa về sự thay đổi của tình người. Với giọng điệu lạnh lùng như thể dửng dưng trước mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội, những câu thơ của Mai Văn Phấn như là nhát dao cứa vào tim người đọc.

Nếu trước đây tình yêu gắn liền với những cái cao cả, những câu thề nguyền chung thủy sắt son thì giờ đây trong thơ Mai Văn Phấn chủ thể trữ tình không xuất hiện, không có sự đánh bóng nhân vật trữ tình. Mai Văn Phấn dùng giọng điệu tỉnh bơ, lạnh lùng để nói đến tình cảm của những đôi lứa yêu nhau – thứ tình cảm hết sức thiêng liêng và cao đẹp. Đến với tình ái bởi thấy cuộc đời mình thiếu vắng vô tận, thiếu khuyết đến một nửa để rồi nhà thơ nghĩ mình không bao giờ là một chỉnh thể toàn vẹn:

Lúc cô đơn anh nghĩ

là nửa trái cây

nửa tiếng chim hót

nửa hang sâu

một phần tiếng động

nửa con cá 

một góc thân tàu

nửa lặng im nối vào mặt phẳng

(Hình Đám Cỏ - Nhịp VII)

Tất cả những đối tượng được nhà thơ đưa ra để so sánh với bản thân khi tồn tại dưới dạng “một nửa” đều trong trạng thái chết, đều vô nghĩa hoặc không tồn tại. Vì thế, nói điều này nhà thơ muốn gửi đến người tình của mình một thông điệp: Nếu đời anh mà không có em thì sự tồn tại của anh trên đời sẽ thành vô nghĩa, anh sẽ không còn là chính mình nữa và chỉ khi nào hai chúng ta hòa làm một thì cuộc đời này sẽ nở hoa, cuộc sống của anh mới có ý nghĩa. Mai Văn Phấn coi em  tình yêu là cội nguồn cứu rỗi, là mảnh phao bám víu giữa hoang mang trần thế này.

Cũng chính sự cô đơn ấy đã biến thành trận cuồng phong của nỗi khát khao tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn. Trận cuồng phong ấy dường như muốn xé nát, đập vỡ tất cả: 

Nhoài lên mỏm đá sắc

Thân thể gió trầy x­ước

Máu của gió là m­ưa

Nắng nhỏ xuống

Giang tay núi đạp chân vào đất

Vò nát

Xé toang thân gió

Ánh sao rơi

Buổi sớm vỡ oà                                            

(Đỉnh gió)

Cũng đều diễn tả hiện thực cuộc sống bằng giọng điệu lạnh lùng, dửng dưng thế nhưng trong thơ Vi Thùy Linh lại xen lẫn chút bình phẩm, giễu nhại. Nó diễn tả cái kệch cỡm, lố bịch, nhặng xị của thời đại mà chính con người đang sống với những nấc thang giá trị bị đảo lộn, những tiền đề truyền thống cũ bị lung lay. Đọc những câu thơ của Vi Thùy Linh ta không khỏi xót xa về sự thay đổi của tình người. Nó như nhát dao chặt đứt tình cảm đối với người ra đi:

Có kẻ thuộc giá vàng, giá dollar hơn ngày giỗ cha

Có kẻ khóc người thân bằng cassette

Giả vờ vui, giả vờ buồn

Sống quen diễn và đề phòng ma mãnh

Ngay cả thủ đoạn ăn cắp cũng ngày càng tinh xảo

(Tảng băng trôi – Vi Thùy Linh)

Còn trong thơ Mai Văn Phấn nó giống như những mảnh vỡ gợi lên cảm giác về một cuộc sống không bằng phẳng mà đầy những chông gai, cay đắng. Nếu thơ ca giai đoạn trước ta bắt gặp giọng hào sảng, mạnh mẽ của thời kháng chiến hay giọng trữ tình sâu lắng của thơ mới thì ở giai đoạn này, giọng vô âm sắc đã mang đến cho thơ ca cái dung tục hóa đời thường. Thơ Mai Văn Phấn cũng ở trong lộ trình đó.

3.3. Không gian - Thời gian nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn

Giáo sư Trần Đình Sử đã từng nói “Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian, không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” [39; 104]. Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ không - thời gian xác định, nên những cảm nhận của con người về thế giới đều bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không gian - thời gian, con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình.

3.3.1. Không gian đa chiều

Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó” [18; 162]. Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.

Các nhà thơ hậu hiện đại nói chung, Mai Văn Phấn nói riêng có cái nhìn mới mẻ về hiện thực. Hiện thực không chỉ là cái con người có thể nhìn thấy và hợp quy luật mà nó còn bao hàm cả những gì con người không thể nhìn thấy, không thể giải thích kể cả đời sống tâm linh, những giấc mơ huyễn hoặc. Mỗi trang thơ của Mai Văn Phấn gắn với một không gian nhất định, tùy thuộc vào cảm xúc, tâm trạng mà không gian ấy được khai thác khác nhau mang dụng ý nghệ thuật của tác giả. Mai Văn Phấn quan niệm cuộc sống là một mớ hỗn độn, đầy rẫy bất an cho nên khi miêu tả con người trong cuộc sống đó, ông đã xây dựng một kiểu không gian tương ứng đó là không gian đa chiều, biến ảo. Mỗi trang thơ của Mai Văn Phấn là một mảnh ghép. Tất cả những mảnh ghép đó tập hợp lại phản ánh đầy đủ mọi mặt của cuộc sống. Khoảng không gian hiện lên trong thơ ông là không gian đứt nối, không tạo tính liên tục, nó như một bức tranh lập thể đa chiều, phân mảnh, lắp ghép các mảng màu mà người họa sĩ đã sáng tạo nên. Không gian hiện lên trong thơ ông có khi đó chỉ trong phạm vi của một căn phòng nhỏ:

Con ong bay vào phòng

bằng nhựa hay bằng gỗ

nham nhở dơ trên mình những vết cắt dở dang

đúng nó đã bay

tiếng vỗ cánh êm ru hoàn hảo      

(Không thể tin)

Nhưng cũng có khi không gian đó mở rộng ra trong phạm vi toàn thành phố. Mai Văn Phấn đưa chúng ta đi khám phá hết mọi ngóc ngách của cuộc sống. Mỗi  bài thơ là mỗi mảnh ghép giúp chúng ta có cái nhìn bao quát, tổng thể về thế giới xung quanh:

Đêm nay

Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố

Nhưng đừng sợ!

Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt

Trời tối không ai ra đường 

(Còn cậu hãy đứng đằng kia)

Trong thơ Mai Văn Phấn, người đọc nhiều khi bị day dứt, ám ảnh bởi những khoảng không gian mới lạ, đó là không gian của những “giấc mơ”, “ý nghĩ”. Mỗi giấc mơ là một mảnh ghép, nó nói lên ước mơ, khát vọng của con người về cuộc sống:

Con chó mơ:

thức giậy trong nắng sớm

quen hơi những khách qua đường

không cần xồ ra và sủa giận dữ

không bị khinh rẻ đánh đập

thức ăn quen đã bày

Tôi mơ:

đêm ngủ không cần khóa cửa

ra đường chẳng ai lừa mình

họ nghĩ sao nói vậy

thoáng món ăn ngon và nắng đẹp

thật tội nghiệp con chó

Nước mắt làm tôi tỉnh dậy

Nỗi đau cuộn sóng bạc đầu.                             

(Nếu)

Trong cơn mơ của mình con chó đã tưởng tượng đến một cuộc sống tươi đẹp đó là mỗi sớm mai thức giậy đón ánh bình minh trong êm đềm, yên ả. Nó không phải xồ ra giận giữ với những con người xa lạ, có ý đồ xấu đang rình rập. Con chó cũng đã nghĩ đến cảnh tượng khi nó thức giấc thì những món ăn nó thích đã được bày dọn sẵn và nó cũng sẽ không bị đánh đập khinh rẻ như mọi khi. Con người cũng mơ về một cuộc sống yên bình, con người sống với nhau không lọc lừa gian dối để khi ra đường không ai lừa mình, để đêm ngủ không cần khóa cửa mà vẫn yên tâm. Và cuộc sống sẽ càng tươi đẹp hơn khi được tận hưởng những món ăn ngon, những ngày nắng đẹp. Nhưng giấc mơ chỉ là mơ. Mơ thì tươi đẹp mà tỉnh giậy thì phũ phàng. Hiện tại cuộc sống vẫn đen tối, nỗi đau vẫn cứ cuộn sóng.

Thế giới trong thơ Mai Văn Phấn còn hiện lên trong không gian hư ảo của giấc mơ, không gian đầy mộng mị, siêu thực của bóng người, bóng con vật, bóng đồ vật... Chẳng hạn:

Bóng ta không còn phân vân trên vách liếp muốn lưu giữ hư danh và sủng ái mơ hồ. Bóng minh bạch trên mặt gương, trên tường vôi, đá ốp, trong tơ nhện vô tình ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ non.

Ta theo bóng những cây cầu bắc qua sông lờ lững, qua trễ nải lo âu của hoa cỏ đôi bờ, qua cái miệng xoáy nước ngây thơ chưa biết nói, qua hồn người chết đuối không biết bơi.

Còn bóng ai in trên quả chuông, loa kèn, tang trống. Nơi ấy Phật-Thích-Ca và Chúa Giê-Su cộng hưởng, làm sự im lặng cũng nhấp nhô chuyện trò trong khoảng rỗng ban mai.

Sinh ra từ ngọn lửa và ánh sáng, bóng chạy theo mình, cái có có không không duy nhất mắt ta nhìn thấy được

(Chương III: Cộng hưởng I – Người cùng thời)

Và bên cạnh cái không gian hiện thực mô tả cái thực tại cuộc sống, không gian tâm tưởng là cái niềm tin, ước vọng về tương lai. Trong thơ Mai Văn Phấn còn xuất hiện kiểu không gian thực ảo đan xen, tạo ra hiệu ứng về một xã hội khó đoán định, đưa đến cái nhìn đa chiều về đời sống, gợi cảm giác bất an trước sự đổ vỡ của trật tự xã hội. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật đắc địa trong việc thể hiện tư tưởng cũng như quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ trước hiện thực cuộc sống. Không gian thực là không gian mà trong thời điểm hiện tại con người đang sống, chịu sự chi phối và không thể tách ra được. Còn không gian ảo là do tưởng tượng, liên tưởng, suy tưởng đẩy đến một miền không gian khác nhằm thoát khỏi hiện tại. Không gian thực - ảo đan xen làm cho người tiếp cận mơ hồ, khó đoán định:

Trăng đã về bên kia

Phủ lên những nụ hôn khác

Màn sương, mùi cỏ khác

Nơi ấy một dòng kênh

Bóng con thuyền nhỏ qua cầu

Bờ đá nằm im nghe mồ hôi lạ

Giọt giọt trăng khuya

(Mùa trăng)

Trong đoạn thơ trên, hình tượng trăng xuất hiện trong một không gian mơ hồ, không xác định: “trăng đã về bên kia”. “Bên kia” là ở đâu? Bên kia là ở đâu chưa biết, nhưng ở đây nó đặt trong sự tương quan đối sánh với bên này. Nghĩa là giờ đây trăng không còn ở đây nữa. Nó đã “phủ lên những nụ hôn khác/ màn sương, mùi cỏ khác”. Bên này – bên kia rồi lại bên kia – bên này. Thực ảo cứ thế đan xen lẫn lộn khiến người đọc, người nghe có cảm giác mơ hồ với thực tại.

Mai Văn Phấn đã thật sự thành công trong việc dựng không gian nghệ thuật để truyền tải, gửi gắm những thông điệp của mình về cuộc sống. Kiểu không gian đa chiều biến ảo đó đưa lại cho người đọc một cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Trong cái không gian ấy, Mai Văn Phấn đã vẽ ra những bức tranh đời sống khác nhau, có mảng sáng, có mảng tối, có hiện tại, có quá khứ và cả tương lai. Và không gian ấy cũng mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.

3.3.2. Thời gian phi tuyến tính

Thời gian nghệ thuật là một phạm trù triết học, là đại lượng xác định quá trình hình thành, vận động, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Cùng với không gian, thời gian là hình thức khẳng định sự tồn tại của vật chất. Khi phản ánh cuộc sống, văn học đề cập đến thời gian như là nhân tố cốt yếu để làm nên giá trị tác phẩm.

Thời gian trong quan niệm của nhà văn được tư duy ở nhiều khía cạnh khác thời gian vật lí. Nó không còn là dòng chảy một chiều hướng về phía trước, mà nó còn là mối lo âu, trăn trở, do đó có sự đảo ngược, xáo trộn. Thời gian nghệ thuật có thể quy về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, và có thể kéo dài trong chốc lát thành vô tận. “Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kì lịch sử, từng giai đoạn phát triển, nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của con người trong thế giới” [18; 323].

Nếu trước đây thời gian tuyến tính từng chiếm giữ vị trí độc tôn trong thơ ca kháng chiến, thơ ca cách mạng “đường thiên lí càng đi càng rộng”, “những ngày tôi sống ở đây là đẹp nhất”, ...thì nay trong thơ hậu hiện đại nói chung, thơ Mai Văn Phấn nói riêng thời gian ấy đã bị phá vỡ đứt nối và đảo lộn, nó gắn bó với cuộc sống hiện đại, mang hơi hướng của con người hiện đại hôm nay. Thời gian phi tuyến tính, đứt nối, đảo lộn này gắn bó song hành cùng không gian đa chiều, biến ảo làm nên diện mạo mới cho văn học. Thời gian này đã tạo nên hiệu ứng về một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Cái đứt nối, đảo lộn không chỉ dừng lại là tính chất của một trò chơi cấu trúc văn bản được làm lạ hóa, gây chú ý cho người đọc, thay đổi sự tập trung hoặc phi tập trung, mà nó còn tạo ra cho tác phẩm nhiều khoảng vắng.

Trong những trang thơ của Mai Văn Phấn, thời gian hiện lên không chỉ trong một thời điểm nhất định mà nó có sự đan xen hòa quyện giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều đó cũng rất dễ hiểu bởi nhà thơ Mai Văn Phấn luôn nghĩ con người ta sống không thể tách rời quá khứ “Dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói”. Với dân tộc cũng vậy “Lịch sử cùng cuộn chảy với bao mạch ngầm tha thiết ngàn sau”... Cho nên, muốn có khả năng đi tới không thể không trang bị cho mình khả năng nhìn lại. Trong trường ca Người cùng thời Mai Văn Phấn thể hiện rất rõ cảm thức của mình về hoài niệm quá khứ. Đó là một quá khứ bi tráng của dân tộc:

Hình Tổ quốc nghìn năm đóng đinhvào kí ức

Mang nét vẽ dáng tổ tiên ta đội nón đứng bên trời

Giờ Tổ quốc cùng tôi mỗi buổi sớm lại tưng bừng tái hiện

Mang khuôn mặt mình thời mọc tóc thay răng

(Người cùng thời)

Hay:

Trong lời hịch năm xưa lóe lên binh khí

Xương cốt cha ông chôn bên xác quân thù

Những câu thơ chờ ta hôm nay vuốt mắt

Cọc sông Bạch Đằng đã nhổ hết chưa?

(Người cùng thời)

Đứng ở thời điểm hiện tại nhưng nhà thơ luôn hoài niệm về một thời quá khứ vàng son đã qua. Thời khắc đó đã qua từ rất lâu “nghìn năm” nhưng nó vẫn hằn sâu “đóng đinh vào kí ức”. Ông cha ta xưa đã cố gắng bao nhiêu mới có được tổ quốc ngày hôm nay.

Với Mai Văn Phấn, thời gian hoài niệm về quá khứ luôn là khoảnh khắc tâm tưởng có sức cuốn hút tác giả mạnh mẽ. Những hồi ức ấy được bắt đầu từ thời điểm hiện tại, xuất hiện khi tác giả chiêm nghiệm, suy ngẫm hay bắt gặp một sự vật, hiện tượng nào đó trước mắt, hoặc thậm chí nó có mặt trong cảm xúc suy nghĩ miên man, vô định:

Xưa có con tim nào hóa đá

Để cho một ngày đá hóa con tim

Để bàn chân ta sáng lên ngọn lửa

Thắp lên phần cháy dở đêm qua

(Người cùng thời)

Thời gian “đêm” cũng là tuyến thời gian được Mai Văn Phấn đưa vào trong thơ với tần suất khá lớn. Đêm xuống là thời khắc con người sống thật với bản chất của mình nhất, thời gian đó mở ra một khoảng không gian bất tận và sâu thẳm:

Úp mặt vào bóng tối lùm cây

Gió đang chạy trên lưng mình những bước chân đô thị

Bóng tối dẫn tôi về ngôi nhà của mẹ

Ngôi nhà như chiếc bánh không nhân

(Nhật kí đô thị hóa)

Hay:

Những đêm không sao như còn đây

Tôi bị kéo căng giữa những tiếng đay nghiến của bà và mẹ

Chuyện áo cơm leo lét dầu đèn...

Thời bom đạn bình minh như bát vỡ

Tôi ôm chiếc bát của bóng đêm ăn dở

Thành lực điền đối diện với hoàng hôn

(Hát giữa hai mùa)

Thời gian trong thơ Mai Văn Phấn có khi còn được mặc định bằng mùa. Mỗi mùa gắn với những sự vật, hiện tượng khác nhau mà khi nghe đến sẽ gợi ta nhớ về. Xuân đến với bóng hoa đào, với cây nêu trước ngõ:

Xuân

Ngấm đất

Đào xuống gặp toàn năm cũ  

(Trồng cây nêu trước nhà)

Xuân đến không chỉ với bóng hoa đào, với cây nêu trước ngõ mà ta bắt gặp rất nhiều những nét đặc trưng của mùa xuân qua trang thơ của Mai Văn Phấn: Rượu xuân, Gió xuân, Cuối xuân đầu hè, Nước mùa xuân, Dấu hiệu mùa xuân, Mười bài tập mùa xuân, Đêm lập xuân, Mùa xuân, Giai điệu xuân, Gặp mùa xuân, Đầu năm, Đêm đầu năm, Lập xuân, Đón giao thừa, Sáng mồng một, Ngày đầu năm, Giữa xuân, Vẫn còn tết, Nắng xuân, Khát vọng đầu năm, Cuối tháng giêng, Mưa xuân tới, Mùa, Sáng xuân, Xuân còn trong đất, Mưa đầu mùa, Mưa xuân, Cuối xuân, Đêm giao mùa, Xuân tràn, Xuân đi, Tháng Giêng, Tắm đầu xuân...

Hạ sang khi sen nở khắp hồ:

Gió

Hương sen                              

(Đỉnh núi cao)

Hạ về cùng với những tia nắng nắng chói chang, những quả bàng chín, những tiếng gà trưa: Mưa cuối hạ, Sáng mùa hè, Mùa hạ rất gần, Ngày nóng nực, Giữa hạ, Nắng lên cao, Ngày hè, Trời nắng nhìn ra vườn, Thay mùa, Tiếng trưa, Mùa nhãn chín, Quả bàng chín trong đêm,...

Thu đến khi trái hồng vừa chín:

Bóc trái hồng

Vừa chín

Sợ người thỉnh chuông          

(Thu đến)

Thu như người bạn tình đỏng đảnh, thu mang đến nguồn cảm hứng bất tận cho thi sĩ Mai Văn Phấn với một loạt những bài thơ: Thu chậm, Bầu trời thu, Hạt mưa thu, Trưa mùa thu, Nắng tháng Tám, Thu chín, Cuối thu, Thu, Nắng cuối thu, Trung thu năm nay, Tiễn mùa thu,Thu qua,Chớm đông, Trời trở lạnh, Gió mùa về, Trong sương mù, Khúc cảm mùa thu, Gom nhặt cuối mùa, Thoáng thu, Thu về, Nỗi nhớ mùa thu, Ký sự mùa thu, Đầu thu, Nhịp thu về, Quyền lực mùa thu, Những bông hoa mùa thu, Thu đến, Ngày thu ở nước Nga, Sắp hết thu, Sang thu, Sáng lập thu, Cảm giác mùa thu, Thu đầy...

Và đông đến với những trận gió buốt. Đông như người bạn ấp ủ niềm yêu thầm kín của con người: Mùa đông đến, Đêm đông, Giữa mùa đông, Sáng mùa đông, Đêm lạnh, Gió đông,...

Đắp chăn

Sót lại đám lá

Run rẩy ngoài cửa sổ            

(Trời rét)

Bên cạnh những bài thơ trực tiếp dùng từ chỉ thời gian ngay ở tiêu đề, Mai Văn Phấn còn có nhiều bài thơ, nhiều câu thơ vận dụng rất khéo các kiểu từ loại khác có tính kí hiệu mô tả thời gian như: mặt trời, trăng, tờ lịch, bông cúc trắng, mùa lá rụng, hoa sen, sen tàn, tàn phai, kiếp, phai nhạt, cá... 

Chiếc lá mùa xuân

Rơi

Trúng mùa hè                 

(Đích)

Chiếc lá mùa xuân rơi đón mùa hè sắp tới, chiếc lá thu rụng xuống báo hiệu mùa đông sắp về. Dù không diễn đạt trực tiếp nhưng những tín hiệu đó đã cho ta thấy rõ bước đi của thời gian:

Gió thu

Giữ mãi

Mới thả xuống đất         

(Lá rụng)

Thời gian phi tuyến tính, không theo một trật tự nào mà đứt nối, đảo lộn đã tạo nên hiệu ứng về một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Kiểu thời gian này đã làm nên đặc trưng riêng, khó lẫn lộn đậm chất Mai Văn Phấn.

*

*             *

Phương diện nghệ thuật là cách thức để người nghệ sĩ thể hiện tư duy sáng tạo nghệ thuật của mình. Văn học hậu hiện đại vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mới và phức tạp là một trở ngại cho việc tiếp nhận. Do vậy thơ hậu hiện đại ở Việt Nam đang được đón nhận với nhiều luồng ý kiến trái chiều. Có khen có chê, thậm chí có nhiều người dị ứng với nó. Chung quy lại đó là sự dị ứng với cái mới, cái mới chưa được hiểu rõ tường tận về nó. Đây cũng là lí do khiến nhiều nhà thơ ngần ngại dấn thân với hậu hiện đại. Mai Văn Phấn đã mạnh dạn thể nghiệm nó bằng cách vận dụng một số thủ pháp cơ bản vào việc sáng tác. Nhìn từ phương thức biểu hiện, dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn trong phạm vi luận văn xét trên ba phương diện: ngôn ngữ, giọng điệu và không gian thời gian nghệ thuật. Ngôn ngữ chủ đạo trong thơ Mai Văn Phấn đó là ngôn ngữ mơ hồ hóa và ngôn ngữ tạo sinh. Giọng điệu nổi bật là giọng điệu vô âm sắc và giọng điệu giễu nhại. Mai Văn Phấn xây dựng thế giới thơ của mình trên không gian đa chiều và thời gian phi tuyến tính. Ở mỗi phương diện chúng ta đều thấy dụng công của nhà thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.





C. KẾT LUẬN

 



1. Thơ ca Việt Nam sau 1975 là bức tranh khá phong phú và phức tạp. Những tiền đề xã hội – thẩm mỹ của thời đại đã tạo điều kiện cho các nhà thơ phát huy kiểu tư duy, cách cảm xúc và ngôn ngữ biểu hiện mới. Những cách tân của thơ sau 1975 thực chất là sự tiếp nối mạch ngầm sáng tạo thơ ca chảy qua nhiều thế hệ. Sự tìm tòi của các nhà thơ đương đại tuy chưa tạo ra được tác giả - tác phẩm lớn nhưng đó là những hướng gợi mở, hé lộ một giai đoạn phát triển mới của thi ca. Đặt Mai Văn Phấn vào trong dòng chảy đó, chúng ta nhận thấy cây bút này có một vai trò cách tân khá quan trọng, là một trong những hiện tượng độc đáo trong tiến trình đổi mới thơ Việt sau 1975.

Qua khảo sát, nghiên cứu một số tập thơ của Mai Văn Phấn chúng ta thấy rõ sự vận động trong cảm xúc và thi pháp thơ của tác giả nói riêng và từ đó quan sát được một phần của tiến trình vận động của thơ đương đại nói chung. Mai Văn Phấn đã dần định hình được một phong cách khá độc đáo. Mỗi tập thơ là một sự bứt phá của tác giả để thực hiện sứ mệnh cách tân thơ Việt theo hướng đi tìm một diện mạo riêng cho thơ dân tộc, làm giàu thêm truyền thống thơ ca dân tộc. Trong hành trình sáng tác, Mai Văn Phấn đã không ngừng nỗ lực, cùng với các nhà thơ khác làm giàu thêm truyền thống thơ ca Việt Nam. Hành trình đó một mặt phản ánh sự sáng tạo bền bỉ, vốn kiến thức văn hóa dồi dào, mặt khác cũng khẳng định quy luật đổi mới tất yếu của thi ca đương đại.

2. Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm hiểu những nét nổi bật về dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn trên cả hai bình diện cảm quan về cuộc sống, cảm quan về con người, xã hội và nhìn từ phương thức biểu hiện. Mai Văn Phấn nằm trong dòng chung đổi mới thơ Việt, chủ trương sử dụng các phương thức thể hiện khác biệt với quy chiếu của văn học hiện đại. Mọi yếu tố nghệ thuật của thơ hiện đại hầu hết được thể hiện một cách tập trung, liền mạch. Ngược lại, ở thơ Mai Văn Phấn các yếu tố đó được thể hiện một cách rải rác, phân tán như thể những mảnh vỡ. Đến với thơ Mai Văn Phấn, người đọc có cảm giác được tiếp xúc với một thế giới bề bộn, ngổn ngang. Thơ hạn chế một cách tối đa sự bộc lộ chủ quan của mình. Thơ Mai Văn Phấn kích thích nhiều hơn tính đồng sáng tạo nơi người đọc.

3. Thơ Mai Văn Phấn thể hiện cảm quan hậu hiện đại của người nghệ sĩ, cảm quan trước thực tại hỗn độn với những sự phi lí trong đời sống của xã hội hiện đại. Thời đại toàn cầu hóa của công nghệ thông tin tạo ra thế giới phẳng. Thế giới ảo trong cuộc sống thực khiến cho con người đánh mất đi bản thể của mình. Các mối quan hệ tốt đẹp của truyền thống dần bị phá vỡ. Mọi giá trị đích thực đang bị đe dọa, sự giả dối và ngụy tạo lên ngôi.  Đứng trước thực tại ấy, Mai Văn Phấn với tâm hồn nhạy cảm đã phản ánh hiện thực cuộc sống thời đại theo những cách riêng của mình. Ông đã cho thấy  những suy tư mang tính chiều sâu về thân phận con người và cuộc đời, cái nhìn sâu sắc và giàu triết lí về cuộc sống. Mai Văn Phấn được xem là một điểm sáng của sự nỗ lực và bứt phá trong sáng tác nghệ thuật của nền thơ ca Việt Nam đương đại.

4. Các nhà thơ hậu hiện đại không gây nên phong trào, không tạo thành nhóm hay trường phái mà mỗi người tự chơi một trò chơi riêng của mình. Mai Văn Phấn cũng vậy, ông không quá kì công tạo nên những kĩ thuật hoàn toàn mới mà rất thoải mái tái sử dụng tất cả những gì có sẵn trong kho tàng văn chương nhân loại. Thế nhưng với cảm thức hậu hiện đại thì công việc tái sử dụng lại  trở thành công việc sáng tạo thực sự. Thơ Mai Văn Phấn cũng là một cách để các thi sĩ có cơ hội thể hiện bản thân. Ngôn ngữ, giọng điệu và không thời gian trong thơ ông đều mang những dấu ấn của tác giả qua mỗi giai đoạn sáng tác. Tuy nhiên đi vào mỗi tập thơ, chúng ta có thể thấy những góc phản chiếu đậm nhạt khác nhau, những vênh lệch tạo nên dấu ấn cá nhân của Mai Văn Phấn. Chính internet, văn học mạng phát triển là con đường ngắn nhất tạo điều kiện cho các nhà văn có thể nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại. Mai Văn Phấn đã tiếp cận cái mới rất nhanh với một tư duy vô cùng nhạy bén nên đã sớm khẳng định được vị thế của mình trên văn đàn Việt. Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn phản ánh khá toàn diện từ cảm quan sáng tác cho đến việc vận dụng các thủ pháp nghệ thuật. Nghiên cứu thơ Mai Văn Phấn dưới nhiều góc độ khác nhau chắc chắn sẽ còn mở ra những chân trời mới thi vị.


 
 
 
TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

A. Tài liệu văn bản:

[1]. Thái Phan Vàng Anh (2010), “Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc nhìn hậu hiện đại”, Văn nghệ quân đội (712), tr104.

[2]. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại, lí thuyết và tiếp nhận, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

[3]. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB Khoa học xã hội.

[4]. Nguyễn Hồng Dũng (2015), Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1986 đến 2010, Luận án tiến sĩ, Đại học Huế.

[5]. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục.

[6]. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (2000), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo dục.

[7]. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học.

[8]. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau 1975 – từ cái nhìn toàn cảnh”, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11.

[9]. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, NXB Văn học.

[10]. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca, NXB Khoa học xã hội.

[11]. Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Hà Nội.

[12]. Hà Văn Đức (2000), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb Giáo dục.

[13]. Mai Thị Liên Giang (2015), Chủ thể tiếp nhận và lịch sử tiếp nhận thơ Mới, NXB Hội nhà văn VN.

[14]. Mai Thị Liên Giang (2018), An trú miền đọc, NXB Hội nhà văn VN.

[15]. Mai Thị Liên Giang (2019), “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn”, Tạp chí Dạy và Học ngày nay, kỳ 2 - 11/2019.

[16]. Hồ Thế Hà (2018), Thơ Việt Nam hiện đại -  Thi luận và Chân dung, NXB Hội nhà văn VN.

[17]. Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành (2014), Phân tâm học với văn học, NXB Đại học Huế.

[18]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Văn học.

[19]. Hoàng Thị Huế (2014), “Ánh xạ từ biểu tượng cái tôi trong thơ của một số nhà thơ Việt đương đại”, Tạp chí khoa học Đại học Huế.

[20]. Hoàng Thị Huế (2014), “Thơ Việt đương đại nhìn từ hành trình cách tân”, Tạp chí khoa học Đại học Huế.

[21]. Jean Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB Tri thức.

[22]. Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011), NXB Hội nhà văn.

[23]. Phương Lựu (chủ biên 2002), Lý luận văn học, tập 1: Văn học - nhà văn - bạn đọc, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.

[24]. Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

[25]. Phương Lựu (2013), Lí luận văn học (tập 3) Tiến trình văn học, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

[26]. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

[27]. Mai Văn Phấn (2003), Cầu nguyện ban mai, NXB Hội nhà văn VN.

[28]. Mai Văn Phấn (2003), Vách nước, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

[29]. Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, NXB Hội nhà văn VN.

[30]. Mai Văn Phấn (2009), và đột nhiên gió thổi, NXB Hội nhà văn VN.

[31]. Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái che, NXB Hội nhà văn VN.

[32]. Mai Văn Phấn (2012), hoa giấu mặt, NXB Hội nhà văn VN.

[33]. Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, NXB Hội nhà văn VN.

[34]. Mai Văn Phấn (2015), thả, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

[35]. Mai Văn Phấn (2018), Lặng yên cho nước chảy, NXB Hội nhà văn VN.

[36]. Mai Văn Phấn (2018), Tĩnh lặng, NXB Hội nhà văn VN.

[37]. Mai Văn Phấn (2018), Thời tái chế, NXB Hội nhà văn VN.

[38]. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn VN.

[39]. Trần Đình Sử (2012), Một nền lí luận văn học hiện đại, NXB Đại học Sư phạm.

[40]. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, NXB Hội nhà văn VN.

[41]. Honderich Ted (chủ biên) (2002), Hành trình cùng triết học (Lưu Văn Hy dịch), Nxb Văn hóa thông tin.

B. Tài liệu mạng:

[42]. Lê Huy Bắc, Đôi điều về văn chương hậu hiện đại Việt Nam,
http://tonvinhvanhoadoc.vn/.

[43]. Hoàng Hữu Các (2009), Tập thơ và đột nhiên thổi gió của nhà thơ Mai Văn Phấn,
maivanphan.com.

[44]. Nguyễn Việt Chiến (2010), Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ hậu - hiện - đại,
maivanphan.com.

[45]. Nguyễn Hồng Dũng (2015), Nghiên cứu - phê bình văn học hậu hiện đại ở Việt Nam: Những diễn giải và quan niệm,
http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5631%3Aedweesd&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Ite mid=135&lang=vi

[46]. Nguyễn Quang Hà (2012), Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên, 
maivanphan.com.

[47]. Đào Duy Hiệp (2010),  “Cấu trúc ngôn ngữ và hình ảnh trong tập thơ Và đột nhiên gió thổi của Mai Văn Phấn”,
http://www.vanchuongviet.org.

[48]. Nguyễn Hiệp, Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo,
http://www.vanvn.net.

[49]. Inrasara (2007), “Thơ hậu hiện đại Việt, kẻ khai mào”,
www.thotre.com.

[50]. Inrasara (2013), Mai Văn Phấn - kết thúc cho một khởi đầu,
maivanphan.com.

[51]. Hoài Khánh (2009), “Với Hôm sau, nhà thơ Mai Văn Phấn thêm một lần tự đổi mới mình”,
hoaikhanh.vnweblogs.com, truy cập ngày 25/3/ 2019.

[52]. Hoài Khánh (2010), “Mai Văn Phấn với Bầu trời không mái che”,
hoaikhanh.vnweblogs.com, truy cập ngày 25/3/ 2019.

[53]. Dương Kiều Minh (2009), “Hiện thực giả định và hiện thực tâm tưởng trong thơ Mai Văn Phấn”,
http://vnca.cand.com.vn

[54]. Cao Năm (2013), Nhà thơ Mai Văn Phấn hiện thân của sự sáng tạo,
http://nhavantphcm.com.vn.

[55]. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2014), Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Vinh, 
maivanphan.com.

[56]. Dương Thị Phú (2018), Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
maivanphan.com.

[57]. Vĩnh Phúc (2009), “Mai Văn Phấn với Hôm sau và Đột nhiên gió thổi”,
http://doanvinhphuccr.vnweblogs.com

[58]. Lê Hồ Quang (2014), "Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn",
http://maivanphan.vn.

[59]. Lê Hồ Quang (2014), Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh

[60]. Lê Hồ Quang (2014), “Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó”,
http://maivanphan.vn

[61]. Nguyễn Hưng Quốc (2009), Chủ nghĩa hậu hiện đại - những mảnh nghĩ rời,
http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artwor

[62]. Đặng Văn Sinh (2009), “Mai Văn Phấn và khúc biến tấu Hôm sau”
http://maivanphan.com.

[63]. Đỗ Minh Tuấn, Chập chờn bóng ma hậu hiện đại,
http://htx.dongtak.net.

[64]. Đặng Thân (2009), “Mai Văn Phấn và công nghệ cách tân thơ”,
http://maivanphan.vn

[65]. Mai Thị Thảo (2014), Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, đăng trên:
maivanphan.com.

[66]. Vũ Thị Thảo (2012 ), Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, Luận văn cao học, Trường Đại học Đà Nẵng, 
http://maivanphan.com

[67]. Nguyễn Đình Thi (2003), Mấy ý nghĩ về thơ,
http://www.talawas.org/talaD B/showFile. php?res=911&rb=0101

[68]. Nguyễn Ngọc Thiện (2013), Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn,
http://maivanphan.com

[69]. Nguyễn Thị Thùy Trang (2015), Dấu ấn chủ nghĩa siêu thục trong thơ Mai Văn Phấn
http://maivanphan.com

[70]. Đặng Thị Phượng Vĩ (2015), Văn xuôi Vũ Đình Giang – tính chất đa giọng điệu,
http://bichkhe.org.

[71]. Bão Vũ (2008), “Đọc Tắm đầu năm” (Thơ của Mai Văn Phấn),
http://maivanphan.vn

[72]. Lê Vũ (2009), “Bài học & phong cách hậu hiện đại”, 
http://damau.org, truy cập ngày 30/ 11/ 2018.

[73]. Lê Vũ (2011), “Bầu trời không mái che của Mai Văn Phấn
Nguồn http://doanvinhphuccr.vnweblogs.com, truy cập  ngày 30/ 11/ 2018.

 



STT

Về cuộc sống

Về con người

Về xã hội

1

“Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”

“Quyền lực mùa thu”

“Đến trong ý nghĩ”

2

“Nhật kí đô thị hóa”

“Cặp hài vạn dặm

“Chỉ là giấc mơ”

3

“Chú tiểu chùa nghèo”

“Biến tấu con quạ”

“Quay theo mái nhà”

4

“Cái nhìn”

“Đúng vậy”

“Xử lí nghiêm”

5

“Nắng xuân”

“Không thể tin”

“Hoa ở hội trường”

6

“Ngồi giữa lá sen”

“Ở những đỉnh cột”

“Quy hoạch con đường”

7

“Cái miệng bất tử”

“Ở Sokcho”

“Nhật ký”

8

“Nét quê”

“Tắm đầu năm”

“Mọi người”

9

“Dậy trẻ con”

“Để anh nhận ra”

“Bác tôi”

10

“Không thể tin”

“Kể lại giấc mơ”

“Cửa mẫu”

11

“Thế giới hiện hữu”

“Đá trong lòng suối”

“Màu xanh”

12

“Quay theo mái nhà”

“Một mình”

“Chọn cảnh”

13

“Nếu”

“Chuyện còn dài”

“Qua ngõ hàng xóm”

14

“Ghi ở  Vạn Lí

trường thành”

 “Nhìn anh”

 “Những bông hoa

 mùa thu”

15

 “Sống hồn nhiên”

 “Tắm đầu năm”

 “Nếu”

16

 “Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ”

“Còn cậu hãy đứng ở đằng kia”

“Ngậm em trong miệng”

17

“Được quyền nghĩ những điều đã ước”

“Vô tình trong nắng sớm”

“Tĩnh lặng 11”

18

“Biến tấu con quạ”

19

“Anh anh em em”

20

“Nhóm lửa”

21

“Bài ca mùa màng”

22

“Những trái tim giải thoát”

23

“Hình đám cỏ”

24

“Nỗi nhớ mùa thu”

25

“Bài ca buổi sớm”

26

“Đỉnh gió”

27

“Đất mở”

28

“Linh hồn đã bay”

29

“Mùa hạ rất gần”

30

“Qua hoàng hôn”












Học viên Cao học Lê Thị Ngọc Hà bảo vệ luận văn Thạc sĩ

 

 

 

 





 









 
 
 
 
 
 



 

STT

Về cuộc sống

Về con người

Về xã hội

1

“Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”

“Quyền lực mùa thu”

“Đến trong ý nghĩ”

2

“Nhật kí đô thị hóa”

“Cặp hài vạn dặm

“Chỉ là giấc mơ”

3

“Chú tiểu chùa nghèo”

“Biến tấu con quạ”

“Quay theo mái nhà”

4

“Cái nhìn”

“Đúng vậy”

“Xử lí nghiêm”

5

“Nắng xuân”

“Không thể tin”

“Hoa ở hội trường”

6

“Ngồi giữa lá sen”

“Ở những đỉnh cột”

“Quy hoạch con đường”

7

“Cái miệng bất tử”

“Ở Sokcho”

“Nhật ký”

8

“Nét quê”

“Tắm đầu năm”

“Mọi người”

9

“Dậy trẻ con”

“Để anh nhận ra”

“Bác tôi”

10

“Không thể tin”

“Kể lại giấc mơ”

“Cửa mẫu”

11

“Thế giới hiện hữu”

“Đá trong lòng suối”

“Màu xanh”

12

“Quay theo mái nhà”

“Một mình”

“Chọn cảnh”

13

“Nếu”

“Chuyện còn dài”

“Qua ngõ hàng xóm”

14

“Ghi ở  Vạn Lí

trường thành”

 “Nhìn anh”

 “Những bông hoa

 mùa thu”

15

 “Sống hồn nhiên”

 “Tắm đầu năm”

 “Nếu”

16

 “Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ”

“Còn cậu hãy đứng ở đằng kia”

“Ngậm em trong miệng”

17

“Được quyền nghĩ những điều đã ước”

“Vô tình trong nắng sớm”

“Tĩnh lặng 11”

18

“Biến tấu con quạ”

19

“Anh anh em em”

20

“Nhóm lửa”

21

“Bài ca mùa màng”

22

“Những trái tim giải thoát”

23

“Hình đám cỏ”

24

“Nỗi nhớ mùa thu”

25

“Bài ca buổi sớm”

26

“Đỉnh gió”

27

“Đất mở”

28

“Linh hồn đã bay”

29

“Mùa hạ rất gần”

30

“Qua hoàng hôn”



BÀI KHÁC
1 2 

image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị