Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn (Luận văn thạc sĩ) - Lê Thị Ngọc Hà
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
Lê Thị Ngọc
Hà
Người hướng dẫn khoa học:
TS. Mai
Thị Liên Giang
TS. Mai Thị Liên
Giang (phải) & Ths. Lê Thị Ngọc Hà
DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI
TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÀNH LÝ LUẬN VĂN HỌC
Thừa Thiên Huế, 2019
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Hướng tiếp cận và Phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của luận văn
6. Cấu trúc luận văn
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI LƯỢC VỀ VĂN HỌC HẬU HIỆN ĐẠI
VÀ THƠ MAI VĂN PHẤN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI THƠ VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Văn học hậu hiện đại, quá trình tiếp
nhận và quan niệm
1.1.1. Cách hiểu về văn học hậu hiện đại
1.1.2. Quá trình tiếp nhận và quan niệm về văn
học hậu hiện đại ở Việt Nam
1.2. Thơ Mai Văn Phấn trong quá trình đổi mới
thơ Việt Nam sau 1986
1.2.1. Những đổi mới của thơ Việt Nam sau
1986
1.2.2. Thơ Mai Văn Phấn – nỗ lực cách tân
theo hướng hậu hiện đại
CHƯƠNG 2. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI
VĂN PHẤN NHÌN TỪ CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI
2.1. Cảm quan về cuộc sống trong thơ Mai Văn
Phấn
2.1.1.
Hiện thực thế giới đa chiều
2.1.2. Hiện thực thế giới phồn tạp, bất an
2.1.3. Hiện thực thế giới phồn sinh, hóa sinh
bất định
2.2. Cảm quan về con người trong thơ Mai Văn
Phấn
2.2.1. Con người cô đơn
2.2.2. Con người vô bản sắc
2.2.3. Con người khát khao
2.3. Cảm quan về xã hội trong thơ Mai Văn
Phấn
2.3.1. Xã hội hiện thực
2.3.2. Xã hội phi lí
2.3.3. Xã hội trong tưởng tượng
CHƯƠNG 3. DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI
VĂN PHẤN NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
3.1. Ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn
3.1.1. Ngôn ngữ mơ hồ hóa
3.1.2. Ngôn ngữ tạo sinh
3.2. Giọng điệu thơ Mai Văn Phấn
3.2.1. Giọng điệu giễu nhại
3.2.2. Giọng điệu vô âm sắc
3.3. Không gian – thời gian nghệ thuật thơ
Mai Văn Phấn
3.3.1. Không gian đa chiều
3.3.2. Thời gian phi tuyến tính
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hậu hiện đại
đã trở thành hiện tượng mang tính toàn cầu, được bàn luận, tranh cãi rất nhiều
và có ảnh hưởng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn học. Với văn học,
chủ nghĩa hậu hiện đại đã mở ra nhiều khả năng mới cho sáng tạo và tiếp nhận.
Văn học Việt Nam sau 1975, nhất là từ 1986 tới nay bước sang một giai đoạn phát triển
mới so với trước đó, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một khái niệm khả dĩ định
danh văn học giai đoạn này. Từ sau thế kỉ XX, văn học thế giới chuyển qua giai
đoạn hậu hiện đại. Văn học Việt Nam, tuy hơi muộn so với nhiều nước trên thế giới,
nhưng không thể tránh khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại. Ở Việt Nam,
thuật ngữ “hậu hiện đại” được nhắc tới ngày càng nhiều. Chưa thể khẳng định một
cách chắc chắn rằng đã có một trào lưu văn học hậu hiện đại với đầy đủ ý nghĩa
của khái niệm này trong văn học Việt Nam nhưng nếu xét ở lĩnh vực
thơ, có thể tìm
thấy những dấu hiệu ban đầu trong sáng tác của nhiều cây bút như: Bùi Giáng, Nguyễn
Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Vi Thùy Linh,…
Trong số các
cây bút đương đại gây được nhiều chú ý, Mai Văn Phấn là một trong những gương mặt
nổi bật và đã có những đóng góp đáng kể. Ngay từ các sáng tác đầu tay, tác giả đã có một cách viết
khác so với các
nhà thơ cùng thời. Mai Văn Phấn là một trong những hiện tượng văn học thu hút được sự
quan tâm của đông đảo độc giả. Theo thống kê của tác giả Mai Thị Liên Giang: “đến
nay, tháng 10. 2019, thơ ông đã được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ và đang tiếp tục
được dịch ra các ngôn ngữ khác nữa”. Thành công mà ông đạt được là minh chứng
cho sự ảnh hưởng của xu hướng hậu hiện đại lan dần từ văn học thế giới đến văn
học nước ta. Mai Văn Phấn đã góp phần làm thay đổi bộ mặt văn học, đưa văn học
nước ta bước kịp với sự tiến bộ chung của văn học nhân loại.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về văn chương
hậu hiện đại Việt Nam cũng như về nhà thơ Mai Văn Phấn. Tuy nhiên chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về dấu ấn hậu hiện đại trong thơ ông.
Chính vì vậy chúng tôi đã chọn đề tài “Dấu
ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn”.
Hy vọng kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần khẳng định rõ hơn vị trí
của nhà thơ Mai Văn Phấn trong hành trình thơ Việt.
2. Lịch sử vấn đề
Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về dấu ấn hậu hiện đại nói
chung. Tuy nhiên, những đề tài nghiên cứu về Mai Văn Phấn và đặc biệt là dấu ấn
hậu hiện đại trong thơ ông còn rất ít. Đã có những bài báo, tạp chí nhắc đến dấu
ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn nhưng chỉ nêu ra vấn đề chứ chưa phân
tích một cách hệ thống.
Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định rằng: “Nếu có nhà thơ nào
đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong
các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ
tình – cổ điển anh bay thẳng một mạch vào hậu hiện đại, rồi từ đó “lao” vào
vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ cách tân” [22; 420]. Bài viết của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã khẳng định
Mai Văn Phấn là một trong những gương mặt cách tân tiêu biểu của thơ Hậu hiện đại.
Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện trong bài “Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi trong thơ văn xuôi của Mai
Văn Phấn” đã khẳng định: “Từ chữ đến
lời, ngôn ngữ thơ và tư duy thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn nhằm thể hiện một khát
vọng quyền lực tối thượng của nhà thơ đi tìm một cấu trúc văn bản thơ mới lạ, với
cách dụng ngữ riêng, in đậm cá tính sáng tạo nghệ thuật của tác giả, tích hợp đặc
sắc, ưu thế của các thủ pháp: truyền thống, tượng trưng, siêu thực, hiện đại, hậu
hiện đại. Văn bản thơ văn xuôi Mai Văn Phấn đầy tiềm năng nghĩa ẩn chứa trong
đó, nó là một kết cấu vẫy gọi sự mở, sự khám phá của người đọc tri âm, đồng điệu,
đồng cảm”[68]. Trong nhận định của mình, Nguyễn Ngọc Thiện đã cho rằng thơ Mai
Văn Phấn bộc lộ tham vọng của nhà thơ đi tìm kiếm quyền lực tối thượng để tạo
ra một cấu trúc văn bản mới lạ, sử dụng mọi cách sáng tạo ngay từ câu từ, con
chữ. Ông sử dụng khá nhuần nhuyễn những đặc điểm nghệ thuật của thơ ca truyền
thống, tượng trưng, siêu thực, hiện đại, hậu hiện đại. Thơ văn xuôi của Mai Văn
Phấn ẩn chứa tiềm tàng những năng lực của sự gợi mở, khơi gợi sự tri âm, đồng
điệu, đồng cảm của người đọc.
PGS.TS Hồ Thế Hà, trong bài viết Thơ
tạo sinh nghĩa Mai Văn Phấn đã phân tích thơ của Mai Văn Phấn trên hai bình
diện: thế giới hình tượng và khả năng tạo sinh nghĩa; bản thể chữ và khả năng tạo
sinh nghĩa để làm rõ quan điểm của mình. Đồng thời ông khẳng định “Càng về sau, Mai
Văn Phấn càng ý thức thể hiện tâm thức hậu hiện đại trong sáng tạo thông qua hệ
ngôn từ và hình ảnh lạ đã làm cho thơ anh không dễ đọc, không dễ hiểu ngay tức
thì. Và đó cũng chính là điều làm nên thi pháp riêng Mai Văn Phấn [16; 389].
Đặng Văn Sinh đã nhìn thấy một Mai Văn Phấn và khúc
biến tấu “Hôm sau” với sự hòa hợp giữa nhiều phong cách: “tân cổ điển, hậu hiện
đại, thậm chí cả siêu thực không loại trừ nhau mà luôn bổ sung cho nhau, hòa
quyện vào nhau, chuyển hóa thành phẩm chất mới cả định tính lẫn định lượng”
[62]. Cũng như những nhà nghiên cứu trên, Đặng Văn Sinh đã nhìn thấy trong sáng
tác của Mai Văn Phấn phong cách hậu hiện đại. Tập thơ “Hôm sau” là minh chứng rõ nhất cho nhận định này.
Nguyễn Hoàng Đức khi đề cập đến sự thay đổi bút pháp thơ Mai Văn Phấn đã viết:
“Phải nói, anh đã thể nghiệm rất nhiều bút pháp thơ từ cổ điển đến các khuynh
hướng thơ hiện đại thế kỉ XX và thơ văn xuôi. Tất cả đều được cày xới, chiêm
nghiệm, chìm đắm đến nhuần nhị. Đọc thơ anh, có cảm giác bình thản như một nhạc
công đã tu luyện thành thạo và dễ dàng biểu diễn những khúc nhạc khó nhẹ như
lông hồng” [22; 35]. Nguyễn Hoàng Đức đã nghiên cứu sâu và chỉ rõ Mai Văn Phấn
đã thử nghiệm rất nhiều bút pháp sáng
tác và đương nhiên không thể bỏ sót khuynh hướng thơ hậu hiện đại. Không chỉ thử
nghiệm mà thơ hậu hiện đại của ông đã được cày xới, chiêm nghiệm, chìm đắm đến
nhuần nhị.
Nhà thơ Inrasara thì cho rằng: “Chuyển động mạnh nhất ở Mai Văn Phấn trong
những năm hậu đổi mới chính là ngôn ngữ. Hết còn thứ ngôn từ sang trọng và trịnh
trọng. Ngôn ngữ thơ Phấn đã thôi còn trau chuốt tỉ mẫn, ngày càng hướng đến sự tự
phát và ngẫu hứng. Từ đó, thơ anh cũng thôi đạo mạo với đóng thùng” [22; 73].
Nhà thơ Inrasara đã chỉ ra được sự cách tân thơ ca của Mai Văn Phấn những năm hậu
đổi mới và phương diện cách tân mãnh liệt nhất trong thơ ông đó chính là ngôn
ngữ, bỏ qua thứ ngôn ngữ trong văn chương cổ điển, hiện đại, tiến gần hơn đến
văn chương hậu hiện đại.
Tác giả Lê Hồ Quang, trong bài Đặc trưng thế giới nghệ thuật trong thơ Mai
Văn Phấn, nhận định: “Thơ Mai Văn Phấn là một sự chuyển động liên tục với những
tìm tòi thi pháp đa dạng. Một khi quan niệm sáng tạo là nhằm hướng đến “sự khác
hẳn, biệt lập (đôi khi đối lập) với cái đã được định giá”, tác giả không ngại
tìm kiếm và dung nạp những cách nghĩ, cách viết mới, hiện đại, tạo nên sự giãn
nở liên tục và khá rộng rãi trong biên độ sáng tạo” [59; 1]. Và “ thế giới thơ
ông dù biến đổi hết sức đa dạng song vẫn rất nhất quán ở tinh thần vận động hướng
về cái mới, không hoàn tất, khép kín mà ngược lại, sẵn sàng “mời gọi” những diễn
dịch đa chiều” [59; 3]. Tác giả Lê Hồ Quang đã chỉ rõ thơ Mai Văn Phấn là một
chuyển động không ngừng và sự vận động ấy luôn đi theo hướng đổi mới, hiện đại.
Tác giả Hoàng Thị Huế trong bài viết “Ánh
xạ
từ biểu tượng cái tôi trong thơ của một số nhà thơ Việt đương đại”
cũng đã đưa ra nhận định: “Sau đổi mới, thơ ca đương đại đã có bước ngoặt lớn
trong tư duy sáng tác, trong cái nhìn thế giới, con người, không gian, thời
gian, chi phối sự lựa chọn phương thức trữ tình mới mẻ với một giọng điệu riêng
và khác lạ, đặc biệt là sự góp mặt của các gương mặt thơ Nguyễn Quang Thiều,
Mai Văn Phấn, Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh… “Dắt ta về” và “ Ra đi” từ những gì
được xem là thân thuộc, đứng vững trên nền truyền thống để vươn mình xa tới hiện
đại, hậu hiện đại là một xác tín để truy nguyên những cội nguồn vô thức nhân loại,
dân tộc trong thơ ca Việt thời kỳ đổi mới” [19]. Bằng cái nhìn tinh tế, khách
quan tác giả Hoàng Thị Huế đã chỉ ra được những thay đổi theo hướng hậu hiện đại
trong thơ của các nhà thơ Việt Nam đương đại mà Mai Văn Phấn là một ví dụ điển
hình.
Và gần đây tác giả Mai Thị Liên Giang khi phân tích yếu tố cảm thức thời
gian trong thơ Mai Văn Phấn từ tinh thần của hậu hiện đại đã có những nhận định:
“Thế kỷ 20 với xu hướng phương Tây hóa toàn cầu đã ảnh hưởng đến châu Á, trong
đó có Việt Nam. Song song với văn hóa là sự phát triển của khoa học tự nhiên và
công nghệ, các mô hình xã hội dân chủ, quyền con người, những hệ hình tư tưởng
mới của châu Âu... có tác động mạnh mẽ đến các trí thức Việt Nam. Các vấn đề về
tôn giáo như Ki-tô giáo, đạo Phật... góp phần xóa nhòa ranh giới Đông Tây xét về
mặt tâm linh. Theo đó, quan niệm về thời gian sống chết của con người, của vũ
trụ trong tác phẩm nghệ thuật vì vậy cũng dần mất ranh giới. Đồng thời, quá
trình dung hợp các xu hướng nghệ thuật hiện đại và hậu hiện đại đến Việt Nam có
ảnh hưởng từ nội dung đến hình thức thơ Mai Văn Phấn.”
Như
vậy, nhìn chung các bài phê bình báo chí hay các công trình nghiên cứu về nhà
thơ Mai Văn Phấn cho thấy giới độc giả cũng như
giới phê bình nghiên cứu đã ghi nhận những cống hiến của ông cho thơ ca
Việt Nam đương đại. Khẳng định những thành quả nhà thơ đạt được chính là những
nỗ lực không mệt mỏi trong hành trình sáng tác của họ với mong muốn đem đến cho
diện mạo thơ dân tộc những hương vị mới. Mặc dù đã có sự quan tâm nhiều của độc
giả như vậy nhưng để khám phá hết những giá trị tiềm ẩn trong thế giới thơ của
thi sĩ này không hề đơn giản. Có thể nói, đến thời điểm này (tháng 7/2019) vấn
đề dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn vẫn chưa được nghiên cứu có hệ
thống trên toàn bộ các tập thơ của ông. Với đề tài này chúng tôi muốn giúp
người đọc tiếp cận với một kiểu văn bản thơ khá đặc biệt đáng được quan tâm
trong nền thơ ca Việt Nam đương đại. Các công trình nghiên cứu là những
gợi ý quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên
cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết tập
trung khảo sát những tập thơ sau của nhà thơ Mai Văn Phấn:
- Cầu nguyện ban mai
(2003 ), NXB Hội Nhà văn VN.
- Vách nước (2003), NXB Hội Nhà văn VN.
- Hôm sau (2009), NXB Hội
Nhà văn VN.
- và đột nhiên gió thổi
(2009), NXB Văn học VN.
- Bầu trời không mái che (2010), NXB Hội Nhà văn VN.
- hoa giấu mặt (2012), NXB Hội Nhà văn VN.
- Vừa sinh ra ở đó (2013), NXB Văn học VN.
- thả (2015), NXB Hội
Nhà văn VN.
- Lặng yên cho nước
chảy (2018), NXB Hội Nhà văn VN.
- Tĩnh lặng (2018), NXB Hội
Nhà văn VN.
- Thời tái chế (2018), NXB Hội
Nhà văn VN.
Ngoài ra, chúng tôi có sử
dụng một số tập thơ của các nhà thơ khác cùng thế hệ với Mai Văn Phấn để so
sánh, từ đó chỉ ra đặc trưng riêng trong thơ ông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn chính là “Dấu ấn hậu
hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn” trên hai bình diện: cảm quan hậu hiện đại về
cuộc sống, con người, xã hội và dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ phương thức biểu hiện
4. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Hướng tiếp cận:
Vận dụng lí thuyết văn học hậu hiện đại trong nghiên cứu để tìm điểm gặp gỡ của
dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn.
Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Xem
xét cụ thể các vấn đề về nội dung và nghệ thuật để làm rõ dấu ấn hậu hiện đại
trong thơ Mai Văn Phấn. Đồng thời đưa ra những đánh giá, nhận xét
khoa học về giá trị nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn đối với thơ ca Việt Nam đương đại.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: So
sánh với các tác giả khác cùng thời, trước, sau và trong chính các tác phẩm của
Mai Văn Phấn để thấy được sự khác biệt của các tác phẩm viết theo lối hậu hiện
đại và đóng góp riêng của tác giả.
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: Đặt
tác phẩm trong hệ thống của khuynh hướng hậu hiện đại để đánh giá khái quát hiện
tượng.
- Ngoài các phương pháp chủ đạo trên,
người viết còn sử dụng một số phương pháp hỗ trợ như: phương pháp phân tích văn
học, phương pháp nghiên cứu tác giả, phương pháp nghiên cứu lịch sử…
5. Đóng góp của luận văn
- Tìm hiểu về dấu ấn hậu hiện đại
trong thơ Mai Văn Phấn góp phần làm rõ thêm đặc sắc thơ ông.
- Khẳng định những thành tựu nghệ
thuật, cách thức sáng tác, phong cách sáng tác và đóng góp quan trọng của ông
trong nền văn học Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài
phần MỞ ĐẦU, KẾT LUẬN và PHỤ LỤC, phần NỘI DUNG CHÍNH của luận văn được chia
thành ba chương:
Chương 1: Khái lược về văn học hậu hiện đại
và thơ Mai Văn Phấn trong quá trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1986
Chương 2: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai
Văn Phấn nhìn từ cảm quan về hiện thực đời sống và con người
Chương 3: Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai
Văn Phấn nhìn từ phương thức biểu hiện
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI LƯỢC VỀ VĂN
HỌC HẬU HIỆN ĐẠI VÀ THƠ MAI VĂN PHẤN
TRONG QUÁ TRÌNH
ĐỔI MỚI THƠ VIỆT NAM SAU 1986
1.1. Văn học hậu hiện đại, quá trình tiếp nhận và quan niệm
1.1.1 Cách hiểu về văn học hậu hiện đại
Danh từ “postmodern”(hậu
hiện đại) hay “postmodernism” (chủ nghĩa hậu hiện đại) theo Ihab Hassan được
Federico de Onis đưa vào văn bản lần đầu vào thập niên 1930 để chỉ sự ảnh hưởng
đối kháng với chủ nghĩa hiện đại. Danh từ này được sử dụng một cách phổ biến
vào thập niên 1960 tại New York. Sau này đã được xuất hiện trong cuộc tranh
luận triết học năm 1979 ở phương Tây cùng với sự ra đời cuốn La
condition postmodern (Hoàn cảnh hậu hiện đại) của
Jean-François Lyotard một triết gia Pháp. Nó đã thực sự trở thành một
làn sóng có sức cộng hưởng và lan tỏa mạnh mẽ trên toàn thế giới.
Khái niệm Hậu hiện đại ra đời khi mà các chủ thuyết hiện đại đã trở nên già
cỗi, đã trở thành những đại tự sự. Lyotard xác định: “Hậu hiện đại là sự hoài
nghi đối với các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của sự tiến bộ của các
khoa học; nhưng sự tiến bộ này đến lượt nó lại là tiền giả định sự hoài nghi
đó. Tương ứng với sự già cỗi của cơ chế siêu tự sự trong việc hợp thức hóa là
sự khủng hoảng của nền triết học siêu hình học, cũng như sự khủng hoảng của
thiết chế đại học phụ thuộc vào nó. Chức năng tự sự mất đi các hình thức mang
chức năng: các anh hùng lớn, các hiểm họa lớn, các chuyến hải hành lớn và mục
đích lớn. Nó tan ra thành từng mảng các yếu tố ngôn ngữ mang tính tự sự, nhưng
cũng là tính sở thị, tính chỉ thị, tính miêu tả, v.v… và mỗi thứ đó mang chở
theo mình những trị số dụng hành (valences pragmatiques) sui generis (đặc thù).
Mỗi người chúng ta sống ở ngã tư đường hay nơi giao nhau của nhiều yếu tố đó.
Chúng ta không nhất thiết tạo nên những kết hợp ngôn ngữ ổn định, và những
thuộc tính của những kết hợp mà chúng ta tạo nên không nhất thiết là có thể
tương thông với nhau được ”[21; 243]. Năm 1971, Ihab Hassan coi chủ nghĩa hậu
hiện đại là một thứ chủ nghĩa hiện đại muộn, mang tính phi lý tính, phi xác
định, hỗn loạn, nhưng cũng mang tính nhập cuộc. Năm 1995, Baudrillard xem văn hoá hậu hiện đại là thế giới
của những“vật ngụy tạo”. Năm
1996, Fredric Jameson cho rằng:“sự tha
hoá của chủ thể” trong chủ nghĩa hiện đại đã được thay thế bằng “sự phân mảnh
của chủ thể” trong chủ nghĩa hậu hiện đại ở giai đoạn Chủ nghĩa Tư bản muộn.
U. Eco xem hậu hiện đại “Là một phạm trù tinh thần, hoặc tốt hơn, một Kunstwollen - một phương
thức thao tác”. Năm 2000, Derrida - “Giải
trung tâm”. W. Fokkema lại cho rằng: “Kết thúc đại tự sự”. L. P.Evstigneva
và R. Evstigneev quan niệm đặc trưng của xã hội hậu hiện đại là tính đối thoại,
còn đặc trưng của xã hội công nghiệp hiện đại là độc thoại. Lipovetsky cho rằng
hậu hiện đại là“Sự quay trở về với nguồn
gốc của con người”. Michel Foucault xem hậu hiện đại là “Khảo cổ tri thức”... Theo từ
điển thuật ngữ triết học Hành trình cùng
triết học do Ted Honderich chủ biên, hậu hiện đại là: “Thuật ngữ “sự tương
đồng gia đình” được triển khai theo đủ loại bối cảnh… dành cho những sự vật
dường như có liên quan, nếu có, bằng một sự đa dạng về phong cách thông thường
và một ước muốn mơ hồ được thực hiện với các chủ định của nền văn hoá mang tính
hiện đại cao… Chủ nghĩa hậu hiện đại cùng chia sẻ một điều gì đó với sự phê
phán các giá trị của thời đại Ánh Sáng và các viện dẫn về chân lý được lập ra
bởi các nhà tư tưởng chủ trương thuyết phục theo kiểu thành viên công xã tự
do…”[41, 822]. Chủ nghĩa hậu hiện đại là một khái niệm mở bởi việc xác định nội
hàm và thời điểm ra đời của nó thì dường như luôn phụ thuộc vào ý đồ chủ quan
của mỗi một nhà nghiên cứu. Nơi khởi xuất và phát triển mạnh của chủ nghĩa hậu
hiện đại là ở Mỹ. Nhưng lí thuyết cơ bản về chủ nghĩa hậu hiện đại thì lại được
các học giả Pháp dựng nên. Sau đó, không chỉ các nước Tây Âu sử dụng mà cả Nga,
Trung Quốc, Nhật Bản,… những trung tâm kinh tế, xã hội lớn cũng sử dụng thuật
ngữ này. Điều đó cho thấy, bất kì một quốc gia có nền kinh tế, nền khoa học kĩ
thuật phát triển nào cũng đều không xa lạ với chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong xu
thế toàn cầu hóa hiện nay, dẫu những nước có nền kinh tế, khoa học kĩ thuật
chưa cao nhưng vẫn phải chịu sự tác động, vẫn chấp nhận sự xuất hiện và tồn tại
của nó. Thế giới hiện nay là thế giới của kỉ nguyên hậu hiện đại. Tùy vào đặc điểm
riêng của từng quốc gia mà chủ nghĩa hậu hiện đại có những sắc thái khác nhau.
Theo Phương Lựu, chủ nghĩa hậu hiện đại là “một trào lưu văn hóa kết tinh những
đặc trưng của xã hội hậu hiện đại” [25; 323]. Nhưng để biết Chủ nghĩa hậu hiện
đại ra đời từ lúc nào chúng ta cần đối sánh với chủ nghĩa hiện đại. “Thế chiến
I đã lôi cuốn hơn 30 nước vào vòng khói lửa, hàng chục triệu người tử vong. Thế
chiến II lại càng kinh hoàng, số người chết gấp nhiều lần. Người ta bất giác
kêu lên: “Thượng đế chết rồi”, biết bao lí trí, đạo đức và niềm tin kết tinh từ
hàng ngàn đời của nhân loại hầu như tiêu biến. Bản tính của nhân loại bị hoài
nghi, con người đầy lo âu trước vận mệnh và tiền đề của mình. Mặt khác, khoa
học phát triển nhanh, đời sống vật chất càng nâng cao, kéo theo đời sống tinh
thần nghèo nàn: Máy tính, người máy do con người tạo ra, trở lại khống chế con
người làm họ mất đi tính chủ thể. Con người nhiều khi phải tự hỏi: “Ta là ai?
Từ đâu đến? Rồi sẽ đi về đâu?” [25;325]. Theo Lê Huy Bắc: “Chủ nghĩa hậu hiện
đại đề xuất nhiệm vụ đi tìm bản nguyên của con người và vũ trụ, đi tìm nền tảng
của nhận thức và của cả cách thức tri nhận thế giới, qua đó hòng cắt nghĩa đâu
là tự do, hạnh phúc đích thực của con người. Mục đích tối hậu của nó một mặt
thúc đẩy tri thức nhân loại tiến thêm, dùng khoa học, kĩ thuật làm nền tảng cho
hành động, một mặt khách quan hóa cái nhìn về cuộc đời, giải phóng con người ra
khỏi những định chế đã trở nên lỗi thời, kìm hãm bước tiến của nhân loại. Vì lẽ
đó, không ít nhà nghiên cứu cho rằng chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời vào những
giai đoạn khủng hoảng của lịch sử loài người và tất nhiên nó không phải là sản
phẩm của thế kỉ hai mươi mà là của nhiều thế kỉ trước…” [2;21]. Chủ nghĩa hậu
hiện đại cũng mang trong nó hai nhiệm vụ quen thuộc của bất kì nền triết học
nào, xóa bỏ (hoặc kế thừa) và dựng xây. Xóa bỏ những chân lí phổ quát đã lỗi
thời, không phải những chân lí mới mà là những giải pháp khoa học để tiếp cận
chân lí, chủ nghĩa hậu hiện đại rất quyết liệt trong việc phê phán những đại tự sự và bản thân nó không bao giờ
muốn biến mình thành đại tự sự. Một “mã kép” được hình thành ngay chính trong nền tảng triết học hậu hiện đại. Nhìn
tổng thể, triết học hậu hiện đại cơ bản là sự phục sinh, “làm mới” những tư
tưởng hư vô của Friedrich Nietzsche, tư tưởng biện chứng của Carl Marx, tư
tưởng phân tâm học về vô thức của Sigmund Freud, tư tưởng về bản thể của Martin
Heidegger,… nhưng các triết gia hậu hiện đại gần như hòa tan các tư tưởng đó
trong cái nhìn văn hóa – xã hội của
mình. Phản đối nguyên tắc mã hóa hiện thực theo cái nhìn của kí hiệu
học, vốn được xem là biểu hiện của cái toàn trị, khép kín, các nhà hậu hiện đại
đề xuất tư tưởng “đả mã”, có nghĩa đả phá việc mã hóa thuần túy chứ không phải là giải mã để tìm ra những nét nghĩa
được ẩn sau mã đó như cách làm thông thường bấy lâu. Chủ nghĩa hậu hiện đại xem
trọng con người cá nhân, con người bản thể. Ở phương diện này, các nhà hậu hiện
đại kế thừa tư tưởng của nhà triết học Martin Heidegger (1889 – 1976). “Họ lấy
cái “tôi” làm tâm điểm cho mọi luận giải triết học. Nhưng cái “tôi” đó không
phải là cái “tôi” nguyên vẹn, mà là một
cái “tôi” vỡ tan thành nhiều mảnh. Những mảnh này liên tục đối thoại nhau trong
đó đối thoại thường trực là giữa cái tôi giá trị và cái tôi giải giá trị của
cái tôi đó” [2; 16].
Tinh thần của chủ nghĩa
hậu hiện đại từ khi xuất hiện đã có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển ở
nhiều lĩnh vực văn hóa, xã hội và nghệ thuật, nhất là ở lĩnh vực sáng tác nghệ
thuật. Riêng trong sáng tác văn học, thuật ngữ “văn học hậu hiện đại” được xem
là một trào lưu xuất phát từ phương Tây từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và
đạt đến đỉnh cao vào những năm 70, 80 của
thế kỉ XX. Khi nhắc đến văn học hậu hiện đại, ngoài ý nghĩa chỉ thời gian còn
thể hiện những quy định của các thuộc tính nghệ thuật đối với nó.
Chúng
tôi đồng ý với ý kiến đa số của các nhà nghiên cứu khi nhấn mạnh đến các đặc
tính của văn học hậu hiện đại như tính phi lý tính (hoặc phản lý tính), tính
phi xác định, phi chủ thể, tính phân mảnh và tính đại chúng. Văn học hậu hiện
đại cũng đã sử dụng hàng loạt khái niệm, thuật ngữ mới trong cách viết, tạo nên
những văn bản nghệ thuật chưa từng có trước đó cả về hình thức lẫn nội dung
như: cảm quan hậu hiện đại, giễu nhại, mã kép, phi lựa chọn, giải nhân cách
hoá, bất tín nhận thức, mặt nạ tác giả, ngoại biên, liên văn bản, siêu
truyện… và trong số đó nhiều cái được xem như thủ pháp nghệ thuật hậu hiện đại. Các nhà văn hậu hiện đại chủ trương
sử dụng các phương thức thể hiện khác biệt với quy chuẩn của văn học hiện đại.
Mọi yếu tố nghệ thuật của văn học hiện đại hầu hết được thể hiện một cách tập
trung, liền mạch. Ngược lại, ở văn học hậu hiện đại các yếu tố đó được thể hiện
một cách rải rác, phân tán như thể những mảnh vỡ… Nhà nghiên cứu Ihab Hassan đã
chỉ ra một số điểm khác biệt cơ bản giữa tác phẩm văn học hiện đại và hậu hiện
đại. Về hình thức, văn học hiện đại có hình thức đóng thì văn học hậu hiện đại
theo hình thức mở (còn gọi là phi hình thức). Các chi tiết, biến cố…trong tác
phẩm văn học hiện đại được sắp xếp và thiết kế một cách kĩ lưỡng bởi sự hư cấu
khéo léo và chặt chẽ (chẳng hạn nhiều tác phẩm của chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa lãng mạn thường được sắp đặt theo trật tự chặt chẽ của một vở kịch: thắt
nút, phát triển, đỉnh điểm, mở nút) thì ở văn học hậu hiện đại, chúng được sắp
xếp một cách ngẫu nhiên, gần như không theo một trật tự nào. Do cấu trúc như
thế mà một tác phẩm văn học hiện đại như là một cuộc hành trình về đích, còn
văn học hậu hiện đại là một hành trình vẫn còn dang dở. Bởi thế, đọc văn học
hiện đại, người đọc có thể dễ dàng nhận ra dấu ấn sắp đặt của nhà văn. Đến với
văn học hậu hiện đại, người đọc lại có cảm giác được tiếp xúc với một thế giới
bề bộn, ngổn ngang. Nhà văn hậu hiện đại hạn chế một cách tối đa sự bộc lộ chủ
quan của mình. Họ sẽ không bao giờ viết những dòng văn, câu thơ miêu tả mang
đậm cảm xúc chủ quan. Nghệ thuật hậu hiện đại
cũng nhấn mạnh tính tự quy chiếu của tác phẩm, tính đứt gãy và hỗn loạn của
thực tại, cũng phủ nhận ranh giới các thể loại và thế giới khách quan đơn nhất,
tuy đi xa hơn thế. Nó chống lại sự phân chia nghệ thuật cao cấp với bình dân,
đề cao tính giễu nhại, lắp ghép, hài hước, đa nghĩa của sự vật và tác phẩm. Cái
khác cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại so với chủ nghĩa hiện đại là thái độ của
nó đối với thực tại. Trái với cách nhìn nhuốm màu bi thảm của chủ nghĩa hiện
đại, chủ nghĩa hậu hiện đại nhìn sự đổ vỡ, đứt đoạn và vô nghĩa của thực tại
như là một cái gì đó đương nhiên. Nói cách khác, nếu nghệ thuật hiện đại là sự
thương tiếc những ước mơ của thời Khai sáng thì trong nghệ thuật hậu hiện đại,
những ước mơ ấy đã hoàn toàn bị lãng quên, thậm chí không hề có. Khi đề
cập đến văn học hậu hiện đại, chúng ta phải kể đến những gương mặt nổi tiếng
trên thế giới đã thành công với lối viết này. Barry Lewis, trong Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương đã
thống kê khá đầy đủ các tác giả nổi bật của văn học hậu hiện đại: “Văn chương hư cấu hậu hiện đại là một
hiện tượng mang tính quốc tế, với những đại diện quan trọng từ khắp nơi trên
thế giới: Gunter Grass và Peter Handke (Đức); Geogrges Perec và Monique Wittig
(Pháp); Umberto Eco và Italo Canvino (Italy); Algela Cater và Salman Rushdie
(Anh); Stanislaw Lem(Ba Lan); Milan Kundera(trước kia ở Tiệp); Mario Vargas
Llosa (Peru); Gabriel Garcia Marquez (Colombia); J. M. Coetzee (Nam Phi); Peter
Carey (Úc). Trong đó, tổng số những nhà văn Mỹ có thể được liệt vào đề mục hậu
hiện đại là một con số lớn” [2, 237].
Những tên tuổi được nêu
ở trên là minh chứng thuyết phục về sự ảnh hưởng mạnh mẽ của trào lưu văn học
hậu hiện đại trên toàn thế giới. Một trào lưu văn học mới đã thu được những
thành tựu lớn, do vậy sự ảnh hưởng của nó đến nền văn học Việt Nam là điều
không tránh khỏi. Chưa thể nói rằng trong văn học Việt Nam đã xuất hiện các
trường phái, khuynh hướng hay trào lưu hậu hiện đại như các nền văn học lớn
trên thế giới. Tuy vậy, chúng ta vẫn tìm thấy những dấu hiệu và yếu tố hậu hiện
đại trong sáng tác của một số cây bút tiêu biểu. Khi nhận xét về chủ nghĩa hậu
hiện đại trong văn học nước ta, tác giả Nguyễn Hưng Quốc (nguồn talawas.com)
khẳng định:“Chúng ta có thể xem chủ nghĩa
hậu hiện đại tại Việt Nam là một thứ chủ nghĩa hậu hiện đại nguyên hợp”,
tức là các nhà văn Việt Nam chịu ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác nhau để tạo nên
màu sắc hậu hiện đại.
Như vậy khi bàn về chủ
nghĩa hậu hiện đại và văn học hậu hiện đại ở Việt Nam, mặc dù còn có nhiều ý
kiến tranh luận, song chúng ta có thể nhận định, văn học hậu hiện đại là một
bước phát triển mới của văn học nhân loại. Những phương thức thể hiện có nhiều
sự biến đổi phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật và thị hiếu thưởng
thức nghệ thuật giàu tính trí tuệ của bạn đọc đương đại. Văn học Việt Nam không
nằm ngoài vòng quỹ đạo ấy, mang ít nhiều màu sắc hậu hiện đại là một sự thú vị
và khả thể, đây cũng là một mảnh đất đang tạo ra nguồn cảm hứng lớn để nhiều
người yêu thích khám phá nó.
1.1.2. Quá trình tiếp nhận và quan niệm về văn học hậu hiện đại ở Việt Nam
Cuộc sống luôn vận động và biến đổi
không ngừng. Sau năm 1975, bước ra khỏi những năm tháng chiến tranh gian khổ,
cả dân tộc Việt Nam bước vào guồng quay mới của cuộc sống thời bình. Bước vào
cuộc sống mới, tư duy của con người cũng thay đổi. Cách sống, cách nghĩ không
còn đơn giản và bình dị như trước đây. Cuộc đời vì thế trở nên muôn màu muôn
vẻ. Từ đó đến nay, không thể phủ nhận rằng chính cơ chế kinh tế thị trường đã
góp phần quan trọng làm nên sự khởi sắc của đất nước. Thời kì mở cửa để hội
nhập và phát triển, dân tộc ta đón nhận nhiều tinh hoa văn hóa nhân loại để làm
giàu cho Tổ quốc. Chính môi trường chính trị cởi mở đã tạo điều kiện để Việt
Nam giao lưu, tiếp xúc với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nghệ thuật
hậu hiện đại thể hiện quan điểm mỹ học hậu hiện đại với những đặc điểm như vứt
bỏ tính hàn lâm của các nhà hiện đại, xóa nhòa ranh giới giữa nghệ thuật và đời
sống hằng ngày, bởi sự phát triển mạnh của tính công khai và dân chủ. Phủ nhận
tính nguyên bản của một tác phẩm nghệ thuật và muốn hướng tới tính phổ quát,
đại chúng. Phá bỏ cấu trúc, sự tiếp nhận hay mô tả hiện tượng không cần suy
diễn, không chú ý đến chiều sâu, không diễn dịch bản chất sự vật theo chủ quan
tác giả, giá trị nghệ thuật tùy thuộc vào kinh nghiệm cá nhân của người tiếp
nhận, tùy thuộc vào nền văn hóa mà họ sở thuộc… Trái ngược với chủ nghĩa hiện
đại muốn tạo lập một thế giới hoàn thiện, bất biến, thì chủ nghĩa hậu hiện đại
lại xem thực tại hỗn loạn, phi lí, giễu cợt những điều mang tính toàn trị. Họ
muốn nghệ thuật gắn liền với hoàn cảnh xã hội đặc trưng cụ thể, mang tính thời
sự. Đối thoại với hỗn loạn chính là chiến lược nghệ thuật của hậu hiện đại.
Trong lĩnh vực nghệ thuật, đi tiên phong là các nhà kiến trúc sư. Họ phê bình
lối kiến trúc đơn điệu, thô kệch của các tòa nhà mang nặng tính thực dụng mà
lại bỏ quên tính đa dạng. Do đó họ sẵn sàng cắt đứt với nghệ thuật tiền phong,
chấp nhận thử bất cứ điều gì như sự phi lí, sự hỗn loạn và sự ngớ ngẩn. Cái
phản chất lượng được lên ngôi bởi sự khác thường, sự tự do và sự phá vỡ khuôn
khổ. Sự
xuất hiện của khuynh hướng hậu hiện đại trong văn chương Việt Nam thể hiện
một quy luật bình thường trong giao lưu văn hoá nhưng lại ghi một dấu ấn quan
trọng đối với sự tiến triển của văn chương. Nó chứng tỏ tinh thần hội nhập mạnh
mẽ và thuận chiều của văn chương nước ta với tiến trình văn chương thế giới.
Khuynh hướng hậu hiện đại trên thực tế đã góp phần làm phong phú thêm diện mạo thi
pháp văn học dân tộc, thay đổi tư duy văn học, cách đọc và thị hiếu thẩm mĩ của
công chúng. Thử nghiệm theo khuynh hướng hậu hiện đại đáp ứng được đòi hỏi phát
triển của bản thân văn chương, và trước hết nó giúp cho các nghệ sĩ thoả mãn
nhu cầu với cái mới, cũng là để mở rộng chân trời sáng tạo của mình…
Riêng ở lĩnh vực thơ, những sáng tác theo khuynh hướng hậu hiện đại du nhập vào
nước ta và thực sự nở rộ từ những năm 1980 với những tên tuổi tiêu biểu như:
Nguyễn Quang Thiều, Trương Đăng Dung, Thanh Thảo, Lê Vĩnh Tài, Lê Hữu Khóa, Mai
Văn Phấn, Inrasara,… và sau này là Văn Cầm Hải, Vi Thùy Linh, Trần Tuấn… Sự góp
mặt của đội ngũ này đã mở rộng lãnh thổ thơ ca và đưa đến những cách nhìn mới,
suy nghĩ mới, đánh giá mới trong tiến trình phát triển.
Trước thực tế cuộc sống
mới đầy những đổi thay, văn học tất yếu phải đổi mới để hoàn thành sứ mạng của
mình, đồng thời để đáp ứng những nhu cầu, thị hiếu của một thế hệ độc giả có tư
duy hoàn toàn khác so với trước đây. Nhưng điều đầu tiên là trước những ngổn
ngang, phức tạp của đời sống hiện đại, chắc chắn tâm hồn của mỗi nhà thơ, nhà
văn không khỏi chất chứa những “sóng ngầm”, “bão xoáy”, để rồi họ đưa tất cả
vào thơ ca làm nên một thời kì văn chương không yên tĩnh. Văn chương hậu hiện
đại đã góp phần không nhỏ làm phong phú thêm cách tiếp nhận cuộc sống từ nhiều
chiều. Các nhà văn, nhà thơ tỏ ra năng động, ráo riết và táo bạo trên hành
trình tìm kiếm bản sắc, lối đi trong công cuộc sáng tạo của mình. Do đó, sự
khai sinh của thời đại cộng với khát vọng thay đổi cuộc sống, thay đổi cách tư
duy, cách nghĩ theo tinh thần dân chủ trong sáng tác đã trở thành động lực thúc
đẩy các hoạt động sáng tạo. Đây cũng chính là tiêu đề cho sự đổi mới văn
chương.
Trong quá trình vận động
và phát triển, văn chương Việt Nam đương đại, đặc biệt là các tác phẩm viết
theo tâm thức hậu hiện đại đã dung nạp vào trong nó những kĩ thuật mới. Ở đó,
các yếu tố hậu hiện đại đã được các nhà văn, nhà thơ lựa chọn, tiếp biến ở
nhiều cách thức và mức độ khác như kĩ thuật lạ hóa, bút pháp giễu nhại, nghịch
dị, trò chơi ngôn ngữ, nhằm thể hiện tính chất phức tạp quay cuồng của trật tự
đời sống, qua đó thể hiện sự bế tắc của con người, sự băng hoại đạo đức, sự đau
đáu bơ vơ và bất an của phận người trước thời cuộc.
Chủ nghĩa hậu hiện đại
trong văn chương Việt Nam bắt đầu từ bao giờ? Ai là người tiên phong? Câu hỏi
này cho đến nay vẫn thật khó để tìm được câu trả lời. Tùy thuộc vào quan niệm
của từng nhà nghiên cứu sẽ có những lựa chọn khác nhau. Theo quan điểm của Lê
Huy Bắc: “Tôi thấy Nguyễn Khải là người tiên phong trong lĩnh vực đổi mới văn
xuôi từ hiện đại sang hậu hiện đại. Dễ nhận thấy điều này qua việc ông chuyển
đổi từ cảm hứng sử thi sang cảm hứng đời thường. Song hành với quá trình đó là
việc chuyển đổi vai trung tâm: từ người lính với cảm hứng ngợi ca lãng mạn cách
mạng (Xung đột, 1959 – 1962; Mùa lạc, 1960) sang người thường dân bé
nhỏ với cảm hứng châm biếm mỉa mai, hoài niệm (Gặp gỡ cuối năm, Một người Hà Nội,...). Quá trình chuyển đổi đó
được thể hiện ngay từ chính nhan đề truyện. Năm 2003, Nguyễn Khải đã tiếp cận
hơn chân lí hậu hiện đại qua Thượng đế
thì cười (2003). Tác phẩm tuy về hình thức là tập hồi kí về cuộc đời viết
lách của ông nhưng nó cho thấy cái nhìn của ông chênh chao không còn vững chãi
như xưa nữa” [42]. Lê Huy Bắc cho rằng Nguyễn Khải là người đầu tiên đổi mới
văn học theo hướng hậu hiện đại ở Việt Nam ta. Những tác phẩm của Nguyễn Khải
đã có sự chuyển đổi cảm hứng, nhân vật trung tâm rất rõ rệt theo khuynh hướng
hậu hiện đại, khác với các tác phẩm văn xuôi truyền thống.
Góp phần tạo tiền đề cho
sự đổi mới văn học là các nhà lý luận phê bình, nhà nghiên cứu. Họ là những
người đã có công trong việc tiếp biến “mã hóa” để các trào lưu vào Việt Nam một
cách rộng rãi. Khi mà luồng văn hóa, văn học phương Tây du nhập vào, họ luôn là
người mở ra những chiều hướng cho văn học phát triển. Họ phải tìm những lối
nghiên cứu mới, họ phải là những nhà chuyên môn, chuyên nghiệp chứ không phải
là những người làm công tác tư tưởng, một ca sĩ trong dàn đồng ca. Trong cuộc
hành trình đó, họ đã trang bị cho mình, tìm cho mình một lối đi. Sẽ là không
quá khi nói rằng nếu thiếu đi sự nghiêm túc của các nhà nghiên cứu thì nền văn
học sẽ không phát triển được. Ở Việt Nam, đội ngũ phê bình, lí luận, dịch thuật
còn khiêm tốn, tuy nhiên không vì thế mà làm mất đi tính hiệu quả trong văn
chương nghệ thuật. Các lí thuyết hậu hiện đại thường xuyên được giới thiệu, có
thể kể đến các tác giả như Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Đỗ Đức Hiểu, Trương Đăng
Dung, Đỗ Lai Thúy…đó là những cây bút phê bình lý luận, dịch thuật sắc sảo, đưa
ra ý kiến tạo tiền đề cho sự đổi mới. Họ đã tìm tòi những con đường đi mới,
thoát khỏi những lối mà người trước đã đi. Dấu hiệu này cho thấy nghiên cứu văn
học Việt Nam đang có những dịch chuyển tích cực. Văn chương hậu hiện đại Việt
Nam sẽ ngày càng phát triển hơn nữa, hội nhập với nền văn chương thế giới. Nói
như ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Hồng Dũng thì: “Tìm hiểu hoạt động nghiên
cứu, phê bình hậu hiện đại trong lĩnh vực văn học mới thấy hết được sự gian khó
của cái mới để tồn tại, khi nó phải đối diện với những thái độ ứng xử rất khác
nhau, và không phải bao giờ cũng có sự công tâm và sự khách quan khoa học. Thời
gian là người thầy của các sự kiện, câu trả lời về hậu hiện đại và tất cả những
gì là nội hàm và ngoại diên, tất cả những gì bao bọc lấy khái niệm này sẽ có
câu trả lời ở tương lai, một tương lai gần. Nhưng tất cả chúng ta đều buộc phải
thừa nhận rằng, cả trên thế giới và ở Việt Nam, hậu hiện đại đã đem đến một
nhận thức mới, một luồng sinh khí mới cho đời sống, trong đó có cả cho đời sống
văn hóa, văn học”[45]. Bên cạnh những công trình nghiên cứu sâu về những biểu
hiện cụ thể của văn học hậu hiện đại thì có thể nói bài viết của tác giả Nguyễn
Hồng Dũng là một trong những công trình nghiên cứu tổng hợp khá công phu về
tình hình nghiên cứu - phê bình văn học hậu hiện đại ở Việt Nam hiện nay.
Nếu chủ nghĩa hậu hiện
đại nói chung rất khó xác định phạm vi thì đối với thơ hậu hiện đại càng khó
khăn bội phần, vì nó không những gắn với cá tính và phong cách của từng nhà thơ
mà còn phụ thuộc vào đặc điểm xã hội và truyền thống văn hóa của từng khu vực.
Ranh giới giữa thơ hiện đại và thơ hậu hiện đại là rất khó phân định tuyệt đối.
Theo Phương Lựu “Trước hết đây là loại thơ không mang đến việc kết tinh ý
nghĩa, không hẳn vô nghĩa, nhưng hiểu thế nào thì tùy. Chủ nghĩa hậu hiện đại
phủ nhận bên trong hiện tượng có bản chất, bên cạnh ngẫu nhiên có tất yếu, bên
dưới vô thức có ý thức, bên sau ngôn từ có ngôn ngữ. Chính vì thế cứu cánh của
hành động đan dệt ngôn từ trong sáng tạo thơ không cần thiết mà cũng không thể
kết tinh thành một nội dung, ý nghĩa chủ đạo nào cả” [25; 260]. Nhà nghiên cứu
Phương Lựu đã nói rõ thêm vấn đề sau ngôn từ có ngôn ngữ của văn học hậu hiện
đại. Đây là điều rất quan trọng trong
quá trình sáng tác và tiếp nhận văn học hậu hiện đại. Cùng với sự phát triển
kinh tế - xã hội và sự du nhập của các trào lưu tư tưởng phương Đông, chủ nghĩa
hậu hiện đại đã đi vào và trở thành phong cách sáng tác của một bộ phận lớn các
nhà thơ trẻ ở nước ta. Các nhà thơ đã và đang cố gắng đưa nền thơ ca Việt Nam
thoát khỏi lối mòn cũ để tiến đến một chân trời mới. Trên cái nền chung ấy, thơ
hậu hiện đại đã có một bước phát triển vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng.
Các tác giả không ngừng tìm tòi, thể nghiệm, đổi mới không chỉ nội dung mà cả
hình thức biểu đạt. Thơ hậu hiện đại đã góp phần tạo một nền tảng tương đối
vững chắc để thơ ca tiếp tục phát triển, hội nhập cùng nền thơ ca nhân loại. Có
thể nói ở Việt Nam, Bùi Giáng là nhà thơ đầu tiên sáng tác thơ theo cảm thức
hậu hiện đại, hoặc gần như thế. Sáng tác của Bùi Giáng giai đoạn sau, nhất là
các bài thơ mà tỉ lệ từ Hán Việt lấn át. Có khi những bài thơ của ông chỉ là một chuỗi liên hệ âm, vần,
phép nói lái trong ngôn ngữ nối tiếp hoặc chồng chéo lên nhau, lồng vào nhau
như thể một ma trận chữ vô nghĩa, rồi cả chuỗi hình ảnh, ý nghĩa giẫm đạp lên
nhau, xô đẩy, nhảy cóc rối tù mù. Bởi chưa tiếp cận hệ mĩ học của trào lưu văn
nghệ này nên cả giới sáng tác lẫn phê bình cứ giật mình mỗi khi nhắc đến hậu
hiện đại. Những tác phẩm thơ hậu hiện đại chủ yếu được in photocopy hay được
đăng trên báo điện tử. Nếu như nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 (đặc
biệt là thơ mới và tiểu thuyết) gắn liền với sự ra đời và phát triển của báo
chí tiếng Việt thì thơ hậu hiện đại Việt Nam hình thành và gắn kết chặt chẽ với Website. Trong hành
trình đưa thơ ca Việt thoát khỏi quỹ đạo và biên độ chủ nghĩa hiện đại không
thể không nhắc đến Nguyễn Đăng Thường, Nguyễn Hoàng Nam, Khế Iêm,… Những tác
phẩm của họ tiêu biểu cho phong cách sáng tác theo cảm quan hậu hiện đại. Những
tác phẩm đó mang đậm những dấu ấn của thơ hậu hiện đại như mảnh vỡ, dán ghép,
giễu nhại, giải nhân cách, bùng nổ ngôn từ theo hướng bình dân và suồng sã. Theo ý kiến của Inrasara các nhà thơ hậu
hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự bằng cách hiệu quả nhất là giải thiêng sự
thể. Giải thiêng để có cơ hội nhìn nhận thực tại bằng một cảm thức khác. Mang
tư tưởng tự do, các nhà thơ hậu hiện đại luôn có tiếng nói phản biện xã hội
đương thời, bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại chúng muốn tác động vào xã
hội. Đồng thời, thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng phi tâm hóa, xóa bỏ mọi
sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác. Do vậy, đội ngũ sáng tác thơ hậu hiện đại
lúc này xuất hiện những gương mặt nữ có cá tính riêng như Giáng Vân, Vi Thùy
Linh, Lê Thị Thẩm Vân... Với những hình thức và phương tiện khác nhau, họ sáng
tạo nên các phong cách, các bộ mặt, các
giọng điệu khác nhau. Xu hướng đổi mới thơ triệt để, từ hình thức cho
đến nội dung theo hướng hậu hiện đại, đây là xu hướng hậu hiện đại toàn diện và
“có ý thức”. Có thể kể đến một số cây bút trong xu hướng này như Khế Iêm, Trần
Tuấn, Inrasara, Bùi Chát, Lý Đợi, Phan Bá Thọ, Đặng Thân… đặc biệt là thơ tân
hình thức, thơ văn xuôi, kịch đường phố, thơ trình diễn…Tuy nhiên, những sáng
tác của họ đa phần mới chỉ dừng lại ở mức những thể nghiệm ban đầu và chưa thực
sự dấn thân vì nó. Hàng loạt những cách tân khiến cho bộ mặt thơ hậu hiện đại
nói riêng và nền thơ ca đương đại Việt Nam nói chung càng thêm phong phú. Nhìn
nhận một cách khách quan tinh thần hậu hiện đại trong thơ Việt Nam đã thể hiện
được cảm quan của thời đại với những phương thức biểu hiện đầy mới mẻ. Tuy
nhiên, trong quá trình mải mê đi tìm cái mới, một số cây bút sa đà, nhầm tưởng
hậu hiện đại là phá cách, là khác người nên họ sử dụng từ ngữ tục tĩu, nổi
loạn...mà không chú ý đến truyền thống văn hóa của dân tộc. Việc thúc đẩy tính
hiện đại mới mẻ trong thơ không đơn thuần là chạy theo mốt thời thượng mà người
nghệ sĩ phải biết chọn lọc, thể hiện đúng tinh thần của thời đại. Đảm bảo tính
cá nhân nhưng đồng thời vẫn giữ được bản chất thuần khiết, chức năng thẩm mỹ
của thơ ca.
Mỗi lí thuyết đang trên
hành trình tiếp nhận vào một nền văn hóa, không phải lúc nào cũng có thể khẳng
định được vị trí và chỗ đứng của mình ngay, đặc biệt lý thuyết ấy lại được thơ
vận dụng – một vấn đề khó nắm bắt của thế giới tâm hồn con người. Nếu quá trình
tiếp nhận những trường phái lý luận phương Tây ở Việt Nam như thi pháp học, tu
từ học, chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hình thức Nga…các cách hiểu thường mang
tính bổ sung, làm tiền đề cho nhau thì ở hậu hiện đại, ở mỗi nhà nghiên cứu lại
có những quan điểm trái ngược, thậm chí tranh luận gay gắt. Một số nhà nghiên
cứu có xu hướng tin tưởng vào những thành tựu mà chủ nghĩa hậu hiện đại có thể
mang lại cho nền văn học Việt Nam, tiêu biểu có Nguyễn Hưng Quốc, Inrasara,
Phùng Gia Thế… Các nhà nghiên cứu này đều xem lý thuyết văn học hậu hiện đại
một khi được du nhập vào đời sống văn học nước nhà sẽ tạo ra tiền đề cơ bản,
nhằm đổi mới triệt để nền văn học Việt Nam. Các luận điểm được đưa ra nhằm
chứng minh cho tính khả dụng của văn học Việt Nam bao gồm: Thứ nhất, lý thuyết
hậu hiện đại sẽ giúp cho nền văn học nước nhà bắt kịp và hòa chung với tâm thế
và trình độ của nền văn học thế giới. Thứ hai, văn học hậu hiện đại với tính đả
phá đại tự sự mạnh mẽ, chủ trương không ngừng giải cấu trúc các hiện tượng đã
có, đi kèm với tính chất dung hợp bảo vệ cho các “tiểu tự sự”, cái đối lập, cái
khác, sẽ khiến nền văn học Việt Nam phá bỏ sức ì, phát triển một cách đa màu
sắc hơn, mang tính đối thoại hơn. Ngược lại, những nhà nghiên cứu có quan điểm
xem lý thuyết hậu hiện đại sẽ mang lại nhiều tác hại hoặc không có lợi gì đáng
kể cho nền văn hóa, văn học nước nhà như Đỗ Minh Tuấn, Bùi Công Thuấn… Họ xem
chủ nghĩa hậu hiện đại là một “yêu nữ”, “bóng ma chập chờn”, “một con ma hậu
hiện đại” [21]. Với các nghiên cứu này, chủ nghĩa hậu hiện đại đã du nhập vào
Việt Nam dưới những mặt trái và tiêu cực, làm biến đổi các giá trị văn hóa,
hoặc đã có những âm mưu sử dụng thuật ngữ hậu hiện đại để gán cho những sự kiện
văn hóa suy đồi.
Không thể phủ nhận rằng,
những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, hậu hiện đại là một trong những
tiêu ngữ mang lại nhiều nguồn cảm hứng và sự quan tâm nhất của cả giới sáng tác
và nghiên cứu - phê bình văn học ở Việt Nam. Dù muốn hay không, nền văn học
Việt Nam vẫn không thể chối từ cái khí quyển chung của thời đại, chính vì vậy,
tuy còn nhiều bất cập, nhưng hậu hiện đại vẫn là giai đoạn phát triển mang tính
tất yếu trong văn học nước nhà. Từ sự nhận thức đó, thơ Việt Nam trên hành
trình dấn bước theo con đường hậu hiện đại, còn vấp phải nhiều chông gai. Đó là
ý thức giữa việc bảo tồn bản sắc hay lai căng mất gốc, đổi mới triệt để hay kế
thừa cơ bản. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào người sáng tác, sự tương tác của
độc giả và cả giới phê bình nghiên cứu.
1.2. Thơ Mai Văn Phấn trong quá trình đổi mới thơ Việt Nam sau 1986
1.2.1. Những đổi mới của thơ Việt Nam sau 1986
Giai đoạn từ năm 1986 đến nay ghi nhận sự
chuyển mình mạnh mẽ của thơ ca từ nội dung đến hình thức. Các nhà thơ đã và
đang cố gắng đưa nền thơ ca Việt Nam thoát khỏi lối mòn để đi vào một chân trời
mới. Trên cái nền chung ấy, thơ ca đã có bước phát triển vượt bậc cả về số
lượng và chất lượng, đóng góp một phần không nhỏ vào việc đưa văn chương Việt
Nam hội nhập cùng nền văn chương nhân loại. Trong Mấy ý nghĩ về thơ, Nguyễn Đình Thi đã nhận định “Thơ là tiếng nói
đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống. Tóe lên ở
nơi giao nhau giữa tâm hồn và ngoại vật, trước hết là những cảm xúc” [67]. Hiện thực và tư duy cuộc sống thay
đổi thơ ca cũng phải tìm được hướng đi mới cho mình thì mới có thể tiếp tục tồn
tại và phát triển. Từ sau 1986, thơ ca tìm về với cuộc sống đời thường, khai
thác những đề tài gần gũi nhất trong xã hội và trong tâm hồn cá nhân con người.
Thơ ca suốt chặng đường từ đó đến nay phát triển cùng “ý thức cởi trói” “để xác
lập một quan niệm mới về nghệ thuật”. Có thể nhìn nhận thơ ca giai đoạn này như
ý kiến của nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp: “Ý thức nhìn nhận cuộc đời bằng cái
nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn không ngừng về đời
sống” [8; 31]. Các nhà thơ đang “nỗ lực khám phá sự phong phú của “cái tôi ẩn
dấu” dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá
ổn định để đi tìm những giá trị mới” [8; 31]. Thơ ca đưa cái tôi trở về sau
nhiều năm hòa nhập cùng cái ta cộng đồng do điều kiện khách quan của lịch sử.
Cùng với sự trở lại ý thức cá nhân là cái nhìn đa chiều về cuộc sống, về những
gì vốn đã quá ổn định xưa nay. Mặc dù chiến tranh trôi qua chưa lâu nhưng nếu
đặt nó trong tương quan với lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc dễ nhận thấy một
thực tế: các nhà văn đã có một độ lùi cần thiết đề nhìn về cuộc chiến bằng cái
nhìn toàn diện, sâu sắc hơn. Trước đây hiện thực hiện lên trong tác phẩm thường
là hiện thực “nhìn thấy” thì nay chiến tranh chủ yếu hiện lên trong kí ức. Cùng
với công cuộc đổi mới năm 1986, tư duy cuộc sống thay đổi mở ra một chân trời
mới cho thơ ca. Không còn bị gò ép, chi phối về mặt tư tưởng, các nhà thơ bây
giờ không còn muốn đứng mãi trong dàn đồng ca đơn điệu, họ muốn được nói lên
tiếng nói của chính mình, sống thật với từng rung động của con tim.
Năm 2002 cùng với sự ra
đời của hàng loạt website văn học tiếng Việt, văn học hậu hiện đại có bước phát
triển đột phá, đặc biệt trong lĩnh vực thơ. Internet và các loại hình thông tin
bùng nổ tạo điều kiện thuận lợi để các nhà văn, nhà thơ trẻ có cơ hội tiếp cận
với mọi trào lưu văn học trên thế giới và văn học hậu hiện đại cũng không ngoại
lệ. Theo Inrasa, nhà thơ hậu hiện đại chối bỏ mọi dạng đại tự sự bằng cách hiệu
quả nhất là giải thiêng sự thể. Mang tư tưởng tự do, nhà thơ hậu hiện đại luôn
có tiếng nói phản biện xã hội đương thời, bóc trần sự mê hoặc mà thông tin đại
chúng muốn tác động vào xã hội. Đồng thời thơ hậu hiện đại tự thân mang ý hướng
phi tâm hóa, xóa bỏ mọi sự phân biệt trong đội ngũ sáng tác.Trước đây, các nhà
thơ dường như ngại đề cập đến những mặt trái của cuộc sống thì đến thời kì này
thơ nhìn thẳng vào cuộc đời bằng những cái nhìn không giấu diếm, quanh co. Và
cũng đến giai đoạn này, xu hướng văn học hiện đại, văn học hậu hiện đại phát
triển mạnh mẽ. Từ cái nhìn hiện đại, hậu hiện đại, thơ Việt đã đặt các nhà thơ
trước một thực tế: nếu quay lại với cách cảm cũ, cách nói cũ thì có nghĩa là
anh ta đã chấp nhận hậu quả “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuy nhiên trong quá
trình chạy theo hướng hiện đại này đã có rất nhiều cây bút nhầm tưởng. Họ cứ
nghĩ đổi mới theo hướng hiện đại, hậu hiện đại là phải dùng những từ ngữ tục
tĩu hay dùng những từ ngữ thời thượng, nổi loạn… Tuy nhiên thực tế không phải
như vậy. Cái quan trọng nhất là các tác phẩm phải thể hiện được chân dung tinh
thần của thời đại hậu chủ nghĩa cũng như tâm thức của con người trong xã hội
hiện nay. Điều đó đòi hỏi họ phải tìm ra một hình thức tổ chức diễn ngôn mới,
cách tạo âm và tạo nghĩa mới. Việc thúc đẩy tính hiện đại trong thơ không phải
là chạy theo những thời thượng nghệ thuật mà quan trọng hơn nhà thơ phải thể
hiện được tinh thần hiện đại trong tác phẩm của mình. Trong nghệ thuật hiện đại
và nhất là hậu hiện đại con người có ý thức nêu lên quan điểm cá nhân và chống
lại những quan điểm mang tính toàn trị. Dù đổi mới thế nào đi chăng nữa thì thơ
ca vẫn phải là tiếng nói hồn nhiên nhất, nguyên sơ nhất và giàu tính nhân bản
nhất của con người về cuộc sống, vì sự cao đẹp của con người.
Trong một thế giới toàn
cầu hóa như hiện nay, người nghệ sĩ sẽ có cơ hội lựa chọn nhiều cách để trình
bày tư tưởng của mình. Từ đội ngũ sáng tác mới, nền văn học nước nhà có cơ hội
quảng bá văn chương Việt ra nước ngoài. Vấn đề này có ý nghĩa hết sức quan
trọng bởi nó không chỉ tác động đến cách thế giới nhìn nhận bản sắc văn hoá
Việt ra sao mà còn khơi dậy niềm tự hào về thành tựu văn học của dân tộc. Nó
gián tiếp thúc đẩy kinh tế mạnh mẽ trong lĩnh vực du lịch - ngành được mệnh
danh là “ngành công nghiệp không khói”. Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới
đã khai thác hiệu quả những thành tựu văn chương trong quảng bá đất nước, con
người để thu hút khách du lịch, thậm chí là thu hút cả những nhà đầu tư nước
ngoài. Điều đáng mừng là, trong công cuộc đổi mới này, tuy chúng ta đang đi sau
thời đại nhưng không phải là một khoảng cách quá xa. Một phần lớn lợi thế đó là
nhờ công lao tiếp nhận lý thuyết hậu hiện đại vào Việt Nam khá hiệu quả. Thách
thức vẫn còn ở phía trước, bởi công cuộc hiện đại hóa lần thứ nhất đã để lại
quá nhiều thành tựu (thơ Mới, văn xuôi lãng mạn, văn xuôi hiện thực…). Thế nên,
công cuộc đổi mới thời nay cần cố gắng rất nhiều để hoàn thiện nền văn chương
dân tộc. Đúng như nhận định của Inrasara: “Nếu không tiếp nhận ngay từ hôm nay,
tôi e rằng chúng ta tiếp tục chương trình làm kẻ trễ tàu thời đại” [49]. Mặc dù
mang lại nhiều thành tựu, nhưng các tác phẩm thuộc xu hướng này mới chỉ dừng
lại ở dạng mang “yếu tố”, “dấu ấn” hậu hiện đại, chứ chưa thể hoàn toàn xem đó
là các sáng tác mang đầy đủ diện mạo và bản chất của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Cũng chính bởi lý do này, nên mới có sự tranh luận, nghi ngờ diễn ra thường
xuyên ở những năm qua trong giới phê bình, nghiên cứu văn học Việt Nam về việc
phân định và xác định các tác phẩm, tác giả hậu hiện đại. Trong chỉ hơn ba mươi
năm, vừa tiến hành tiếp thu lý thuyết, vừa triển khai ứng dụng vào sáng tác,
lại phải vừa tiến hành việc tiếp thu và ứng dụng nhiều hệ hình lý thuyết văn
học khác, có thể nói văn học theo xu hướng hậu hiện đại Việt Nam đã có những
thành tựu nổi bật, không thể không tính đến trong phê bình nghiên cứu văn học.
Mặc dù vẫn còn nhiều tiếng nói e ngại, nhiều cái nhìn phiến diện, những sự rụt
rè và hoài nghi về hệ hình lí thuyết văn học này nhưng không thể phủ nhận rằng,
những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, hậu hiện đại là một trong những
tiêu ngữ mang lại nhiều nguồn cảm hứng và sự quan tâm nhất của cả giới sáng tác
và nghiên cứu - phê bình văn học ở Việt Nam. Dù muốn hay không, nền văn học
Việt Nam vẫn không thể chối từ cái khí quyển chung của thời đại. Chính vì vậy,
tuy còn nhiều bất cập, nhưng hậu hiện đại vẫn là giai đoạn phát triển mang tính
tất yếu trong văn học nước nhà. Từ sự nhận thức đó, thơ Việt Nam trên hành
trình dấn bước theo con đường hậu hiện đại còn vấp phải nhiều chông gai. Đó là
ý thức giữa việc bảo tồn bản sắc hay lai căng mất gốc, đổi mới triệt để hay kế
thừa cơ bản. Vấn đề này phụ thuộc rất lớn vào người sáng tác, sự tương tác của
độc giả và cả giới phê bình nghiên cứu. Trong thời gian hơn ba mươi năm qua đã
tạo được một nền tảng tương đối vững chắc để thơ ca Việt tiếp tục phát triển,
hội nhập cùng nền thơ ca hậu hiện đại thế giới.
1.2.2. Thơ Mai Văn Phấn - nỗ lực cách tân theo hướng hậu hiện đại
Mai Văn Phấn được xem là một trong những gương mặt cách tân nổi bật
của thơ Việt Nam đương đại. Thơ ông đã tạo được những dấu ấn rất riêng
trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của thơ ca nói chung với tư cách “một nhà
thơ rất chuyên nghiệp, chuyên sâu và nhiều ý tưởng mới” [38; 278]. Trong thơ của Mai Văn Phấn, mỗi một thi phẩm
là “một thể nghiệm để có được một phát hiện mới, một ghi nhận mới về sự cách
tân” [38; 284]. Mai Văn Phấn luôn coi quá trình sáng tạo nghệ thuật là một cuộc
“vong thân”, một cuộc vượt thoát chính bản thân mình. Mỗi nhà thơ phải biết tự
phủ định mình, tức là phải coi cái mà mình vừa viết ra là cái đã cũ thì mới
mong đạt đến thành công đỉnh cao trong nghệ thuật. Ông cho rằng, bài thơ mà nhà
thơ viết ra không còn thuộc về anh ta nữa mà thuộc về độc giả. Và nhà thơ muốn
tiếp tục tồn tại phải được tái sinh trong một bài thơ khác đang chờ đợi phía
chân trời: "Tôi quan niệm tác phẩm sau khi được công bố tồn tại độc lập
với người làm ra nó (...). Tôi không có thói quen chiêm bái những con đường cũ
của mình, không “quay vái lậy chiếc áo vừa treo lên giá" [38; 368]. Không chỉ dừng lại ở đó,
Mai Văn Phấn còn xem vấn đề cách tân là vấn đề trung tâm trong quan niệm thơ
của mình. Ông dùng từ “vong thân” để nói đến quá trình vượt thoát khỏi cá tính
của người nghệ sĩ. Mai Văn Phấn cho rằng: “Thật kinh hãi khi phải ngắm nhìn một
nghệ sỹ cứ đứng mãi một chỗ mà biểu diễn quá nhiều lần một tiết mục tới gần như
vô cảm, nói cách khác là thương hại những ai thâm canh triền miên trên mảnh đất
đã cằn cỗi” [38; 399]. Mà quá trình “vong thân” thường đồng hành với quá trình
đổi mới thi pháp. Với Mai Văn Phấn: “Đổi mới thi pháp trước hết là từ chối ve
vuốt những sở thích của người đọc, nhằm tạo những sóng từ khác, những mã số
khác trong không gian thơ vừa được khám phá. Lý tưởng thi ca của sự cách tân
nhằm gọi đúng bản chất của sự vật trong nhịp điệu đời sống hiện đại”[38; 378]. Nói thì dễ mà làm mới khó. Ai đã từng làm thơ đều biết rằng, đổi mới thi
pháp luôn là con đường đầy khó khăn và hiểm trở. Nó đòi hỏi ở người làm thơ một
bản lĩnh, một nghị lực, một sự quyết tâm cao độ và hơn thế là một tài năng thực
sự. Nhưng điều đáng trân trọng ở Mai Văn Phấn là lời nói luôn song hành cùng
hành động. Hơn ai hết, là một con chiên của Chúa, Mai Văn Phấn hiểu rằng: “Đức
tin không có việc làm là đức tin chết” (Thánh Gia-cô-bê). Vì thế, trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Mai Văn
Phấn luôn tâm niệm: “Các khuynh hướng sáng tác đều rất cần và làm phong phú
thêm cho nền thi ca của chúng ta. Hiện chúng ta vẫn còn hồ nghi vì còn quá ít
tài năng cho những “thể nghiệm” được thuyết phục” [48; 439]. Bàn về vấn đề đổi
mới thi pháp, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến đã mạnh dạn khẳng định: “Nếu có nhà thơ
nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ
trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ
trữ - tình – cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại, rồi từ
đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân” [22; 420].
Quả đúng như vậy, sau năm 1986, tư duy nhận
thức của con người về cuộc sống thay đổi, đòi hỏi kéo theo đó là sự đổi mới văn
chương để bắt kịp xu thế thời đại. Mai Văn Phấn đã nỗ lực hết mình đưa thơ Việt
hòa nhập với nền văn chương thế giới. Những tập thơ của ông ngày càng có sự
cách tân mãnh liệt, bỏ qua hơi hướng thi pháp truyền thống và đến gần hơn với
văn chương hậu hiện đại. Và những thành tựu ông mang lại là không nhỏ. Nhìn lại
chặng đường sáng tác của ông, ta thấy rõ cả một quá trình vận động mạnh mẽ,
quyết liệt, đổi mới cả về nội dung và hình thức thể hiện. Nỗ lực thay đổi liên tục lối thể hiện như thế – từ Giọt
nắng (1992), Gọi
xanh, Cầu nguyện ban mai, Nghi lễ nhận tên, trường ca Người cùng thời cho đến những tập thơ mới nhất: Lặng
yên cho nước chảy, Tĩnh lặng, Thời tái chế (2018) và cả hàng trăm bài thơ lẻ đăng
trên Website các nơi, mỗi tập thơ, mỗi giai đoạn là một tìm tòi phong cách độc
đáo hơn, mới và khác hơn.
Sự cách tân trong thơ
Mai Văn Phấn biểu hiện qua hệ thống ngôn ngữ đa dạng kết hợp một cách linh động
với nhiều biện pháp tu từ để tạo nên sự lạ hóa mang hiệu ứng thẩm mĩ cao. Sự
phá cách nhưng vẫn lấy nền tảng tư tưởng cổ điển làm nòng cốt đã tạo cho ông có
một phong cách độc đáo riêng biệt. Nhiều bài thơ, tập thơ của ông đã được giới
phê bình nước ngoài đánh giá cao. Mai Văn Phấn đã xuất bản 16 tập thơ và một
công trình phê bình - tiểu luận trong nước; 15 tập thơ xuất bản ở nước ngoài.
Thơ ông đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng (tính đến tháng 10/2019 và vẫn còn
tiếp tục được dịch ở một số thứ tiếng khác nữa); xuất hiện trong hơn 50 tuyển
tập thơ và tạp chí quốc tế: tập thơ tiếng Thụy Điển Igar - Tolv vietnamesiska
poeter (Cho ngày hôm qua - Mười hai nhà thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Tranan,
2009), do Erik Bergqvist chuyển ngữ; Tạp chí Poetry NZ 36 (New Zealand) 5 & 6 (Anh); Tạp chí Poesy 33, Fulcrum 3, Nhà văn Viết tập 6, 7
& 8, Wordbridge (Hoa Kỳ); Tạp chí Thơ
và Bình luận (Hàn Quốc); Tạp chí Hạt
nhân Softblow (Singapore), Báo Văn
học (Indonesia)…Thành công trong sáng tác của Mai Văn Phấn đã được ghi
nhận bằng hàng loạt các giải thưởng uy tín như: Giải thưởng Cuộc thi
thơ tuần báo Người Hà Nội năm 1994, Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo
Văn nghệ năm 1995, chuỗi giải thưởng Văn học Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải
Phòng) trong các năm 1991, 1993, 1994, 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn
Việt Nam dành cho tập thơ Bầu trời không mái che năm
2010; Giải thưởng văn học Cikada của Thụy Điển trao năm 2017 (Giải Cikada được
sáng lập năm 2004 và được trao cho các nhà thơ Đông Á, nơi "cảm quan thơ
ca của họ chỉ ra tính bất khả xâm phạm của đời sống) và mới đây nhất là giải
thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia Cộng hòa Serbia được
trao năm 2019. Mỗi tập thơ là sự bứt phá, đổi mới khỏi chính mình của tác
giả để thực hiện sứ mệnh cách tân thơ Việt theo hướng đi tìm một diện mạo
riêng cho thơ dân tộc, làm giàu thêm truyền thống thơ dân tộc. Tài năng và
nghị lực là yếu tố cơ bản giúp Mai Văn Phấn khẳng định được vị trí của mình.
Thơ cách tân theo hướng hậu hiện đại của ông mềm mại uyển chuyển, là sự thăng
hoa về mặt cảm xúc và ngôn từ được mã hóa bằng trí tuệ của một con người từng
trải. Ông đã vẽ nên một màu sắc riêng, mới và lạ, hòa chung trong dòng chảy của
nền thơ ca đương đại Việt Nam. Để thể hiện được nhiều cung bậc tình cảm, suy tư
trước đời sống nhân sinh, thế sự, Mai Văn Phấn
đã sử dụng rất linh hoạt các thể thơ, trong đó thành công nhất là thể
thơ tự do. Thơ tự do của Mai Văn Phấn là sự kết hợp giữa thơ không vần và thơ
văn xuôi đã làm nên một giọng điệu riêng biệt và mới lạ. Ở đó người viết
đã bỏ qua hết những vần điệu để tìm về với sự tự do trong cảm hứng, những
câu thơ thực sự thoát khỏi mọi sự ràng buộc để có thể chuyển tải tốt
nhất cảm xúc của nhà thơ, sự đa dạng, phức tạp của đời sống. Mai Văn Phấn
dụng công tìm kiếm khả năng thể hiện ý tưởng bằng nhiều cấu trúc câu thơ
dài ngắn khác nhau. Có lúc câu thơ được dồn nén, cô đặc có lúc lại chảy
tràn bung phá. Cảm xúc dạt dào của thi sĩ đã vượt qua mọi luật lệ khuôn khổ
của thơ truyền thống. Sự gián đoạn trong cấu trúc câu thơ, bài thơ cũng là
một đặc điểm khác biệt của thơ anh so với thơ truyền thống. Sự gián đoạn
đó được hình thành trên sự đồng hiện, phân mảnh hoặc lắp ghép hình ảnh
khiến cho câu thơ mất đi quan hệ nhân - quả theo chiều tuyến tính. Phương
thức này giúp gia tăng độ căng của cảm xúc. Sự cách tân trong hệ thống cấu
trúc hình ảnh, biểu tượng và ngôn ngữ trong thơ Mai Văn Phấn cũng rất đáng
chú ý. Trong thơ ông, hình ảnh được sử dụng với cường độ cao, câu thơ chất
chồng những hình ảnh, nhưng đó thường là những hình ảnh vừa mang tính hiện
đại vừa mang âm hưởng bản sắc riêng của dân tộc bình dị, gần gũi. Trong thơ
Mai Văn Phấn, biểu tượng gần gũi, hài hòa với thiên nhiên, đời sống con
người. Với những tìm tòi và cách tân về cấu trúc thơ, hình ảnh, biểu tượng,
ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ, Mai Văn Phấn đã cho thấy một diện mạo thơ
mới có thể chuyển tải được những bộn bề, phức tạp của cuộc sống và tâm trạng,
với nhiều cung bậc tình cảm của cái tôi luôn mang nặng ý thức trách nhiệm với
con người và cuộc sống. Mai Văn Phấn là một trong rất ít nhà thơ tiêu biểu nhất
của thơ hậu hiện đại Việt Nam góp phần đưa thơ hậu hiện đại Việt Nam hội nhập
với nền văn chương nhân loại.
*
* *
Hậu hiện đại không phải
là chủ nghĩa nghệ thuật thuần tuý, mà là trào lưu văn hoá mang tính toàn cầu,
tác động rộng lớn đến nhiều mặt trong đời sống văn hoá xã hội của nhiều quốc
gia. Văn học hậu hiện đại vì thế cũng mang tính phổ quát. Người sáng tác văn
chương hậu hiện đại phải mang đầy đủ cảm thức hậu hiện đại, với những phương
thức thể hiện mới. Để thể hiện thành công một tác phẩm hậu hiện đại không hề
đơn giản. Các nhà thơ Việt Nam thời kì đổi mới trong những năm gần đây đã vận
dụng các thủ pháp hậu hiện đại một cách sáng tạo. Nhìn chung sự cách tân đã có
thu nạp những yếu tố của hậu hiện để tạo nên bức tranh thơ đa dạng hơn. Trong
hành trình sáng tạo, Mai Văn Phấn đã góp phần cùng các nhà văn, nhà thơ khác
đưa văn chương nước ta hội nhập với văn chương nhân loại.
CHƯƠNG 2
DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
NHÌN TỪ CẢM QUAN VỀ HIỆN THỰC ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI
Văn học nghệ thuật là
một phạm trù thuộc ý thức xã hội, là sự đánh giá chủ quan về thế giới khách
quan của nhà văn. Xã hội Việt Nam sau “đổi mới”
vừa là cơ hội vừa là thử thách đối với mỗi nghệ sĩ. Nhiều nhà văn, nhà thơ phản
ánh hiện thực theo những quan
điểm và những cách nhìn hoàn toàn mới, trong đó có cảm quan hậu hiện đại. Cảm quan hậu hiện đại là phạm trù then chốt
của hậu hiện đại. Vậy, cái gì là “cảm quan hậu hiện đại”? Con người hậu hiện
đại nhận thấy sự đổ vỡ của những trật tự đời sống, sự thay đổi các thang bậc
giá trị, sự hoài nghi về một mẫu hình thế giới lý tưởng và chân lý, sự vong
thân của con người trước ngưỡng cửa bất an của xã hội hậu hiện đại. Kéo theo đó
là sự mất niềm tin vào sự áp đặt của cái chính thống, con người rơi vào tâm
trạng cô đơn, lạc loài... Đấy là tinh thần chung nhất. Còn sự thể hiện chúng
trong văn chương lại khá đa dạng, phức tạp. Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai
Văn Phấn thể hiện trước hết, rõ nhất là từ cảm quan hiện thực đời sống, con
người.
2.1. Cảm quan về cuộc sống trong thơ Mai Văn Phấn
Nếu như chủ nghĩa hiện
thực cổ điển khát khao mãnh liệt một trật tự đời sống mới (cái cần phải có) để
thay thế cho cái hiện tồn, chủ nghĩa hiện đại muốn tạo ra trật tự từ việc điều
chỉnh cái hỗn độn của đời sống thì ở chủ nghĩa hậu hiện đại cảm quan phổ biến
của nhà văn là: không còn tin vào cái gì tốt đẹp, nền tảng, không tin vào cái
lí tưởng ở cả ba thì: quá khứ, hiện tại và tương lai. Đành rằng trong sâu thẳm,
người nghệ sĩ chân chính không bao giờ hết ước mơ. Nhưng cũng phải thừa nhận
tinh thần hoài nghi, hư vô chủ nghĩa ở đây là có thật. Nhà văn dường như chỉ
còn lại niềm tin sau cùng: tin rằng cuộc đời vốn không thể khác.
Cảm quan hậu hiện đại,
xét ở phương diện chung nhất là như thế. Còn trong thực tiễn sáng tác của mỗi
nghệ sĩ, sự biểu hiện cảm quan này lại có những nét đặc thù. Cảm quan hậu hiện
đại trong thơ không chỉ thể hiện ở chỗ nhà văn tái hiện sự hỗn loạn của đời
sống, mà quan trọng hơn, chính là một nguyên tắc nhìn đời sống của nhà thơ: đời
sống như là một sự hỗn độn, không còn tiêu chuẩn giá trị và định hướng có ý
nghĩa nào. Nhà văn xem bản chất thế giới là hỗn mang, anh ta chấp nhận sự hỗn
độn như là một sự kiện…Và theo đây, sự dịch chuyển về tâm thức hậu hiện đại
trong văn chương của ta còn thể hiện ở chỗ: trước cái hỗn loạn, đổ vỡ, tai biến
của hiện thực, thay vì “khóc than”, “đề kháng”, hay “nỗ lực chữa trị”, nhà văn
lại “xâm nhập vào nó bằng một tình cảm mật thiết”, thậm chí, anh ta còn “chơi
cùng cái hỗn loạn”…
2.1.1. Hiện thực thế giới đa chiều
Chủ nghĩa
hậu hiện đại là sự khước từ các đại tự sự, những chủ thuyết lớn nhằm muốn thiết
lập một trật tự xã hội ổn định của thời hiện đại. Nhiều phát biểu của các nhà
lý luận hậu hiện đại nhấn mạnh tính “chống lại quyền uy”. Chủ trương “bất tín
nhận thức” và “giải trung tâm hóa” tất cả. Thực tiễn đời sống là chất liệu, là nguồn cảm hứng
để người nghệ sĩ phản ánh vào tác phẩm với cảm xúc chủ quan của mình. Trước
hiện thực đời sống mới, Mai Văn Phấn là nhà thơ đã có những cảm quan mới về thế
giới. Biểu hiện trong thơ ông mang một cảm thức sáng tác mới (cảm quan hậu hiện
đại) phản ánh hiện thực cuộc sống đa chiều, trên bình diện chiều rộng lẫn chiều
sâu.
Với
nhà thơ Mai Văn Phấn, tình yêu quê hương đất nước luôn ấp ủ trong tim và nó đã
phát triển thành niềm tự hào, lòng biết ơn sâu sắc. Đất nước tươi đẹp hôm nay
không thể nào có được nếu không nhờ máu xương của các vị anh hùng dân tộc đã
anh dũng ngã xuống. Họ lên đường ra trận khi đang độ xuân xanh, có những người
mãi mãi nằm xuống khi đang còn son trẻ, máu của họ đổ xuống để đất nước được nở
hoa. Chúng ta - thế hệ hôm nay không thể nào làm ngơ trước sự hi sinh cao cả
đó. Tên tuổi của họ phải được lưu danh sử sách, phải được con cháu đời đời ca
tụng:
Tháng ngày gương lược về đâu
Chân trời để xõa một màu cỏ non
…
Nhang này quặn nỗi đau xưa
Tôi nay tôi của cơn mưa về nguồn.
(Mười nén nhang ở ngã ba
Đồng Lộc)
Bài thơ đã lột tả tận
cùng tâm trạng Mai Văn Phấn khi đứng trước những ngôi mộ mười cô gái thanh niên
xung phong hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc trong thời kỳ ác liệt nhất của cuộc chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Đấy là một tâm trạng hàm ơn, da diết nhớ
thương và thấu hiểu tận cùng sự hy sinh của mười cô gái ở ngã ba Đồng Lộc cũng
như bao người con yêu khác đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc để
đem lại sự sống vĩnh hằng cho Tổ quốc chúng ta. Đứng trước ngôi mộ mười nữ
thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ da diết nhớ thương, bồi hồi
xúc động khi mường tượng tới những vật dụng của họ. Gương lược, bồ kết, khăn
thêu của các cô như vẫn còn kia, in đậm “dấu tay gầy”. Những vật dụng ấy không
còn tĩnh mà trở nên thiêng liêng và sinh động vô cùng trong sự mường tượng của
nhà thơ, khi nhìn “gương lược” nhà thơ như thấy cả mái tóc xanh rờn “xõa” vào
nền trời thành “màu cỏ non”; hay khi nhìn tấm khăn in dấu tay thêu của người
con gái, nhà thơ như thấy ở đó là cả một trời mây bay. Mây bay trắng trời hay
là vành khăn tang của nhân dân, của trời đất tưởng nhớ khôn nguôi những người
con đã ngã xuống vì nền độc lập, tự do của dân tộc. Thơ kiệm lời mà giàu sự gợi
mở, liên tưởng. Chỉ giây phút ngắn ngủi mà nhà thơ như gặp lại chính người thân
của mình đang nằm lại nơi đây, qua tiếng gọi gần gũi, thân tình: “Người ơi, tôi
lại gặp người”. Dường như khi sắp phải rời ngã ba này, nhà thơ ra về
trong tâm trạng bâng khuâng không thể kìm nén khi cắm những nén nhang lên từng
phần mộ trong nghĩa trang. Truyền thống quý báu “ăn quả nhớ người trồng cây”
của dân tộc đã được nhà thơ diễn đạt qua hình ảnh “cơn mưa về nguồn”. Đấy cũng
là nét đặc trưng thơ Mai Văn Phấn gắn chặt truyền thống với hiện đại.
Trong thơ Mai Văn Phấn,
những nỗi hoài nghi đã xuất hiện bên cạnh niềm tin cuộc sống. Những vấn đề của
đời sống con người thời đại và cả những vấn đề nhân loại cũng đã được đặt ra
bên cạnh tình yêu quê hương đất nước. Mạch cảm xúc trong thơ Mai Văn Phấn hướng
về đời thường, những chuyện bây giờ mới kể bởi trước đây không được kể, không
nên kể trong thơ, những chuyện tầm phào như: gieo giống, mắc võng, cỏ, cây… Đằng
sau những câu chuyện ngỡ như phiếm ấy là những suy tư chiêm nghiệm của nhà thơ
về thân phận con người và cuộc sống. Thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, xã
hội và nhân sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá. Vậy nhưng nhà thơ lại đang phải
chứng kiến cuộc sống gắn bó với mình là sự lạc hậu, chậm tiến quá so với thế
giới bên ngoài. Người người, nhà nhà e dè trước sự đô thị hóa, trước sự phát
triển đi lên của xã hội:
Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy bóng râm từ bùn đất
Đất ở dưới chân mà cao hơn những suy nghĩ của mình
Đêm thai nghén những thị thành trứng nước
Ai ấy còn ngơ ngác trước văn minh.
Trong bóng tối lùm cây tôi chợt nhận ra mình
Với nỗi e dè từ cái thời Văn Lang lúa nước
Nỗi e dè tự thắp mình thành ngọn nến mùa thu đi
rước đuốc
Và ngôi nhà của mẹ là chiếc đèn lồng lặng lẽ sáng
dần lên.
(Nhật kí đô thị hóa)
Mai Văn Phấn buồn vì sự
lạc hậu của làng quê xứ sở trước sự tiến bộ của văn minh nhân loại. Ông đã nhìn
thấy những ánh sáng bắt đầu lóe lên, rồi đây mảnh đất quê hương, đất nước ông
cũng sẽ văn minh như thế. Giọng thơ của ông mang một niềm tin mãnh liệt. Những
đô thị rồi sẽ mọc lên từ nơi đây, giờ đây đang là quá trình thai nghén. Chỉ cần
con người dẹp bỏ đi sự e dè từ thời xa xưa thì nền văn minh sẽ nhanh chóng chạm
ngay đến đích.
Mỗi bài thơ của Mai Văn
Phấn là những câu chuyện thơ về cuộc sống như những tiểu tự sự. Đó là một câu
chuyện đời thường, kể về một cuộc đời, một con người, một sự việc:
Xuống núi gánh nước tưới
cây
Về đến sân chùa
Trời đổ mưa
(Chú tiểu chùa nghèo)
Bài thơ kể về hình ảnh chú tiểu ở một ngôi chùa nghèo trên núi. Một ngày,
chú tiểu quang gánh xuống núi gánh nước về tưới cây vì lâu ngày không có mưa sợ
cây cối khô héo. Trớ trêu thay khi chú
tiểu vừa về đến sân chùa cũng là lúc trời đổ cơn mưa. Bài thơ phát ra tiếng
cười, nhưng đó không phải là tiếng cười châm biếm, giễu nhại mà là tiếng cười
chua xót cho những điều trớ trêu trong cuộc sống. Cuộc sống không phải bao giờ
cũng màu hồng, thuận theo những gì mình mong muốn mà nhiều khi đi ngược lại.
Chúng ta phải biết vui vẻ chấp nhận, đương đầu với những khó khăn trong cuộc
sống một cách lạc quan:
Vũng nước nhỏ dưới chân núi
Soi
Tận đỉnh.
(Cái nhìn)
Bài thơ ngắn gọn, chỉ
vẻn vẹn có ba câu nhưng mang diễn đạt ý nghĩa trọn vẹn, sâu sắc. Câu thơ thứ
nhất đã có ý ngầm hướng người đọc suy nghĩ tới hình ảnh vũng nước nhỏ đó ở một
vị trí nghệ thuật "dưới chân núi" đã tạo nên hai hình ảnh tương phản
cả về vị trí không gian và hình khối không gian. Đến câu thứ hai thu gọn chỉ
trong một động từ "soi" đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều hàm ý. Vũng
nước trở thành tâm điểm tập trung mọi ngầm ý. Tuy nó nhỏ bé nhưng vì là nước mà
lại rất trong nên nó có thể soi hình mọi thứ phía trên nó. Thật thú vị và sâu
sắc làm sao! Đến câu thứ ba chỉ lắng đọng hai chữ "tận đỉnh" cực đắt.
Từ "tận" nhấn mạnh tuyệt đối khả năng soi bóng hình của vũng nước
nhỏ. Ô, hóa ra vũng nước nhỏ mà không nhỏ tý nào bởi nó nuốt gọn cả hình ảnh
ngọn núi cao lớn bên nó vào tận đáy lòng. Thật tuyệt! Từ đây ta có cái nhìn sâu
sắc về cuộc sống con người. Sự thanh lọc trí tuệ và tâm hồn, sự tự do tuyệt đối
sẽ giống như vũng nước nhỏ kia, nó có thể chế ngự và làm chủ được những gì lớn
hơn nó rất nhiều.
Không chỉ là một câu
chuyện, mỗi bài thơ của Mai Văn Phấn còn là một bức tranh tuyệt đẹp với chỉ vài
nét phác thảo. Ông đã sử dụng ngòi bút tài hoa của mình để chụp lại những
khoảnh khắc luân chuyển nguyên sơ, tự nhiên, thuần khiết của thiên nhiên vạn
vật cũng như vẻ đẹp tâm hồn thánh thiện, nồng hậu của con người:
Thả bầu vú
Đọt mầm
Nhú
(Nắng xuân)
Những tia nắng ấm mùa
xuân như một bầu sữa tươi rót sức sống xuống nuôi sống muôn loài. Sau cái giá
lạnh của mùa đông cỏ cây trơ trụi lá, cành khẳng khiu, mùa xuân đến mang lại
sức sống cho vạn vật. Từ những thân cây khô héo, khẳng khiu kia nhú lên những
chồi non xanh mơn mởn. Rồi đây cành lá sẽ đâm chồi nảy lộc, trăm hoa đua nở. Muông
thú sẽ rời chỗ ẩn náu, vươn mình tắm dưới tia nắng ấm áp của mùa xuân. Cả đất
trời sẽ nhú lên, bừng bừng nhựa sống. Nắng xuân xuất hiện vẽ ra một khung cảnh
tươi đẹp, hùng vĩ biết bao!
Đối tượng trong thơ Mai
Văn Phấn không chỉ là con người, cây cối, hoa cỏ mà nhiều khi còn là những con
vật nhỏ bé nhưng ẩn chứa đằng sau đó là cả một câu chuyện ý nghĩa:
Con nhái bén
Thè lưỡi
Liếm trăng
(Ngồi giữa lá sen)
Con vật xuất hiện trong
thơ thường mang theo tiếng động, thế nhưng con nhái bén xuất hiện trong thơ Mai
Văn Phấn xuất hiện trong sự tĩnh lặng. Tĩnh lặng nhưng không hề mờ nhạt. Trong
đêm trăng mùa thu, hình ảnh những con nhái bén xuất hiện chễm chệ ngồi giữa lá
sen. Bằng con mắt tinh tế và sự cảm nhận nhạy bén Mai Văn Phấn đã vẽ nên bức
tranh con nhái trên lá sen và dưới ánh trăng. Hình ảnh ánh trăng thơ mộng với
con nhái bén ngồi trên lá sen như hòa vào nhau xóa nhòa ranh giới giữa cái tao
nhã và cái bình thường, giữa cảnh thực và cảnh mộng. Khoảng cách không gian huyền
ảo, vời vợi trên cao và không gian dưới thấp cũng được rút ngắn bởi hành động
“thè lưỡi” “liếm trăng” rất thơ mộng và giàu sức gợi.
Cảm quan về cuộc sống đa
chiều là những câu chuyện kể, cảm nhận về cuộc sống đời thường muôn mặt. Thơ
Mai Văn Phấn nhiều khi xa rời hiện thực của đời sống, đôi khi đưa người đọc đến
một miền “không đầu không cuối”, thậm chí vô định:
Mây xếp lên vai từng tảng đá nặng
nhòe mắt cát
thở đầy ngực cát
(Ghi ở Vạn Lí Trường
Thành)
Mở đầu bài thơ, tác giả
đã mở “cánh cửa” vào quá khứ cho ta thấy được không gian hiện thực của buổi xây
Vạn Lý Trường Thành, thấy được hình ảnh những dân phu bị đày ải bỗng chốc hiện
ra. Đâu đó vang tiếng truyền chỉ và ta nghe tiếng hoạn quan truyền lệnh “đánh
hộc máu mồm” những ai “vừa vác đá vừa làm thơ”. Tiếng “Khâm thử!”
vang lên cuối khổ thơ như kết thúc một màn kịch.
2.1.2. Hiện thực thế giới phồn tạp, bất an
Hiện thực thế giới hiện
lên trong thơ Mai Văn Phấn phong phú, sinh động, phồn tạp như nó vốn có. Đó là
một thế giới hỗn loạn, kéo theo những bất an của con người. Sống trong xã hội
hiện đại nhưng con người luôn hình dung về quá khứ và cảm thấy lo lắng, bất an.
Cuộc sống trước mắt họ mơ hồ, thực ảo lẫn lộn nhiều khi khiến họ chao đảo. Là
vậy nhưng thực ra không phải vậy. Cuộc sống hiện tại đó như những mảnh vỡ có sự
đan cài của những mặt đối lập, đúng với bản chất thực, đôi lúc phũ phàng buộc
con người phải chấp nhận:
Pha xong ấm trà
Quay ra
Ông khách không còn ở đó
Gọi điện thoại
Người nhà bảo ông đã mất bảy năm
Nhầm lẫn
Nhà mình
Mọi sự đảo lộn…
(Vẫn trấn tĩnh tiễn
khách ra ngõ – Hôm sau)
Con người đang sống
trong thế giới của mình, trong căn nhà của chính mình nhưng luôn trong trạng
thái lơ lửng, bay bổng, không xác định được thực hư. Ấm trà vừa pha xong còn ấm
những tưởng sẽ cùng bạn hàn huyên tâm sự nhưng rồi ngoảnh lại thì bạn đã đi đâu
mất. Gọi điện thoại hỏi thăm thì mới hay tin là bạn đã mất cách đây bảy năm.
Rồi mọi thứ trong nhà dường như đảo lộn cả: bức chân dung được treo trên tường
bị hạ xuống từ bao giờ? Ai là người đã hạ nó xuống? Rồi chiếc đồng hồ chạy bằng
dây cót nữa, nó đã biến mất từ bao giờ? Bộ ấm chén giả cổ ta đã cho ai hay
chăng mà giờ cũng chẳng thấy đâu? Đâu là thực? Đâu là hư? Con người đang cảm
thấy chơi vơi, lạc lõng ngay trong chính căn nhà của mình, cuộc sống của mình.
Điều đó thật là đáng sợ. Nhưng đó không phải là cảm xúc riêng của mình tác giả
mà đó là tâm thế chung của nhiều người trong xã hội hiện đại. Họ - những con
người trong xã hội hiện nay đang ghê sợ chính bản thân mình, ghê sợ cuộc sống. Cái
cuộc sống không rõ thực hư này nó khiến con người mơ hồ, chao đảo.
Trong xã hội đó không
chỉ người lớn mới cảm thấy bất an, lo lắng mà những đứa trẻ con cũng mất đi vẻ
ngây thơ, trong sáng của mình. Chúng nó mang trong mình những nỗi lo như người
lớn, những nỗi lo mà ở tuổi chúng chưa đáng có:
Lũ trẻ con xóm tôi biết quá nhiều về người lớn nên sớm
mắc những căn bệnh tuổi già. Đêm đêm chúng thường tụ tập, thì thào trong những
khu vườn vắng, phân công đứa canh gác để đứa khác đào hầm, chôn dấu những đồ vật
cũ nát, đề phòng lúc biến động. Chúng hay hốt hoảng lúc hoàng hôn chuyển màu,
lúc sóng vỗ, lúc quả vỡ… Chúng rủ nhau ăn kiêng đề phòng cao huyết áp, mỡ máu,
u xơ tuyến tiền liệt… (Dạy trẻ con)
Trẻ con ngây thơ, trong
sáng, đáng lẽ giờ này phải tụ tập chơi đồ hàng, bắn bi, kéo co… Vậy mà chúng
lại luôn trong trạng thái chuẩn bị “đề phòng lúc biến động”. Chúng lo sợ, hốt
hoảng khi nghe thấy tiếng động lạ, khi thấy có sự thay đổi “hoàng hôn chuyển
màu”, “sóng vỗ”, “quả vỡ”… Trẻ con đang tuổi ăn tuổi lớn, có lẽ chúng sẽ reo hò
ầm ĩ khi được cho những thức quà này nọ, trẻ con rất ít khi chú ý đến những đồ
ăn thức uống của mình có an toàn hay không, với chúng chỉ cần ngon là được. Thế
nhưng những đứa trẻ nơi đây lại rủ nhau ăn kiêng “đề phòng cao huyết áp, mỡ máu, u xơ tuyến tiền liệt”.
Những căn bệnh này ta chỉ thấy ở người lớn chứ ai đời những đứa trẻ con mà lại
đi lo mình mắc phải những căn bệnh này. Nếu thực sự có lo xa đến vậy thì bố mẹ
chúng mới là người phải lo chứ nhỉ? Không chỉ hành động mà suy nghĩ của những
đứa trẻ con nơi đây, tại thời điểm này cũng không khác gì người lớn. Suy nghĩ
lớn nên hành động của chúng cũng chẳng giống trẻ con. Thay vì gào khóc như
những đứa trẻ con chúng ta thường thấy thì chúng không “gào khóc ăn vạ”. Có đứa
còn phát biểu rất già dặn: “Trẻ con nước mắt chảy vào trong”.
Thế giới hiện lên trong
thơ Mai Văn Phấn dường như khác hẳn với thế giới thông thường, dị hình, dị
dạng. Nó hàm chứa trong đó sự bất ổn, nó nghiêng ngửa, xộc xệch, rời bỏ những
ranh giới cố hữu nào đó của cuộc sống:
Nhưng hình như
mọi con vật trong nhà
vẫn chế tác từ đồ phế thải
con mèo tam thể được sin ra từ mớ giẻ rách?
…
đàn kiến đang nhẫn nại tha mồi là đống mạt cưa?
(Không thể tin)
Thế giới của sự xô lệch,
thế giới ngổn ngang hiện lên thông qua hệ thống hình ảnh hài hước, phi lí, méo
mó, dị hình dị dạng: con mèo – mớ giẻ rách, con cá – vỏ lon beer, chim họa mi –
chiếc ấm vỡ, con chó – cuộn báo cũ, đàn kiến – đống mạt cưa… Những hình ảnh đó
gợi những tiêu cực, những hiện tượng bất cập,
những bất công của xã hội. Ngay từ chính nhan đề “Không thể tin” đã thể
hiện rất rõ trạng thái tâm trạng của nhà thơ. “Không thể tin” vào những gì hiện
hữu trước mắt, không thể tin vào những gì sẽ diễn ra trong tương lai. Tương lai
đó là cả một mối lo âu, là những dự cảm chẳng lành. Cuộc sống hôm nay đầy rẫy
những dự báo, hoài nghi về những đổi thay tiêu cực. Trong chính căn nhà của
mình nhưng người ta lại cảm thấy cô đơn, lạc lõng, mọi thứ luôn trong tư thế
đảo lộn, trong trạng thái rạn vỡ.
Không chỉ có Mai Văn
Phấn nhận ra sự bề bộn, phức tạp của cuộc sống, mà có rất nhiều nhà thơ đương
thời cũng nhận thấy điều đó, tuy nhiên mỗi người lại có cách thể hiện khác nhau
trong văn chương. Chính hiện thực cuộc sống đã tác động đến con người, họ ganh
đua, bon chen, lừa lọc, đố kị, cầu cạnh để tiến thân, họ sẵn sàng đánh đổi mọi
thứ để đạt được mục đích của mình. Giá trị sống nhường chỗ cho những ma trận
rối ren của cuộc sống:
Trái đất cái cối xay rất cũ
Những vòng quay nặng nề mệt mỏi
…
Những cánh rừng trơ cuống họng
…
Tham vọng khiến họ loại trừ nhau, ném bom xả đạn vào đồng
loại.
(Thế giới hiện hữu – Vi
Thùy Linh)
Còn trong thơ Mai Văn
Phấn, mọi vật sẽ:
quay không thể dừng lại: thùng rác quay mắc phải khung
ảnh, quạt trần, dây điện thoại. Chiếc quần lót mắc kẹt giữa tủ bát đĩa và máy
tập thể hình. Chổi cùn, bình diệt muỗi, đĩa CD chui vào tủ lạnh. Con cá tắt thở
trên đường gần đến cửa sổ…/ Và nhanh chóng đặt chân vào vạch xuất phát.
(Quay theo mái nhà)
Mọi thứ trong căn nhà
đang quay cuồng, chao đảo. Chúng đã vượt qua giới hạn nào đó, trở thành một mớ
hỗn độn. “Đồ vật quay không thể dừng lại” không đơn thuần là một câu kể. Trong
thế giới hỗn độn và phi lí ấy con người quay cùng với đồ vật. Họ luôn cảm thấy
cô độc, bất trắc và luôn tiềm ẩn nguy cơ biến thành đồ vật. Đây có thể là một
lời cảnh báo, một lời thức tỉnh mạnh mẽ. Nếu ta không tự chủ, nếu không quyết
đoán thì đến một lúc nào đó ta sẽ thành đồ vật, thậm chí là một thứ phế thải.
Và ta sẽ đánh mất đi nhiều thứ, kể cả chính bản thân mình. Mai Văn Phấn đã lên
tiếng cảnh báo con người về nguy cơ mà họ phải đối mặt khi sống trong xã hội
hiện đại.
Cuộc sống đầy khó khăn,
cạm bẫy và giả dối làm con người luôn lo lắng. Và cũng tại bởi cuộc sống quá
nhiều những chông chênh, ngả nghiêng như thế nên con người cứ luôn tự vấn lương
tâm, tự trách, tự hỏi chính bản thân mình. Ngay cả trong vô thức của nhân vật
trữ tình, những câu hỏi luôn được đặt ra cho thấy sự hoài nghi về cuộc sống
càng lúc càng tăng lên. Sự an toàn, thân thiện và tốt đẹp trong cuộc đời này
dường như là không thể:
Nếu đêm qua không có con mưa?
Nếu tôi không ngủ trên giường?
Nếu không phải
khoảng cách ba mét bảy mươi cm?
(Nếu)
Nếu? Nếu? Một loạt câu
hỏi được đặt ra mà chưa thể giải quyết. Nhưng làm gì có giả thuyết nào đặt ra
cho cuộc sống như thế đâu. Cuộc sống này là một vòng quay liên tục và không
ngừng nghỉ, và sẽ chẳng có dự đoán nào đúng cho tương lai cả. Chúng ta chỉ có
thể hi vọng nhưng không thể nào đoán trước được tương lai đó rồi mai đây sẽ ra
sao cả. Trạng thái nghi ngờ với tất cả mọi thứ xung quanh mình khiến con người
trở nên hoảng loạn:
Tôi đặt vào cái miệng những ngữ âm
như gõ lên ô Search một website tìm kiếm
Kết quả làm tôi choáng ngợp
Tôi bị lạc vào ổ phục kích?
…
Là phần mềm bị nhiễm virus?
Hay hòn than vừa rơi xuống tảng băng?
(Cái miệng bất tử)
Con người cảm thấy bất lực
và không biết bản thân đang mong muốn tìm kiếm điều gì. Bản thân sẽ lạc vào “ổ
phục kích”, sẽ sa vào “phần mềm nhiễm virus” trong máy tính hay “sẽ là hòn than
rơi xuống tảng băng”. Sự hoài nghi về những giá trị đạo đức, những quy chuẩn
của xã hội có thể được coi như là một phản xạ tự nhiên của tinh thần con người
khi nhận thức bản chất giả dối của những vấn đề đời sống.
Tâm thế bất an trước
cuộc đời còn được chủ thể trữ tình thể hiện qua sự hoài nghi về các giá trị
chân, thiện, mỹ trong cuộc sống:
Vợ tôi bảo muốn chữa bệnh đau đầu
phải hồn nhiên như cây cỏ
…
Đung đưa một lúc cũng mỏi
càng thêm đau đầu trong nắng tháng sáu
(Sống hồn nhiên)
Không tin rằng muốn
“chữa bệnh đau đầu” thì phải sống một cuộc sống tốt đẹp, “hồn nhiên như cây
cỏ”, chủ thể trữ tình tìm về thôn quê để thử trải nghiệm và sống như lời “vợ”
dặn, sống hòa mình vào thiên nhiên “giang tay nhờ gió lay lắt”. Nhưng sự thật
không như mong đợi, chủ thể “càng thêm đau đầu” vì trong thời tiết oi bức “nắng
tháng sáu” của mùa hạ “phải tưởng tượng ra mưa xuân”. Một sự thật hiển nhiên
cho thấy con người luôn suy nghĩ, đau khổ trong mọi hoàn cảnh. Vì thế không thể
sống “hồn nhiên” trong xã hội đương đại.
Thiên nhiên trong Thơ
Mai Văn Phấn cũng đầy dự cảm bất trắc về sự đổ vỡ và ám ảnh. Nỗi lo tan tác
lòng ao sâu trong hai câu thơ sau cũng là nỗi lo rạn vỡ những giá trị truyền
thống trong thời đương đại:
Chênh vênh nhịp cầu ao
…
Xin đừng ai khẽ động
Mà tan lòng ao sâu”
(Nét quê)
Hình ảnh giọt sương xé
tan mạng nhện để nhỏ lên các ngọn cỏ sắc lạnh cũng là một hình ảnh đầy dự cảm:
Võng nhện sương tan xé
rách
Lưỡi cỏ mềm tự do
(Linh hồn đã bay)
Những biểu hiện của biến
đổi thiên nhiên thời tiết mà cả nhân loại ngày nay đang lo ngại cũng được phản
ánh trong cảm hứng về một thiên nhiên đầy bất trắc. Hiện tượng tan băng được
nhắc đến:
Đúng hơn là đông cứng
Rồi băng đá
Rồi rữa tan
(Biến tấu con quạ)
Vừa là biểu tượng của sự
trường tồn, của sức sống nhưng cũng vừa biểu tượng cho một sự đổ vỡ, tiềm ẩn
nhiều nguy cơ, nhiều bất trắc, thiên nhiên trong thơ Mai Văn Phấn đã đưa ra một
thông điệp về một môi sinh vốn đẹp đẽ nhưng đang đứng trước nguy cơ bị phá hủy,
bị lạm dụng trở thành một môi trường tàn úa, ẩn chứa cái chết và sự hủy diệt.
Mai Văn Phấn đã lí giải quan điểm của mình về thế giới. Những trang thơ của ông
đã phơi bày hiện thực thế giới phồn tạp đầy rẫy bất an, phản ánh khá đầy đủ các
đặc điểm, trạng thái tâm lý cũng như tâm thế của con người sống trong thời hiện
tại.
2.1.3. Hiện thực thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định
Hiện thực thế giới trong thơ Mai Văn Phấn hiện lên không chỉ là một thế
giới phồn tạp, đầy rẫy bất an mà đó còn là cuộc sống phong phú, sinh động. Đó
là một thế giới phồn sinh, hóa sinh bất định. Vạn vật trong thơ ông đều được
ngắm nhìn từ sự sinh sôi, nẩy nở và tràn đầy năng lượng. Giống như lời nhận
định của nhà phê bình Văn Giá: “Toàn bộ thơ Mai Văn Phấn đã dựng lên một thế
giới phồn sinh và hóa sinh bất định” [22; 529].
Thế giới phốn sinh là “thế giới phì nhiêu, nhiều tầng, nhiều cá thể cộng
sinh chen chúc đầy hoan lạc, tựa như cánh rừng nhiệt đới vậy” [22; 529]. Thế
giới phồn sinh ấy trong thơ Mai Văn Phấn tập trung khai thác ở hai khía cạnh:
phì nhiêu và sinh nở. Xuyên suốt các tác phẩm của Mai Văn Phấn ta nhận ra một
thế giới phì nhiêu, đa tầng, ở đó muôn loài chen chúc, cộng sinh: có mùa màng,
có cỏ cây, đất đai, cánh đồng, con người... Tất cả những cái đó tượng trưng cho
sự sinh sôi, nảy nở, cho sự vĩnh hằng của thế giới. Trái đất vẫn quay, vạn vật
vẫn sinh sôi thì đương nhiên thế giới này còn tồn tại:
Yêu nhau
Là những nghi thức dâng tụng trời
đất
…
Đất rùng mình
Sông chảy
Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở
bung
(Anh anh em em)
Và thấy trong tiếng chim
Một ban mai vừa nở
Bọc trứng vừa nở
Trong chiếc nôi sương mờ
(Nhóm lửa)
Trong con mắt của Mai Văn Phấn, thiên nhiên căng tràn sức sống, chúng luôn
luôn vận động, chen chúc đầy hoan lạc:
Đất mỡ màu quyện rạng đông dâng lên
khuôn mặt
Dâng lên cỏ cây phồn thực bời bời
Những mùa tái sinh trổ đồng chín rục
Sấm nổ vang trong lòng tay mầm hạt
Vòng phù sa tươi ròng ấp âm thớ
đất”
(Bài ca mùa màng)
Thiên nhiên động tiếng mùa sang
Dấu chân trong cỏ mỡ màng trổ hoa
Quả thơm trĩu ngọt la đà
Tạ ơn sương đọng vái xa chân trời
(Chương VIII: Trái tim giải thoát)
Mai Văn Phấn vẽ nên bức tranh lung linh, nhiều màu sắc sinh động. Những bức
tranh đó là phương tiện để ông giãi bày tâm sự, để chuyển tải thông điệp của
mình cho người đọc. Trong thế giới rộng lớn đó, vạn vật vẫn đang sinh sôi, nảy
nở, nó cũng có linh hồn chứ không phải là những thực thể vô tri vô giác:
Hừng đông sinh muông thú, cây trái,
tiếng động
Hoa lồng đèn, mai dạ thảo tươi ròng
Màu rạng đông chìm vào đất
Tan trong sóng lớn
Hắt vòm lá xanh
Con vành khuyên xóa mọi dấu vết
Ngực sơn dương mở lớn
Sau lưng hừng đông
(Hình đám cỏ)
Nhãn quan phồn sinh hướng về thiên nhiên thực chất là hướng về con người,
hướng về đời sống nhân thế. Trong thơ Mai Văn Phấn, con người và thiên nhiên
luôn tồn tại trong mối quan hệ mật thiết. Hình ảnh “Em” trong thơ Mai Văn Phấn
là hiện thân của đất đai, mùa màng, tươi tốt và sự gieo trồng:
Em chợt hiện
Từ hương thơm trái chín
Trong dập dờn bãi ngô mà thụ phấn
Lá giật mình
Cá lặn xuống chân
Hút mãi về em
Từng hơi thở đất
Anh hạn hán
Cơn mưa chiều tất bật
(Nỗi nhớ mùa thu)
Và “Anh” khao khát đón nhận sự gieo trồng của “Em”:
Anh mơ được em gieo trồng trên ngực
Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt
Hôn lên tai anh lời chăm bón thì
thào
Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp
…
Từng giọt mát lành thấm nhuần trong
đất
Tươi từ môi anh đến gót chân em
Anh ngỡ mình được phép lành thánh
thể
Đêm vừa qua hay đã mấy nghìn năm
(Bài ca buổi sớm)
Không chỉ dừng lại ở trạng thái phì nhiêu của sự sống, thơ Mai Văn Phấn còn
mở rộng vào trạng thái sinh nở của nó. Với thi nhân, trạng thái sinh nở, mang
thai, giao hợp... là những biểu hiện đẹp đẽ nhất của sự sống nơi trần thế. Bởi
nó không chỉ đơn giản là quy luật sinh tồn mang tính chất tự nhiên mà chính nó
đã góp phần quan trọng để tái sinh ra một thế giới mới:
Giữa em là anh
Một con hoẵng vừa sinh trên cỏ ướt
Một bát nước ngùn ngụt bốc hơi
Một thế giới đang vội vàng hoàn
hảo
(Hình đám cỏ)
Thế giới phồn sinh viên mãn còn được thể hiện qua khát vọng nhục cảm trong
tình yêu nam nữ, trong cái khát khao gieo trồng và sinh nở. Ái tình với Mai Văn
Phấn dâng lên từ cô đơn, nó giống như dòng nước được bắt nguồn từ luồng lạch,
từ hạt giống, từ khao khát sinh sôi để truyền sinh. Ái tình được thực hiện như
nguyên lí nảy mầm sinh sôi cho cây cỏ, chim muông và toàn thể vũ trụ, trong đó
có chàng trai và cô gái đang mang trong mình khát vọng được gieo hạt:
Tìm miệng anh và gieo hạt
Gió níu chân tay đất dịu dàng
(Đỉnh gió)
Để rồi sức mạnh ái tình như ngọn gió
thần diệu đã thổi bốc mọi thứ lên tận đỉnh chon von. Còn cao hơn cả đỉnh, nó
nhắm hướng cả mặt trăng bay tới:
Anh dìu em lộng lẫy váy hoa
Hôn em, ngón tay út
Nâng em lên trăng
(Đỉnh gió)
Mai Văn Phấn coi sự gần gũi trong tình yêu là một thứ nghi lễ. Trong thơ
ông, ân ái trở thành một thứ nghi lễ linh thiêng của con người. Dưới không gian
thiên nhiên bát ngát, đôi lứa yêu nhau tan biến vào thiên nhiên, hòa lẫn vào
thiên nhiên:
Yêu nhau. Là nghi thức dâng tụng
trời đất. Bây giờ là mùa xuân. Anh mệnh kim và em mệnh hỏa. Từ lửa làm ra Thổ,
ra Mộc, ra Thủy. Đất rùng mình. Sông chảy. Ngàn vạn lá mầm từ thân thể nở bung.
(Anh anh em em)
Nhìn thế giới qua lăng kính phồn sinh, tình yêu của con người, của vạn vật
trở thành một biểu tượng đẹp nhất, mãnh liệt nhất trong thơ Mai Văn Phấn. Thơ
Mai Văn Phấn cũng đậm màu sắc nhục cảm, thậm chí hơn thế, là tính dục. Nhưng
dục tính nồng nàn trong thơ ông đã được đẩy tới những hình ảnh mang tính tượng trưng
phổ quát, vạn vật và con người luôn trong trạng thái sung mãn, tràn trề năng
lượng:
Cuộn chảy
trong tiếng gào những dải phù du
đáy sông quặn thắt chưa hết sáng
Hoàng hôn ngậm chặt ánh ngày
lửa co giật
sục sôi mầm nụ
đỉnh cây ngùn ngụt bốc cao
(Đất mở)
Ngựa thở dốc
bời ngợp cảm giác cỏ
chùm lưỡi dìu nhau đứt cuống
xuyên qua tim lăn vào đất tơi
nở những bàn tay sau lưng tươi tốt
(Được quyền nghĩ những điều đã ước)
Sau khi tiếp cận thế giới phồn sinh, thơ Mai Văn Phấn tiếp tục mở ra cái
thế giới của sự hóa sinh bất định. Đó là sự rình rập, hủy diệt, tàn tạ và phân
rã của thế giới. Vạn vật, con người lại lo lắng cho cuộc sống, cho tương lai.
Sự sống đó rồi sẽ về đâu?
Chim chóc nghe lách cách giữa thân
cây tiếng viên đạn lên nòng, nấp vào đám mây bị quay văng trong hoàng hôn chảo
lửa / con hà sặc khói hun mở miệng luận bàn về sự bất tử của nước và thoáng
chốc con thuyền. / Con gấu ôm trọn tổ ong buông mình từ đinh cây xuống nơi
giăng bẫy.
(Mùa hạ rất gần)
Trong cách cảm nhận của Mai Văn Phấn, chết chưa phải là đã hết mà chết là
một sự khởi đầu mới. Theo ông vạn vật chuyển hóa luân hồi, giống như lời nhận
định của PGS.TS Văn Giá: ta có thể hình dung thế giới thơ Mai Văn Phấn là “một
thế giới phồn sinh động cựa và luân chuyển hóa hóa sinh sinh vô hồi vô hạn với
tất cả vẻ đẹp bí ẩn và màu nhiệm nhất đã tràn vào thơ anh, thống ngự thơ anh,
chiếm ngôi trị vì, không nhượng bộ. Bằng một cách tự nhiên nhất, thơ Phấn đã
biểu đạt thế giới này trong trạng thái đó, và coi đó là hiện thân của Cái Đẹp”
[22; 534].
“Cầu nguyện ban mai” là tập thơ thể hiện rõ nhất quan điểm của Mai Văn Phấn
về sự luân hồi của thế giới. Ban mai là thời khắc trong trẻo, thanh khiết nhất
của một ngày. Ban mai xuất hiện cũng là lúc bóng đêm phải lụi tàn, mọi vật sẽ
được tái sinh trong một sức sống mới và tiếp tục sinh nở, phát triển dưới ánh
sáng ban mai:
Cầm tay gió dắt vào đêm
Má hồn xanh lỡ để quên cuối trời
Dấu chân xin cát chớ vùi
Cho ta niệm chắc ban mai lại về
(Qua hoàng hôn)
2.2. Cảm quan về con người trong thơ Mai Văn Phấn
Con người là trung tâm của văn học, văn học là nghệ thuật miêu tả và biểu
hiện con người nên quan niệm nghệ thuật về con người là phạm trù trung tâm của
hệ thống thi pháp. Sự đổi mới, cách tân văn học bao giờ cũng gắn với sự đổi mới
cách tân quan niệm nghệ thuật về con người. Nếu con người trong chủ nghĩa hiện
đại tỏ ra ưu tư chán chường trước trạng thái tha hóa của nhân sinh, thì con
người trong chủ nghĩa hậu hiện đại lại càng dị thường hóa, ảo giác hóa sự tha
hóa đó một cách thản nhiên để lấy làm thú vị, mặc dù có lúc cũng hoảng sợ. Nếu
ý thức về cái tôi rất mãnh liệt trong chủ nghĩa hiện đại, thì trái lại nó bị
hoài nghi về sự tồn tại trong chủ nghĩa hậu hiện đại. Con người ở đây thường bị
phân tán thành “một chủ thể phi trung tâm”, bao hàm nhiều mảnh vụn và tất cả
đều bị hòa tan trong bối cảnh xám xịt chung quanh.
2.2.1. Con người cô đơn
Hình tượng con người cô đơn không phải đến thơ Mai Văn Phấn chúng ta mới
bắt gặp. Con người cô đơn đã xuất hiện trong rất nhiều sáng tác của các nhà thơ
trước đó như: Nguyễn Du, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử… Tuy nhiên mỗi thời đại lại mang
một nét đặc trưng riêng. Theo TS Chu Văn Sơn: “Nếu cái tôi trong Thơ Mới là cái
tôi cá thể, cái tôi trong thơ ca Cách mạng là cái tôi tập thể/đoàn thể thì cái
tôi của thơ Đương đại là cái tôi bản thể. Cái tôi cá thể soi mình vào mọi người
– cái ngoài ta (ngoại vật và tha nhân) để nhận ra mình còn cái tôi bản thể soi
mình vào các giá trị phổ quát để tri nhận bản lai mục diện của mình”[6,564].
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Độc
Tiểu Thanh ký)
Hai câu thơ trên thể hiện nỗi cô đơn tột cùng của Nguyễn Du – một hồn thơ
tài hoa bạc mệnh. Nó vút lên như lời tiên cảm của người luôn sợ mình phải làm
kẻ lữ hành cô độc trên cõi nhân gian. Nguyễn Du cảm thấy mình cô độc trong cuộc
đời, không có ai làm tri âm, tri kỉ. Nhà thơ cất tiếng hỏi vọng về một tương
lai xa xôi – ba trăm năm nữa, và rồi ông hình như cũng không tin có một tương
lai nào đó, nhân loại sẽ hiểu mình.
Nếu Nguyễn Du cô đơn vì không tìm
được tri âm tri kỉ trong cuộc đời thì đến Thơ Mới, hình tượng một con người cô
đơn trú ngụ ở muôn nẻo. Như lời nhận định của GS. Phan Cự Đệ: “ Cái tôi trong
thơ Mới trốn vào nhiều nẻo, có nhiều màu sắc phức tạp khác nhau, nhưng ở đâu
cũng buồn và cô đơn. Không có lối thoát, không thấy tương lai, chỉ thấy đất
trời tối tăm mù mịt”.
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
(Cặp hài vạn dặm – Xuân Diệu)
Cái Tôi của Xuân Diệu chính là cái tôi với bi kịch của cái hữu hạn và cái
vô hạn. Xuân Diệu luôn có khát khao được sống mãnh liệt, vồ vập với sự sống,
tuy nhiên ông ý thức được cái hiện tại tuy thực nhưng rất mỏng manh, thời gian
trôi qua nhanh và đời người là hữu hạn. Do đó con người trong thơ Xuân Diệu cô
đơn là do sự nhận thức về thời gian biến ảo.
Trật
tự xã hội bị đảo lộn, hiện thực cuộc sống thay đổi cuộc sống của mỗi con người
cũng không thể nằm ngoài vòng quay chung đó. Con người chịu ảnh hưởng của sự biến đổi đó một cách mạnh mẽ
và quyết liệt. Do đó, cảm quan về con người cũng được nhìn bằng con mắt khác.
Và cô đơn là trạng thái luôn tồn tại trong con người trong thế giới hậu hiện
đại. Đầu tiên đó là nỗi cô đơn trong các mối quan hệ xã hội:
Nhà thơ trú trong bóng râm
Từng con chữ bị khoét mất mắt.
(Biến tấu con quạ)
Hình ảnh “Nhà thơ trú
trong bóng râm” cho thấy sự yếu đuối, cô đơn và chơi vơi của con người xã hội. Cái chết ẩn náu đâu đó trong những bóng râm, những khoảng tối rồi bất
thần ập đến khiến chủ thể trữ tình không kiểm soát được. Con quạ trong bài thơ
là biến tấu của con người. Nhà thơ – những người làm nghệ thuật cô đơn trong
chính ngôi nhà lớn mà họ đang sống và làm việc, không những chỉ cô đơn mà còn
có khả năng gặp nguy hiểm. “Từng con chữ bị khoét mất mắt” - những bức tranh hiện thực được nhà thơ đưa
vào trang viết đang gặp những mối nguy hại, bị xâu xé và khoét đục dần.
Bằng góc nhìn đa chiều về cuộc sống, Mai Văn
Phấn đã đưa vào trang thơ của mình một xã hội hậu hiện đại thu nhỏ. Ở đó con
người hiện lên với những hình ảnh đáng thương, cô độc:
Lật đống chăn
nơi ông vẫn nằm
thấy mẩu giấy
với nét chữ nguệch ngoạc:
“Ai tìm thấy
tôi ở đâu, gọi về số...
Xin cảm ơn và
hậu tạ”.
sau mẩu giấy
vẫn văng vẳng: quấy rồi đục... nhục rồi than... tan rồi huề... mê rồi tỉnh...
thỉnh rồi buông...
(Đúng vậy)
Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ là
một minh chứng rõ nét cho những con người đáng thương, cô độc. Sống cả cuộc
đời, hi sinh cả cuộc đời vì xã hội, vì gia đình, vì con, vì cháu nhưng đến khi
sắp gần đất xa trời lại không thấy được một người ở bên. Con người phải tự tìm
cách cứu lấy mình bởi ở cái tuổi đó trí nhớ không còn minh mẫn, khi nhớ khi
quên. Mỗi lần bước ra khỏi nhà nhân vật trong thơ phải viết một mẫu giấy ghi
chú lại “Ai tìm thấy tôi ở đâu, gọi về số...”. Trong cái cô đơn nhà thơ tự ý
thức được mình phải làm như vậy để có thể trở về nhà khi lạc đường. Đó là nỗi
cô đơn của thi sĩ trong chính gia đình của mình, không có ai cùng đi, cùng chia
sẻ, sợ rằng không ai biết mình đi đâu và ở đâu để tìm.
Đọc
những tập thơ của Mai Văn Phấn ta thấy xã hội đa diện đã khiến cho con người
thay đổi, họ không tìm thấy cái gì là chuẩn để đánh giá những thang giá trị cho
những hành động của con người. Họ cảm thấy lẻ loi trước thời cuộc đầy nghiệt
ngã và không còn nhận ra cái đẹp và cái xấu. Nói chung con người hồ nghi tất cả
mọi thứ:
Không nên tin vào một con ong
tôi kiểm chứng bằng những cử động nhỏ:
vẫn còn đủ 532 trang một cuốn sách cũ
tôi bấm móng tay, thông nỏ điếu
thử báo cáo, thử ký, thử hủy tài liệu
(Không
thể tin)
Con
người không xuất hiện trong thơ với tư cách là vị trí trung tâm mà sự mờ nhòe
của con người đã làm cho câu thơ có một cảm nhận khác, dùng sự vật, hiện tượng
để qua đó miêu tả con người, những lo âu bất trắc của con người đã được tác giả
thể hiện thông qua sự hiện hữu của đồ vật, con vật. Thế giới loài vật hòa chung
trong cuộc sống con người:
Tôi tồn tại bởi cánh bướm, biển quảng cáo và thiếu
nữ không quen biết
Họ nói giùm tôi cuống lưỡi vực sâu
(Ở
những đỉnh cột)
Trong
cuộc sống hiện đại đầy sóng gió, phức tạp, huyền hoặc, con người luôn mang
trong mình những lo âu, dự cảm. Họ luôn cảm thấy mình bơ vơ, lẻ loi trước thời
cuộc. Họ cảm thấy trên con đường mình
đang đi chỉ mình mình đơn độc, không bạn bè, không gia đình, không người thân,
không ai bên cạnh và chỉ mình họ phải đối mặt: dễ rơi vào trạng thái cô đơn.
Cũng có thể nói, cô đơn đã trở thành tâm thế của con người hiện đại. Chính Mai
Văn Phấn đã từng thú nhận nó một cách thành thật trong bài “Ở Sokcho”:
Tôi là con chim bay đến đây
Thu mình trong chiếc tổ lạ
Cửa sổ, mặt hồ yên tĩnh
Giọng nói thân tình bỡ ngỡ ban mai
Hay
như trong bài “Tắm đầu năm”:
Tắm
gội cho mùa xuân về
vừa
lặn vào ánh sáng
vừa
gọi thầm ông bà, cha mẹ
cơ
thể bốc cao về phía ngọn đèn
vừa
xối mạnh vừa gọi tên em
ánh
sáng bồng bềnh bụng mang dạ chửa
thử
gọi một ai xa lắc xa lơ
ngọn
đèn lặng phắc càng tỏ
càng
tỏ.
(Tắm
đầu năm)
Trong
cái đêm đầu năm ấy, thi nhân cảm thấy cô đơn, chơi vơi đến tột cùng nên đã tìm
đến với ngọn đèn dầu mong được thanh tẩy tâm hồn và cả thể xác. Trong giây phút
tĩnh lặng và thiêng liêng ấy, nhà thơ cất tiếng gọi ông bà cha mẹ, những người
đã khuất,… nhưng không một hồi âm từ những linh hồn lạnh lẽo. Sau nữa nhà thơ
“gọi tên em” nhưng cũng không một tiếng đáp lại. Cuối cùng, nhà thơ gọi một ai
nữa bất kì cũng không một sự hưởng ứng. Con người rơi vào tột cùng của sự cô
đơn, lạnh lẽo.
Khi
một mình ta cảm thấy cô đơn, đó là trạng thái hết sức bình thường. Thế nhưng
khi bên cạnh những người mình yêu thương mà vẫn cảm thấy cô đơn thì thực sự
đáng sợ. Trong thơ Mai Văn Phấn, nỗi cô đơn đó được thể hiện hết sức thấm thía:
Em ngủ say không biết
anh đang nhìn hạt mưa
bóng tối xơ xác ngoài cửa sổ
tán cây đè nặng ngực mình
…
Những ngọn thác câm lặng đang đổ xuống rất mạnh
Những đế giày chuẩn bị vỡ tung
Chân tường mở cánh cửa thoát hiểm
Bụi mưa phùn phùn hay châu chấu nay qua
Cả ngôi nhà lao đi chóng mặt
Sửng sốt, rã rời khi gặp bình minh...
(Để
nhận ra anh)
Người
đàn ông đang ở bên cạnh người vợ thân yêu nhưng lại mang trong mình một nỗi cô
đơn đau đáu, một nỗi lòng không biết tỏ cùng ai. Người vợ đã ngủ ngon mà không
hề hay biết rằng chồng mình đang mang một bầu tâm sự, những “hạt mưa”, “bóng
tối”, “tán cây” ngoài kia khiến lòng anh nặng trĩu. Và rồi anh hiểu ra giữa
người vợ và con người nghệ sĩ của mình không phải khi nào cũng có sự đồng điệu
về cách hiểu, cách cảm, cách nghĩ. Anh cảm thấy bơ vơ trong chính cuộc tình của
mình bởi không nhận thấy được sự thấy hiểu, bởi có những lúc con tim không cùng
nhịp đập.
Con
người trong thơ Mai Văn Phấn không chỉ cô đơn trong các mối quan hệ của xã hội
mà còn cô đơn trong chính gia đình của mình:
Tôi bị con cháu chê cười, khinh bỉ chẳng ra gì. Bị vu
khống trắng trợn, không thể thanh minh. Trước khi tự tử tôi muốn khóc. Nhưng tự
nhiên khóc là việc rất khó với một người già. Tôi đành dỗ dành một đứa trẻ sơ
sinh vừa thức dậy trong tã lót còn cuốn chặt.
(Kể lại giấc mơ)
Người đàn ông trong câu
chuyện trên đau khổ thất vọng đến mức muốn tự tử khi bị người thân ghẻ lạnh. Cả
đời sống vì con vì cháu, khi về già lại bị chính con cháu cười chê, khinh bỉ.
Người đàn ông đó đã tự an ủi chính bản thân mình bằng cách “dỗ dành một đứa trẻ
sơ sinh vừa thức dậy”. Một đứa trẻ sơ sinh sẽ chẳng thể cười chê hay khinh bỉ.
Ta chỉ có thể tự mua vui, tự an ủi cho chính bản thân mình.
Nguy hiểm hơn cả trạng thái cô đơn đó chính là sự vô cảm của con người
trước sự xoay vần cuộc sống. Nhiều khi con người thả cho hồn mình trôi vô định
về một chốn xa xôi, không bận tâm, không suy nghĩ:
Lặng yên cho nước chảy
Xối xả lâu lạnh toát mình đá
…
Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn
…
Hơn hết lúc này
Ai hãy ở yên chỗ đó
(Đá trong lòng suối)
“Đá” ở đây chính là một hình ảnh ẩn dụ về trạng thái sống vô cảm của con
người. Trước không gian sinh động với tiếng chim hót, lũ voọc chuyền cành, mùi
ổi chín và đám mây trên trời dừng lại mà đá vẫn nhắm mắt trơ gan, thả lòng an
nhiên cho nước cuốn. Cũng giống như trước vòng xoáy cuộc đời con người vẫn chọn
cho mình cái nhắm mắt an yên, không bận tâm, toan tính. Con người cô đơn, vô
cảm là sự ý thức của Mai Văn Phấn về hiện thực cuộc sống bày ra trước mắt, ở đó
họ tạo cho mình một tâm thế chủ động khi trật tự xã hội đã có những thay đổi,
nhưng nhìn sâu trong tận cùng bản chất, nó là dấu hiệu của sự khủng hoảng, đổ
vỡ niềm tin khi hệ hình đã có nhiều thay đổi.
Con người cô đơn trong
thơ Mai Văn Phấn mang dấu ấn hậu hiện đại rõ nét. Trước hết đó là sự cô đơn
trong các mối quan hệ của xã hội, tiếp đến là cô đơn trong gia đình. Đó chính
là tận cùng cô đơn cá thể, cô đơn bản thể của con người thời hiện đại. Sự cô
đơn đó luôn tồn tại trong tâm thức của con người ở xã hội đương đại. Nhà thơ
Mai Văn Phấn đã đi sâu vào khám phá từng ngóc ngách của nội tâm con người, lột
tả tận cùng nỗi cô đơn ấy bằng nhiều cách khác nhau. Thơ ông vì thế thấm đẫm
nỗi cô đơn của con người Việt Nam đương đại.
2.2.2. Con người vô bản sắc
Nếu nhân vật trong văn học tiền hiện đại được biết
đến là con người tính cách, văn học hiện đại là con người tâm lí thì con người
trong văn học hậu hiện đại là “mờ mờ nhân ảnh”. Con người trong văn học hậu
hiện đại không chỉ không được xác định về tính cách, tâm lí xã hội mà ngay cả
hoàn cảnh, nghề nghiệp thậm chí danh tính cũng không được chú trọng. Họ chỉ là
một sinh linh biến ảo. Có ý kiến còn nói quá lên rằng nhân vật hậu hiện đại
mang “sáu không”: “vô lí, vô bản, vô ngã, vô căn, vô hội, vô dụ” [4; 68]. Văn
chương hậu hiện đại từ chối những kiểu nhân vật trong văn chương cổ điển, đã đi
đến sự phản nhân vật. Nghĩa là ở những nhân vật này, nghệ thuật tẩy trắng được
tác giả thực hiện một cách tối đa: nhân vật không tên, không xuất thân, không
ngoại hình, không tính cách... Đó là những con người vô bản sắc, con người
không biết nguồn cội, con người sinh ra và bị quẳng ném vào dòng đời, dòng thời
gian đầy rẫy phi lí, thậm chí đó là những người mất cảm giác, mất tri giác, bị
xoáy vào sự u mê, u lì dường như không nhận thức được sự có mặt của thế giới
ngoại tại. Thế giới nghệ thuật trong thơ ca hậu hiện đại dần dần thiên về thế
giới đồ vật. Thế giới con người và loài vật dường như đan xen, hòa lẫn trong
một mớ hỗn độn, không có sự phân biệt rạch ròi như văn chương thời kì trước.
Mai Văn Phấn là một nhà thơ mang tâm thức hậu hiện đại, cách cắt nghĩa, lí
giải của ông về con người cũng không nằm ngoài vòng chung đó. Con người trong
thơ ông xuất hiện không lai lịch, gốc gác, không cả ngoại hình, tính cách. Họ
xuất hiện với tư cách là những mảnh ghép trong cuộc đời, là một sinh linh tham
dự vào cuộc sống này, không nổi bật, không nêu bật cái tôi như con người trong
văn chương hiện đại mà nó trở nên nhòe mờ, những con người bị lôi xoáy vào vòng
quay của cuộc sống:
Em đi cùng đám mây bông
Mình anh gió hú dọc sông Ngân Hà
Tàn mùa chiếc lá lia qua
Cho cô đơn ấy xẻ ra mấy phần
Sáng thì làm trăng thượng tuần
Lu thì ghép với mấy lần cong
vênh
(Một mình)
Thế giới con người trong thơ Mai Văn Phấn nhiều khi hòa chung với thế giới
đồ vật. Con người và loài vật cùng nhau sống, sinh hoạt:
Con gián bò quanh tôi và nói
vừa đầu thai được ba tháng tuổi
kiếp trước từng là người đàng hoàng
…
Đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?
Tôi không tin và đu lên khung cửa
Thế nhân chứng đâu? Vật chứng
đâu?
(Chuyện còn dài)
Vì
quá bất an với hiện thực trong cuộc sống hiện tại nên con người nhiều khi hình
dung thân phận mình với thế giới loài vật. Con người trong đoạn thơ trên đang
trò chuyện với con gián như hai người bạn. Con gián tâm sự nó vừa được đầu thai
chưa đầy ba tháng, kiếp trước nó cũng là con người bằng xương bằng thịt, không
những thế lại là con người đàng hoàng. Nhưng lời tâm sự của con gián lập tức bị
phản bác ngay: “đàng hoàng sao chịu phận xẹp lép?” Nghĩa là kiếp trước nó là
người tốt thì cơ sao kiếp này lại phải làm con gián, phải chịu kiếp loài vật.
Và con người cũng đang đắn đo trăn trở liệu rằng rồi đây tương lai của mình có
phải chịu số phận như con gián kia không khi mà xã hội hiện tại quá đỗi bất an,
đầy rẫy những vấn đề phải lo lắng và rồi con người cũng chấp nhận thỏa hiệp:
Tôi và con gián cùng hội thảo khoa học
cùng đeo khẩu trang, cùng ngắm hoa
cùng bẫy chim, cùng khắc phục hậu quả
cùng lau mồ hôi, cùng tiên tri
(Chuyện
còn dài)
Con
người và con vật – hai loài ở hai thế giới khác nhau nhưng giờ đây dường như
giao hòa làm một, cùng nhau tham dự hội thảo khoa học, cùng bẫy chim, còn khắc
phục hậu quả, cùng lau mồ hôi, cùng tiên tri... Có thể là do hiện thực cuộc sống quá ngột ngạt, éo
le mà con người phải hòa mình vào thế giới đồ vật, tìm thấy ý nghĩa của mình ở
trong đó. Bởi chăng mối quan hệ giữa con
người với con người quá căng thẳng, bởi chăng cuộc sống hiện tại quá đỗi bất
an.
Nhiều
khi muốn trốn tránh thực tại mà con
người muốn hòa mình vào thiên nhiên, muốn mình không còn là mình nữa. Con người
tìm đến thiên nhiên như một vị cứu cánh để giãi bày tâm sự. Thông qua mối quan
hệ giữa con người và thiên nhiên, Mai Văn Phấn muốn chuyển tải thông điệp của
mình đến cho người đọc. Trong thơ Mai Văn Phấn thiên nhiên không đơn thuần là
những vật thể vô tri vô giác mà nó có
hồn, có những quyền lực riêng và có thể
tác động tích cực hoặc tiêu cực lên đời sống của con người.
Trăng tỏa mềm đất rộng. Mặt đất lặng thinh dưới sức
mạnh trăng. Như những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng anh. Gió.
Gió tung bờm đột ngột
Tiếng vó anh khua vào xa tít
(Nhìn
anh)
Những
câu thơ hiện lên cho ta thấy rõ mối quan hệ giữa thiên nhiên, vũ trụ và con
người. Nhân vật “anh” hòa mình vào trời đất và cảm nhận được mọi sự thay đổi tế
vi nhất của thiên nhiên. Những cơn gió mát lành trong đêm trăng sáng được “anh”
cảm nhận như “những lằn roi ngựa hằn lên vai, quất mạnh xuống lưng”. Đây là sự
liên tưởng rất mới lạ và độc đáo. Con người và thiên nhiên như hòa vào nhau,
quên đi những phiền muộn của cuộc sống xung quanh. Con người trong thơ Mai Văn
Phấn tìm đến thiên nhiên, hòa vào thiên nhiên để cùng nhau sinh tồn. Con người
nhập cái tôi vào vũ trụ, vào thiên nhiên, vào thế giới để nhận ra cái tinh
thần, thần thái của muôn vật, để tìm ra hướng đi cho bản thân.
2.2.3. Con người khát khao
Ý nghĩa cuộc sống không
gì khác ngoài sự đam mê hay khao khát mãnh liệt một điều gì đó trong cuộc đời.
Một ngày nào đó điều này có khả năng sẽ chế ngự trái tim, linh hồn và thể xác
chúng ta. Nó có thể cháy mãi tới khi ta chết. Nếu con người biết trải qua nỗi
khao khát, đam mê sâu sắc ấy theo hướng thiện thì họ sẽ không sống vô ích. Nếu
hành xử ngược lại, nỗi khao khát, đam mê sâu sắc có thể trở nên độc ác bất nhân
ngay cả với chính bản thân mình.
Sống trong cái xã hội
ngột ngạt, phức tạp với đầy rẫy những lọc lừa, dối trá, con người luôn khát
khao một sự tẩy rửa, thanh lọc tâm hồn:
Thanh tẩy mãi vẫn không thấy sạch
Quay về tắm bằng ngọn đèn
(Tắm đầu năm)
Bài thơ mở đầu bằng một
sự phi lí, phi lí ở sự tắm. Thông thường người ta tắm bằng nguồn nước nhưng ở
đây Mai Văn Phấn lại tắm bằng “ngọn đèn”. Hai câu thơ mở đầu gợi cho ta một sự
suy ngẫm. Việc tắm ở đây không phải là tẩy rửa, gột bỏ đi những thứ nhơ nhớp,
bẩn thỉu bên ngoài cơ thể mà là loại bỏ đi những thứ không trong sạch bên
trong. Mai Văn Phấn đã vẽ lên một bức tranh “Tắm đầu năm” vừa ảo vừa thực, ngỡ
như nhắm mắt lại ta vẫn có thể hình dung được từng động tác, từng ý nghĩ của
nhân vật đang nghiêm trang thực hiện lễ tẩy trần đầu năm:
thử đưa bờ vai về phía ánh sáng
rồi cả hai tay
bàn chân, cằm, đầu gối
cả đôi tròng mắt và tiếng ho khan
tắm gội cho mùa xuân về
Sống trong xã hội đầy
rẫy những thị phi, rối ren hiện nay, cả thể xác và tâm hồn con người quanh năm
đều bị vấy bẩn. Việc tắm tất niên hay tắm đầu năm là không thể thiếu. Nhưng chỉ
với cách tắm thông thường thì làm sao có thể tẩy hết bụi trần? Chỉ có tắm bằng
ngọn đèn, tắm bằng ánh sáng tâm linh với một tấm lòng tôn kính và một nghi lễ
thiêng liêng như “Tắm đầu năm” mới mong thanh tẩy được mình để đón mùa xuân
đang tới. Ánh đèn xối vào những góc khuất của tâm hồn làm sạch mọi ngóc ngách.
Cả tâm hồn và thể xác con người bừng lên trong ánh sáng ấy như ngọn lửa. Họ đón
mùa xuân về với một tâm thế nhẹ nhàng, vui tươi, thoải mái, vô tư, hồn nhiên,
không bon chen, đua ganh, lọc lừa, toan tính.
Con người trong thơ Mai
Văn Phấn dù có bị cuộc sống làm cho quay cuồng đến nghẹt thở, mệt mỏi đến rã
rời thì họ vẫn khát khao đươc sống vô tư, hồn nhiên, được trở về với bản thể tự
nhiên của mình:
Lặng yên cho nước chảy
Xối xả lâu lạnh toát mình đá
…
Đá nhắm mắt an nhiên nước cuốn
(Đá trong lòng suối)
Bài thơ là một bức tranh
thiên nhiên về mùa xuân tuyệt đẹp. Khác hẳn với những bức tranh xuân của các
tác giả khác, bức tranh
của Mai Văn Phấn không có hoa mai, cũng chẳng có hoa đào... Bức tranh của ông
hiện lên với dây hoa leo, sắc hoa dại, với tiếng chim róc rách, với mấy con
voooc chà vá chân xám, mưa bụi bay, mây dừng chân, mùi ổi chin và hình ảnh con
nhím xù lông bất động.... Đây là bức tranh xuân được vẽ nơi rừng núi hoang vu
thơ mộng với đầy vẻ nguyên sơ, tinh khiết. Và nổi bật lên giữa bức tranh đó là
hình ảnh đá trong lòng suối: “nhắm mắt an nhiên”, “lặng yên cho nước chảy”.
Hình ảnh đá ở đây gợi tư thế thảnh thơi, bình lặng với tâm thế an nhiên tự tại.
Đá nằm yên ở trong lòng suối, mặc cho “nước chảy xối xả”, mặc cho “nước cuốn”
một cách an nhiên. Nhà thơ đã mượn hình ảnh đá ở yên trong lòng suối để nhắn
nhủ, gửi gắm tâm tư, nguyện vọng của chính mình và của mọi người:
Hơn hết lúc này
Ai hãy ở yên chỗ đó
Ai nấy xin hãy ở yên
chỗ đó, như hòn đá kia an nhiên trong lòng suối để không phá vỡ cảnh quan thiên
nhiên tươi đẹp của núi rừng. Cảnh quan ấy cũng đa dạng, phong phú như đời sống
của con người. Và mỗi người đều khát khao được tồn tại, được sống với dáng vẻ
hồn nhiên, vô tư, không muốn nhận sự can thiệp, sắp đặt của bất cứ thế lực nào.
Họ muốn được sống với chính bản thể tự nhiên của mình. Họ khao khát được trở về
với sự tinh khôi, hồn nhiên, trong trẻo của tâm hồn Việt, trở về với cội nguồn.
Cuộc sống như thế thật tươi đẹp và đáng quý biết nhường nào!
Không chỉ khát khao được trở về với bản thể
tự nhiên, con người trong thơ Mai Văn Phấn còn luôn khát khao được sống, khát
khao được là chính mình. Họ luôn nỗ lực không ngừng nghỉ trong bất cứ mọi thời
điểm, mọi hoàn cảnh. Cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, phức tạp, chính vì vậy
họ phải bản lĩnh, luôn tỉnh táo và sẵn sàng đứng dậy để chiến đấu để chống lại
hoàn cảnh. Khi cái chết càng đến gần thì khát khao được sống của con người càng
trỗi dậy mãnh liệt. Họ cố gắng bằng mọi cách để tìm được lối thoát cho cuộc đời
mình. Dù cái chết đã ở ngay trước mắt thì họ vẫn cố tìm cho mình một ánh sáng
và coi đó là lẽ sống, là động lực để tiếp tục và không bao giờ nản chí:
Cả chúng ta
nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm cách lọt qua
khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng người. Bật que
diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một mình trong bóng
tối.
(Biến tấu con quạ)
Con
người đang cồn cào trong đói khát, trong sự bất lực trước thế lực hùng mạnh.
Một ánh sáng le lói phát ra từ que diêm như nguồn sống lúc bấy giờ, thứ ánh
sáng đó tuy nhỏ nhoi, le lói nhưng có hơi ấm. Nó truyền cho con người sức mạnh
dẫu biết “ngọn bấc còn rất xa” để có thể cháy bùng lên, nhưng cũng là một động
lực để tìm đến sự sống. Bằng sự khao khát “vung tay lên” một cách mạnh mẽ, họ
cất tiếng nói to trong không khí bao trùm tử khí và bóng tối. Cả bài thơ đã bộc
lộ được khao khát cháy bỏng đứng lên giải thoát bản thân tìm đến nguồn sống.
Con người trong thơ Mai Văn Phấn luôn tiềm ẩn những sức mạnh to lớn, có khả
năng chống trả quyết liệt để bảo vệ những giá trị người ngay cả khi họ chỉ còn
là những linh hồn: Những linh hồn thoát
xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt đạn không gây
sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của bài học mới.
Tuy chỉ còn là linh hồn, nhưng cái tôi đã mạnh mẽ tìm về để chiến đấu với con
quạ. Trong cuộc chiến, cái tôi ý thức được kẻ thù của mình, không chịu khuất
phục ngay khi đã mất mạng và còn muốn chiến đấu với kẻ ác dù chỉ còn là linh
hồn. Cuộc chiến không gây sát thương bởi vì họ đã chết, kẻ thù không thể bắn
trúng những linh hồn.
Khao khát một cuộc sống là chính mình còn thể
hiện ở bản chất và cá tính của con người trong thơ Mai Văn Phấn. Con người
trong thơ ông dám liều mình chiến đấu, đối mặt với kẻ thù. Con người dám khác
biệt với những thứ tồn tại trong cuộc sống đương đại. Xã hội hiện đại với đầy
rẫy những bất an, và nạn trộm cắp là một trong số những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng đó. Chẳng ai xa lạ gì với những tin tức trộm cắp ra rả hàng ngày,
thậm chí là hàng giờ trên vô tuyến. Xã hội rối ren và nhiều người chấp nhận
cuốn vào cái vòng rối ren luẩn quẩn đó, họ chọn cách làm người xấu để mong cuộc
sống nhàn hạ chứ không chịu bỏ ra công sức lao động mà hưởng thụ. Và trước
những tin tức mang tính thời sự đó có mấy ai quan tâm, để ý tới. Người quan tâm
có chăng đó là những kẻ trong cuộc. Còn lại những kẻ ngoài kia đều chép miệng
may quá người bị lấy cắp không phải là mình. Chẳng ai quan tâm, để tâm an ủi
hay tìm cách giúp đỡ người bị nạn. Mai Văn Phấn luôn cảm thấy bất bình trước
cuộc sống thực tại ông luôn đau đáu tìm cách để mong có thể thay đổi cái trật
tự xã hội rối ren đó. Và trước tình cảnh hiện tại, ông dám lên tiếng, dám đối
diện với tên trộm để “tóm ngay kẻ vừa chui vào nhà bạn”. Ông muốn mình trở
thành một thám tử tư để tìm hiểu sự việc “nhà bạn” mất trộm. Từ những cảm xúc
ấy, ta thấy hiện lên hình ảnh của một con người có cá tính mạnh mẽ, sống vì bạn
bè trong mọi lúc khó khăn, hoạn nạn, sống có lí tưởng, dám đứng lên để chiến
đấu chống lại cái xấu, cái ác.
Để được là chính mình, con người không thể
sống nhạt nhòa mà phải thể hiện mình, bằng chính cá tính của mình. Trong thơ
Mai Văn Phấn, con người với cá tính mạnh mẽ không chỉ được thể hiện qua những
hành động cụ thể mà nó còn được thể hiện bằng những lời tự căn dặn, động viên
mình:
Đêm nay
Rắn rết, bọ
cạp tràn vào thành phố
Nhưng đừng sợ!
Nhà nào bây
giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt
Trời tối không
ai ra đường.
…
Ai đang rình
nấp trên cây
(Còn cậu hãy đứng đằng kia)
Sau những thông tin dự đoán về những thay đổi
kì lạ sẽ xảy ra “Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố”, con người như nói với
chính bản thân mình để trấn an nỗi sợ “Nhưng đừng sợ!”. Họ đưa ra hàng loạt
những chứng cứ, những giả thiết để bình tĩnh: Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt / Trời tối không ai ra đường.
Một cái tôi đầy mạnh mẽ quyết liệt đấu tranh
với nỗi sợ hãi của chính bản thân và của rất nhiều người, biết làm cho mọi thứ
trở nên đơn giản hơn và làm chủ tình huống hơn. Không những thế, khi biết rõ có
kẻ lợi dụng thông tin trên để “rình nấp trên cây”, thực hiện ý đồ đen tối, họ
đã đối diện với nó không một chút ngần ngại:
Thôi được
Để tớ mai phục
ở đây
và thức dậy
lúc năm giờ sáng.
Những câu thơ ấy cho thấy con ngươi hiện lên
với vẻ can đảm, mạnh mẽ dám đối diện với mọi thử thách trong xã hội đầy rẫy
những nguy hiểm rình rập, đe dọa tính mạng và những âm mưu của kẻ xấu.
Con người
trong thơ Mai Văn Phấn còn bộc lộ khát vọng được sống giao hòa với thiên
nhiên, được vươn tới những giá trị sống tốt đẹp:
Tự nhiên nhớ
em, rất nhớ
Anh không dám
nhìn đi nơi khác
Để trời xanh
ngấm xuống gót chân
(Vô tình trong nắng sớm)
Nhân
vật Anh trong bài thơ trên đang da diết nhớ về một người Em nào đó “tự nhiên
nhớ em, rất nhớ”. Theo lẽ cảm nhận thông
thường thì Em ở đây có thể là người yêu hay một người em nào đó. Nhưng Mai Văn
Phấn thường dùng Em để gọi tên cỏ, cây, hoa, lá, đất, nước… với tất cả sự trìu
mến nên có thể hiểu Em trong ngữ cảnh này là thiên nhiên. Nỗi nhớ Em không ùa
về lúc nào khác mà lại ngay lúc mưa. Phải chăng vì tiếng mưa đã gọi dậy nỗi
niềm tâm sự của con người và mưa ở đây cũng chính là hiện thân của Em đó. Nhớ
Em, “Anh không dám nhìn đi nơi khác” và “Để trời xanh ngấm xuống gót chân”. Từ
một hiện thực: nước mưa từ trên trời đổ
xuống ngấm đến gót chân Anh nhà thơ đã xây dựng nên một hình ảnh thơ lạ và độc
đáo “ trời xanh ngấm xuống gót chân” để diễn tả thời khắc giao hòa của đất trời
trong cảm nhận của con người. Với Anh, đó là thời khắc rất đẹp - vẻ đẹp lúc
trời đất giao duyên đã “ngấm” vào cơ thể và tâm hồn Anh. Lúc này “Anh không dám
nhìn đi nơi khác” nghĩa là Anh nhìn thẳng vào Em để tận hưởng phút giây tuyệt
đẹp đó.
Từng mưa to,
mưa rất to
Tắm cho viên
cuội nhỏ
Chỉ riêng hình
ảnh này
Đã làm anh yêu
đời mê dại
Thiên nhiên vốn dĩ đã thanh khiết, trong
trẻo, sau mưa lại càng thanh khiết hơn
vì được nước mưa thanh tẩy. Hình ảnh “viên cuội nhỏ” được mưa “tắm táp” thanh
tẩy chắc chắn thanh sạch hơn bao giờ hết. Hình ảnh viên cuội nhỏ được thanh tẩy
đã làm Anh yêu đến “mê dại” vì đó là hiện thân của thiên nhiên và của tâm hồn
con người được thanh tẩy.
Bên cạnh tình yêu thiên nhiên, con người
trong thơ Mai Văn Phấn luôn khát khao yêu đương mãnh liệt. Tình cảm đó vừa nồng
nàn, rạo rực vừa thuần khiết và thiêng liêng. Con người trong thơ ông khao khát
được bộc lộ và đón nhận tình yêu, tình dục nhưng không đưa đến cho ta cảm giác
thô thiển, trần trụi:
Mùa thu đổ những dòng thép nóng
Chảy về chầm chậm rót vào khuôn.
…
Những mái rạ xếp lên nhau thở dốc
Mặt đất nôn nao mở miệng sông hồ
Mùa thu chảy vào nỗi niềm thâm căn cố đế
Hơi nóng rân rân truyền lên thịt da.
(Quyền
lực mùa thu)
Đọc bài thơ trên của Mai
Văn Phấn ta không hề tìm thấy bất cứ một câu dung tục, sỗ sàng, bất nhã nào.
Tình yêu và hành động tính giao ở đây được ẩn sau những hình ảnh ẩn dụ, tượng
trưng “Những mái rạ xếp lên nhau thở dốc/ Mặt đất nôn nao
mở miệng sông hồ” và sự biến chuyển nhiệt lượng vũ trụ của mùa thu với
những quyền năng, sức mạnh khiến “mọi bền chặt” đều “đến giờ tan loãng”.
Con người ai cũng mong
có được cuộc sống bình yên, trọn vẹn, từ đó vươn tới những giá trị sống tốt
đẹp. Nhà thơ gửi gắm vào cái tôi trữ tình một thông điệp về cá nhân mỗi người
rằng hãy sống có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Tuy cách
sống, suy nghĩ… không giống nhau nhưng đều hướng tới một mục đích là khát khao
được sống, có cuộc sống trọn vẹn và sống có nghĩa.
2.3. Cảm quan về xã hội trong thơ Mai Văn Phấn
2.3.1.
Xã hội hiện thực
Xã hội hiện thực là hiện thực cuộc sống được
phản ánh vào trong tác phẩm văn học. Mỗi nhà thơ khi sáng tạo đều thể hiện sự
nhận thức của bản thân về cuộc sống hiện thực và nhu cầu bộc lộ cảm xúc của cá
nhân giữa cuộc đời. Theo Mai Văn Phấn, hiện thực trong tác phẩm văn học là một
“siêu hiện thực”. Tức là nó không còn là hiện thực khách quan mà đã được khúc
xạ qua lăng kính chủ quan của nhà thơ. Sự khúc xạ đó diễn ra như thế nào còn
tùy thuộc vào sự trải nghiệm, vốn sống, vốn kiến thức, nền tảng văn hóa của
từng cá nhân.
Xã hội hiện đại hiện lên trong thơ Mai Văn
Phấn đầy sóng gió, phức tạp, huyền hoặc, đầy bắt trắc. Trước hiện thực cuộc sống đó buộc con người
khát khao đi tìm tự do cá nhân . Cuộc sống vốn phức tạp với chằng chịt các mối
quan hệ xã hội nhưng các mối liên kết lại quá lỏng lẻo khiến nó có xu hướng ly
khai khỏi mọi sự ràng buộc mặc dù con người chẳng bao giờ có ý nghĩ nổi loạn:
Tôi đi xe hết
ga hết số. Răng nghiến chặt. Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt trên mặt đất... Đích
đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao
một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng...
(Đến trong ý nghĩ).
Mai Văn Phấn luôn đau đáu, day dứt, trăn trở
trước những mặt trái của xã hội hiện đại. Ở bài “Chỉ là giấc mơ”, Mai Văn Phấn
hình như đang phiêu lưu trong một ảo giác khủng khiếp, ở đó đầy rẫy những bất
công, lừa lọc, hèn hạ, xấu xa, đê tiện, ác độc... mà đỉnh cao là sự tha hóa của
con người đến mức trở nên ngang hàng với thế giới loài vật, đồ vật:
Chúng bịt
miệng
trấn lột mọi
thứ
và xin tôi bộ
phận sinh dục.
…
Tôi cúi xuống
đón chiếc ách lên vai
Tôi xù lông và
bắt đầu sủa lớn
Tôi lúc lắc và
kêu bíp bíp
Tôi mài cơ thể
mình xuống sàn nhà
Tôi chạy quanh
và miệng sùi sọt
Tôi nhễ nhại,
giả chết, lồng lộn
Tôi rã rời,
loạn nhịp, vỡ tung
Tôi thấm nước
và vắt ra nước.
Nhịp sống hiện đại quay cuồng nhiều khi khiến cho con người bị ngạt
thở, chao đảo. Sự văn minh đã đem lại
cho con người nhiều tiền đề vật chất và tinh thần để nâng cao chất lượng cuộc
sống. Nhờ khoa học kỹ thuật, con người đã thực hiện được rất nhiều công việc
phi thường, hiện thực hóa được rất nhiều thế hệ cha ông đi trước chỉ biết gửi
gắm vào những câu chuyện cổ tích. Cùng với nó là tốc độ đô thị hóa đang diễn ra
rất nhanh chóng, nhiều thành phố và khu công nghiệp mọc lên như nấm dại sau cơn
mưa rào, bộ mặt nông thôn và thành thị đang thay đổi từng ngày. Con người có đủ
điều kiện thoát khỏi ý nghĩa ăn no mặc ấm để hướng tới ăn ngon mặc đẹp. Công
bằng mà nói, công nghiệp hóa hiện đại hóa đã mang đến cho chúng ta rất nhiều
mặt tích cực, trong xu thế hội nhập đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở
cửa đón nhận những làn gió mới từ các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng, mặt
trái của nó giống như một quá trình biện chứng của sự vật. Cái được luôn đi
cùng với cái mất. Bên cạnh những yếu tố tích cực luôn tồn tại song song trùng
với mặt tiêu cực. Khi xây dựng thêm một khu công nghiệp là đồng nghĩa với việc
chấp nhận tăng cường một luồng ám khói cho lá phổi xanh, chúng ta mong muốn
được đón những ngọn gió văn hóa trong lành nhưng những nguồn gió độc cũng tràn
vào không ít. Cuộc sống ở đô thị cũng đã mang lại nhiều tiện nghi vật chất
nhưng nó chật chội, bức bối, ngột ngạt và tiềm ẩn rất nhiều bất an. Không còn
những bãi cỏ ngát xanh để con người tha hồ đùa giỡn, trò chuyện; không còn
tiếng chim hót líu lo, yên bình trên những cành cây cao vút… Cánh đồng cỏ giờ
đây đang héo quắt vì bệnh tật, đàn chim đang bay chập choạng, rũ rượi cố công
hát bài ca đánh dấu sự sinh tồn. Con người trong môi trường ấy dường như bị
giam cầm quanh bốn bức tường ngột ngạt, đôi lúc chúng rối tung lên như cách ông
miêu tả trong bài “Quay theo mái
nhà”:
Đêm tỉnh dậy. Đồ gỗ trong phòng mọc tua tủa
nấm nhĩ. Bức tượng chảy xệ xuống thành nắm đất nhão. Chiếc quạt mở ra lần cuối
rồi khép lại làm ống tre. Trong bóng tối, tiếng những nghệ nhân đã khuất cùng
đồng vọng:
- Hãy quay theo mái nhà đánh thức các đồ vật!
Tôi quay cùng chai lọ, con giống, bóng đèn…
qua môi người thợ thổi thủy tinh, qua con chữ rùng mình nhìn bột giấy chìm
trong thuốc tẩy. Những giọt mực tụ lại rồi loang xa như một vết dầu. Bộ quần áo
trang nghiêm rũ xuống. Đấy là giờ mặc niệm tơ tằm và những cây bông. Bóng tối
nuốt sạch thực phẩm ôi thiu, không khái niệm về văn hóa ẩm thực. Hương trà thơm
về rừng. Nước gào thét trong chiếc ấm bục đáy.
Họ thật sự bị cầm tù bởi những khối bê tông,
những tòa nhà cao tầng không ngừng mọc lên và đau đớn hơn là bị cầm tù bởi
chính những guồng máy khổng lồ do họ tạo ra, với những kiểu suy nghĩ, những
cách hành động như máy móc. Mặt trái của quá trình đô thị hóa không chỉ biểu
hiện ở bình diện nổi (vật chất) mà nguy hại hơn là nó đang xâm nhập vào tâm lí
của con người (tinh thần). Dần dần, cuộc sống vật chất đầy đủ đã khiến những
con người ở đô thị bước vào địa hạt của sự hưởng lạc với nhiều thú vui tiềm ẩn
và những nỗi bất an.
Mai
Văn Phấn đã dùng ngòi bút của mình để làm nổi bật những vấn đề phức tạp, rối
ren của xã hội đương đại, làm nổi bật những hiện trạng bất ổn của đời sống. Đó
là tình trạng quản lý nhiễu nhương, áp đặt thay vì lắng nghe:
Không bảo được
Thanh trừng Bỏ
phiếu kín
(Xử lý nghiêm)
Đó là sự lãng phí được cho phép, là có lý do,
là không thắc mắc:
Còn tươi
Vẫn phải thay
Vì cuộc họp
khác
(Hoa ở hội trường)
Những
bông hoa, những lẵng hoa được trang trí trong hội trường chỉ đóng vai trò là yếu tố phụ, góp phần điểm
xuyết, tăng phần trang trọng cho các cuộc họp. Nếu thiếu những yếu tố đó nội
dung cuộc họp cũng không có gì thay đổi chứ khoan hãy nói đến việc là thay đi
khi vẫn còn tươi. Qua đó cho thấy được thái độ ích kỉ, tham lam của một số bộ
phận con người làm ảnh hưởng đến ngân sách chung. Họ chỉ chăm chăm cho lợi ích
của bản thân mình. Quả thật đáng trách!
Đó là sự thờ ơ của những kẻ được giao quyền
“cầm cân nảy mực”:
Vẽ một nét
Vào đâu
Mặc
(Quy hoạch con đường)
Chỉ với ba dòng thơ ngắn gọn nhưng củng đủ để
phơi bày được thực trạng công việc của các nhà cầm quyền trong xã hội đương
đại. Nhan đề thể hiện sự quan trọng,
chỉnh chu, tầm cỡ bao nhiêu thì khi đi vào bài thơ lại càng thể hiện sự qua
loa, tùy hứng bấy nhiêu. Còn lại sau cùng, kết thúc bài thơ chỉ là một từ
“mặc”, mặc con đường được thực hiện ra sao, đi vào hoạt động thế nào, đời sống
dân cư hai bên đường bị ảnh hưởng gì… đó không phải là điều mà nhà đầu tư, nhà
lãnh đạo, quy hoạch thực sự quan tâm. Xã hội ngày càng lụi tàn há chẳng phải
bởi những người cầm đầu như thế sao?
Không dừng lại ở việc nhìn thấy và chỉ ra
những mối đe dọa từ đời sống bên ngoài, bằng cái nhìn tinh tế, cảm thông và đầy
dự cảm, Mai Văn Phấn còn nhìn ra được những bất ổn, những mối đe dọa ngay cả
trong đời sống tinh thần của mỗi con người hiện đại. Đó là thực trạng con người
không được và không dám sống là chính mình, mờ nhòa dần những định hình căn
cước:
Ai cũng thất
vọng
Không dám nói
Vậy hãy
viết
(Nhật ký)
Nền công nghiệp biến con người thành đồng bộ
trong những bộ đồng phục, thể chế vẽ nên tương lai và phân phát những giấc mơ
giống nhau cho hết thảy mọi người. Những bản thể cá nhân riêng biệt, đậm cá
tính đứng trước mối đe dọa mất quyền tự do, quyền tự quyết:
Ghi giấc mơ
Vào mẩu giấy
Nộp cho một
người
(Mọi người)
Và một hiện thực trần trụi nữa hiện lên trong
thơ Mai Văn Phấn đó là cuộc sống ảo. Con người trong xã hội hiện đại dường như
quên đi những khó khăn trong cuộc sống trước đây và với thời kì công nghệ 4.0 –
họ sống như những cổ máy chỉ biết tô vẽ, làm đẹp cho thế giới ảo của mình:
Sống kín đáo
Giờ có
facebook
Gặp cảnh gì
cũng chụp
(Bác tôi)
Bác tôi trước đây là một người sống kín đáo,
khiêm nhường, ít khi phô diễn. Thế nhưng từ khi tiếp cận với công nghệ, sử dụng
smart phone, biết đến facebook dường như trở thành một con người khác – gặp cái
gì bác cũng chụp ảnh lại để đưa lên facebook. Thậm chí có những người kè kè
điện thoại ở bên suốt ngày, không quan tâm gì đến cuộc sống xung quanh, chỉ
chực chờ xem xét cuộc sống ảo ở trên mạng. Đi theo xu hướng, tiếp cận công nghệ
là tốt, nhưng cái gì cũng có tính hai mặt của nó. Cái gì cũng cần có chừng mực
để tránh xảy ra những hệ lụy không đáng có.
2.3.2. Xã hội phi lí
Bất tín nhận thức (Epistemological
Uncertainty) là một phạm trù thế giới quan tiêu biểu nhất cho ý thức hậu hiện
đại. Là sự khủng hoảng niềm tin vào các
siêu giá trị đã tồn tại. Các nhà hậu
hiện đại quan niệm về thế giới như một sự hỗn độn, vô nghĩa và bất khả nhận
thức, thế giới phi trung tâm mà con người trong mối quan hệ với nó luôn thể
nghiệm “sự hoài nghi quyết liệt mang tính nhận thức luận và bản thể
luận”(N.Bertens). Bất tín nhận thức về một thế giới hỗn mang, một hiện thực
thậm phồn (hyper-reality) là một phạm trù thế giới quan tiêu biểu nhất cho ý
thức hậu hiện đại. Con người không biết chắc thế giới, và cũng hoài nghi cả suy
nghĩ hay hành động thường nhật của bản thân. Thuật ngữ “bất tín nhận thức” hay
bất tín lý trí thuần túy (Epistemological Uncertainty) đã được Immanuel Kant
(1724-1804) đề cập từ lâu. Sau đó được các nhà lý thuyết hậu hiện đại như
Jacques Derrida (1930–2004), Jean Francois Lyotard (1924)… phát triển. Theo đó
vấn đề được hiểu rộng ra đó là:“con người bất tín vào đấng tối cao [đủ loại
đấng tối cao], bất tín hệ thống [triết học hay ý thức hệ chính trị], bất tín
ngay cả nhận thức của chính mình” [26,189]. Điều đó có nghĩa là họ không đặt
niềm tin vào bất cứ nguyên tắc cấu trúc nào thuộc quan niệm tổ chức thế giới
như Thượng đế, chúa trời hay các quy luật vật lý. Các nhà văn hậu hiện đại phản
ánh hiện thực đời sống là một mớ hỗn độn giữa thực và ảo. Cũng như nhiều nhà
thơ hiện nay, thơ Mai Văn Phấn phản ánh hiện thực bất an phi lí là biểu hiện
của cảm thức hậu hiện đại. Cụ thể hơn đó gọi là
tính hiện thực thậm phồn. Nó tạo cho con người cách làm quen với một
cách hiểu mới về một hiện thực mới, đó
là hiện thực “của bất cứ điều gì con người có thể nghĩ hay tưởng tượng được”
[47]. Con người không còn tin vào các chủ thuyết lớn. Không tin vào những gì
tốt đẹp làm nền tảng, lí tưởng ở cả ba thì: Quá khứ - hiện tại - tương lai.
Trong tư tưởng của Mai Văn Phấn có sự phá sản của niềm tin thần thánh, Chúa,
Thượng đế. Thượng đế hay chúa trời hoặc những đấng tối cao là niềm tin để che
chở cho con người. Trước một thực tại đảo lộn, phi lí khiến niềm tin ấy dần hao
mòn đi, con người rơi vào trạng thái bất an, lo lắng. Các chủ thuyết lớn vẫn
đang tồn tại nhưng đang bị “Giải trung tâm”, niềm tin bị lung lay nghiêm trọng,
vì thế con người không còn tin vào điều kỳ diệu trong cuộc sống, họ sợ rằng một
ngày nào đó sự sống sẽ biến mất:
Vũ trụ choàng
áo đen lên con
Chỉ hở đôi mắt
cầu nguyện
Lầm rầm con
vẫn nghĩ
…
… bàn tay
trắng máu đen lưỡi trắng nước mắt đen lưng trắng vành tai đen lọn tóc trắng mồ
hôi đen…
Màu đen tràn
lên mọi điều sẽ kết thúc
Hãy nguyện cầu
cứu lấy nhân gian
(Cửa Mẫu)
Mai Văn Phấn
đã thể hiện chất hiện thực là sự chiêm nghiệm về một thế giới đầy mâu thuẫn,
khó hiểu, khó lí giải. Cuộc sống như những mảnh vỡ được đan cài bởi những mặt
đối lập. Bản chất của thực tại đôi khi thật phũ phàng nhưng buộc con người phải
chấp nhận:
Bình minh lên
chiếu sáng nửa đời
Còn nửa kia
chìm vào bóng tối
(Màu xanh)
Bình minh mang ánh sáng chiếu nửa địa cầu và
nửa địa cầu kia chìm vào bóng tối, một hiện tượng tự nhiên bất biến nhưng hai
chữ “nửa đời” gợi nhiều liên tưởng. “Đời” là trái đất, cõi đời mà cũng là cuộc
đời, đời người. Ánh sáng của bình minh soi chiếu tâm hồn con người. Con người
trước ban mai thanh khiết mà tự nhìn nhận chính mình, đối diện với bản lai diện
mục của mình. Và phải chăng không có con người hoàn hảo. Trong mỗi chúng ta đều
tồn tại song song những mặt đối lập tốt – xấu, thiện – ác, thiên thần – quỷ
dữ,… Phần dễ nhận diện là phần “sáng”, phần lẩn khuất là “bóng tối”. Cuộc đấu
tranh giữa “ánh sáng” và “bóng tối” trong mỗi người cũng khốc liệt “một mất một
còn” như cuộc giao tranh giữa bình minh và bóng tối của vũ trụ, của hai nửa địa
cầu.
Trong thơ Mai Văn Phấn hiện thực ấy còn là sự
mơ hồ, thực và ảo lẫn lộn. Ở bài Chọn
cảnh, ta thấy con người cảm nhận không gian bằng con mắt đầy lí tính, những
va đập mạnh của các giác quan. Bài thơ còn cho thấy mối giao hòa đặc biệt, thơ
đi giữa nhiều đối cực, giữa thời sự và tâm linh, mơ mộng và thực tại, nóng bỏng
và chán chường… Bầu khí quyển như bị rút cạn khiến con người cảm thấy cuộc sống
trở nên ngột ngạt, khó thở, bơ vơ và vô định:
Trong mơ ngả mình trên
biển
gối đầu lên tay em
…
Tôi mang giấc mơ ra phố
lúc ăn sáng thấy mình
giống miếng mộc nhĩ
sôi lên trong nồi nước
dùng
nồi nước sâu 8 mét
Vào thăm bạn trong ngõ
hẹp
biển số nhà giống miếng
mộc nhĩ
đang sôi trong nồi nước
dùng
tiếng bạn vọng từ độ sâu
8 mét
Khép bớt cửa vì lạnh
Hơi ẩm mơ hồ ngấm xuống
rất sâu
(Chọn cảnh)
Một bài thơ luôn mang
lại cho ta những bất ngờ đến từ mỗi câu thơ và ta không thể đoán định nổi câu
thơ trên Mai Văn Phấn sẽ viết gì về “cái độ sâu 8m” đã ám ảnh nhà thơ (và ám
thị luôn cả người đọc). Ta thấy có vẻ như ở đây hiện lên sự phi lí, phi đời
sống và phi hiện thực. Và ở giác độ mới này, nhà thơ đã phát hiện giúp chúng ta
những cảm nhận khác lạ về một số hiện tượng đời sống ở những góc rất khôi hài
và nhiều ý vị.
Và
cái xã hội phi lí kia hiện lên rõ nét hơn, đậm màu hơn trong tập thơ mới ra lò
của Mai Văn Phấn – trường ca Thời tái chế.
Là những trang thơ tái hiện cuộc sống hiện thực, thể hiện cái nhìn về xã hội
hiện tại. Nhưng càng tái hiện nó càng nổi rõ sự hỗn độn, bất an, phi lí. Xã hội
trong hiện tại là “mớ
bòng bong, ổ con nhện khổng lồ”, là một
vùng đất “đang lồng lên
như ngựa vía”. Đất nước lúc này là tập hợp của những mô hình rời rạc, lắp
ghép một cách cơ học, vĩnh viễn không thành một chỉnh thể. Tất cả hiện lên
như một sân khấu khổng lồ mà các nghệ sỹ “ai cũng cười giống nhau”. Nhưng
kì lạ nhất, đó lại là một sân khấu trống rỗng. Nó trống bởi thực chất
đó là thực tại đang diễn ra. Một thứ thực tại nước đôi vừa là nó vừa sắm vai
chính nó. Với một cá nhân hoặc một cộng đồng, hiện thực là không khí để hít thở
hàng ngày, là môi trường để vận động từng giây từng phút. Nhưng trong tổng thể,
tất cả đều chỉ là sản phẩm của một đạo diễn “kẻ tiên tri, người tổ chức, nhà thấu thị” đang
“mỉm cười khó hiểu, rồi bỏ ra
ngoài hút thuốc vặt”.
Xã hội hiện tại có quá nhiều mặt trái, nhiều ngóc ngách,
ngã rẽ, nhiều đến mức con người không thể nào thấu hết được. Xã hội quá rộng
lớn, cuộc sống cứ diễn ra và con người cứ ngày ngày quay vòng theo guồng cuộc
sống đó. Có những điều chúng ta nhìn thấy được, cảm nhận được, nhận thức được
bằng lí trí và có những điều khó nhận ra
bởi nó được phủ sau một tấm màn chắn. Chúng ta như bị bịt mắt trước những sự thật đời
sống bày ra hiển nhiên “sau
khi được bôi mặt trắng, anh ta nhìn sang trần gian bỗng toát mồ hôi. Sao ở bên
đó bao nhiêu năm mà nhiều lẽ giản đơn, tự nhiên anh ta không biết”.
Xã hội
ngày càng phát triển nhưng kéo theo đó cũng đi kèm với bao nhiêu hệ lụy. Cuộc sống công nghiệp hóa, đô thị hóa không đồng đều
dẫn đến thực trạng xã hội càng có sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt. Cứ tưởng rằng
xã hội phát triển, văn minh thì cuộc sống người dân càng ổn định, sung túc. Thế
nhưng người ổn định cứ ổn định, kẻ vơ vất vẫn vất vơ. Chỉ với ba câu thơ ngắn
gọn, chỉ thông qua hình ảnh “con chó béo ú” nhưng chẳng thuộc về làng, Mai Văn
Phấn đã làm phơi bày được sự xác xơ, khốn khó của làng quê nơi đây. Cuộc sống
vốn dĩ là không công bằng, nhưng đến mức kẻ giơ xương người tròn lẳn thế thì
quả là quá bất công:
Làng quê nghèo
Gặp con chó béo ú
Chắc ở đâu đến chơi
(Qua ngõ hàng xóm)
Trong
thế giới này, nhiều thứ tưởng như hữu hình thì hóa ra đều là hư vô. Cuộc đời
tưởng là rộng lớn nhưng thực ra lại rất chật hẹp, quẩn quanh, nhàm chán, đơn
điệu và bế tắc. Con người sống giữa cuộc đời luôn hoài vọng về những điều tốt
đẹp, tưởng như có thể tự nắm bắt được số phận của mình nhưng thực ra họ chỉ là
những hạt cát bé nhỏ, trôi dạt, vô định, luôn phải đối mặt với những bất trắc
và rủi ro. Nền văn minh mà con người cố tạo dựng đôi khi lại trở nên vô nghĩa,
vì chính nó lại đang tạo ra những giá trị ảo khiến con người mất phương hướng.
Con người mất niềm tin vào chính nền văn minh của mình. Hiện thực cuộc sống hỗn
độn, bấp bênh, phi lí đã khiến cho con người nói chung và những người nghệ sĩ
nói riêng cảm thấy bất an. Thế giới ấy không còn nguyên vẹn như trước mà thay
vào đó là nỗi thất vọng, chán chường.
2.3.3. Xã hội trong tưởng tượng
Xã hội
trong tưởng tượng được hiểu đó là thế giới hiện lên trong tâm tưởng, trong ý
nghĩ của nhà thơ. Nó diễn tả thế giới mà nhà thơ khao khát được bước vào, nó
khác với cuộc sống thực tại mà nhà thơ đang sống. Xã hội đó, cuộc sống đó bao
giờ cũng tươi đẹp, viên mãn hơn, nó không chỉ là niềm khát khao, niềm mơ ước
của nhà văn mà của bao con người đang sống trong xã hội hiện tại. Trong sáng tác, các thi sĩ thường có cái hơn
người ở năng lực tưởng tượng. Trí tưởng tượng phong phú giúp họ tồn tại mãi với
thời gian. Đặc biệt, trong thơ, nếu tác giả không biết cách rèn luyện về khả
năng tưởng tượng trước thế giới hiện thực sẽ khó có tác phẩm gây ấn tượng với
bạn đọc. Tưởng tượng là năng lực luôn đi liền với trí tuệ và tài năng của nhà thơ.
Đọc thơ Mai Văn Phấn ta thấy có rất nhiều bài được xây dựng từ trong giấc mơ,
trong ý nghĩ. Nó phản ánh tâm tư, nguyện vọng và bao khát vọng nhà thơ muốn gửi
gắm về một xã hội tương lai:
Em và anh tụ thành nước
mát
mưa xuống những nụ hôn làm
lại thế gian
(Những bông hoa mùa
thu)
Với Mai Văn Phấn, con người là chủ nhân của
thế giới, vậy chính con người mới có thể làm chủ cuộc sống của chính mình, tìm
lại những điều mà mình mong muốn và xây dựng nó ngày càng tươi đẹp hơn. “Em” và
“anh” là hai giọt nước, là hai cá thể độc lập, nhưng tình yêu đã gắn kết em và
anh lại với nhau thành dòng nước mát, em và anh đã hòa vào nhau tạo nên một
tình yêu cao đẹp và thánh thiện. Tuy nhiên, thứ tình yêu đó có nghĩa lí gì? Em
và anh giờ đây không còn là hai cá thể, không còn là hai con người độc lập
riêng rẽ, hai giọt nước vô định nữa và tình yêu của anh và em cũng không còn là thứ tình cảm riêng tư nữa,
nó đã hòa vào dòng nước chung của cõi nhân gian trong một cơn mưa. Tình yêu ấy
góp phần dựng xây lại thế giới này, để cõi người thực sự “người” hơn.
Con người trong xã hội hiện tại luôn mơ đến một thế giới tươi đẹp, không
xô bồ, thị phi, không rối ren, lọc lừa. Và sống trong xã hội đó con người không
cần phải đề phòng nhau, họ có thể thoải mái, vô tư hưởng thụ cuộc sống:
Con chó mơ
thức dậy trong nắng sớm
quen hơi những người khách qua đường
không cần xồ ra và sủa giận giữ
không bị khinh rẻ đánh đập
thức ăn quen đã bày
Tôi mơ:
đêm ngủ không cần khóa cửa
ra đường chẳng ai lừa mình
họ nghĩ sao nói vậy
thoáng món ăn ngon và nắng đẹp
(Nếu)
Con chó mơ đến một
thế giới tươi đẹp, trong thế giới đó nó được thức dậy đón ánh bình minh, nó đã
quen hơi những người qua lại, không cần phải đề phòng, dò xét là người quen hay
kẻ lạ, là kẻ thiện lương hay quân trộm cướp. Con chó cũng mơ nó được sống cuộc
đời của mình, được ăn những món ăn mà mình yêu thích, đến bữa đã được bày dọn
sẵn, và nó không còn bị khinh rẻ, đánh đập. Con chó muốn trở thành những người
bạn thân thiết, bạn tâm giao của con người chứ không phải là giống hạ đẳng, bị
coi thường. Và con người cũng tưởng tượng đến một cuộc sống bình yên, đêm đi ngủ không cần phải khóa cửa,
không cần phải lo lắng vì nguy cơ kẻ trộm đột nhập bất cứ lúc nào. Họ mơ con người sống thật lòng với nhau,
không toan tính, lọc lừa. Và con người cũng muốn an yên hưởng thụ cuộc sống với
những món ăn ngon, những ngày nắng đẹp. Cuộc sống là những chuỗi ngày bình yên
dần trôi, vui vẻ và hạnh phúc.
Trong rất nhiều bài
thơ của Mai Văn Phấn đã trực tiếp hay gián tiếp nói đến sự bất an của xã hội.
Nhưng ở trong bài thơ “Ngậm em trong miệng” những nỗi bất an đó đã được ông
liệt kê ra hàng loạt không né tránh: chiến tranh, dịch hạch, thị phi, cạm bẫy,
lọc lừa, lối đi đầy gai nhọn, bão tố triền miên… Và để có thể bảo vệ tốt cho em
– tình yêu của anh, hạnh phúc của anh thì anh phải biến thành “bức tường” để
ngăn chặn. Và cách tốt nhất là giấu em vào trong miệng anh – một thế giới không
hề có những thứ đó tồn tại khiến anh luôn bất an, lo sợ vì sự an nguy của em.
Mai Văn Phấn đã mượn hình ảnh anh và em để vẽ nên bức tranh xã hội toàn cảnh –
một xã hội rối ren, phức tạp, đầy rẫy bất an. Và sống trong xã hội đó con người
muốn an yên thì chỉ còn cách lui về củng cố cái đơn vị xã hội nhỏ bé của mình
là gia đình riêng. Từ cái riêng làm nên cái chung, từ cái nhỏ xây dựng nên cái
lớn. Trật tự xã hội nhờ đó mới được yên ổn:
Luôn tin có em trong miệng anh
Nơi không chiến tranh, dịch hạch
Mũi tên bắn lén tẩm độc
Thị phi, cạm bẫy, loc lừa
Lối em đi không còn gai nhọn
Bão tràn qua anh dựng tường ngăn
(Ngậm em trong
miệng)
Để tránh xa thị
phi, cạm bẫy, lọc lừa, để rời xa chiến tranh, dịch hạch – Mai Văn Phấn hướng
suy nghĩ con người đến một thế giới mới, và trong thế giới đó con người được tự
do làm điều mình thích:
Ta là chiếc bình gốm hở miệng
Thông với bên ngoài
Trong tôi
Vườn ươm hạt giống
Nắng sớm đang tưới
Đẫm từng gốc
(Tĩnh lặng 11)
Chủ thể phát ngôn
của bài thơ tự giới thiệu mình là một chiếc bình gốm. Phải chăng được làm
người, được sống trong thế giới loài người quá nhiều thị phi này khiến con
người ta qua sợ hãi, muốn xa lánh và muốn được sống như những chiếc bình kia?
Chiếc bình mà thi sĩ nhắc đến ở đây không phải là chiếc bình gốm thông thường
mà nó là chiếc bình của Bồ tát. Đó là chiếc bình ban dưỡng chất cho thế gian
sầu thảm và tưới nước gột rửa những bạo tàn của thế giới. Vậy phải chăng khi
muốn trở thành chiếc bình là nhà thơ muốn mang trong mình một khát vọng lớn lao
– muốn cứu thế giới? Chiếc bình gốm đang mở miệng ra với thế giới bên ngoài
kia. Có cái gì bên trong chiếc bình này? Có cái gì bên trong cơ thể này? Mỗi cơ
thể mang trong mình một khu vườn. Và mỗi người tùy ý gieo hạt với sự lựa chọn
của mình nơi đó. Và những sự lựa chọn của mình được đâm chồi nảy lộc dưới sự
giúp đỡ của tạo vật – nắng sớm tưới đẫm từng gốc.
Cuộc sống quá nhiều những rối ren, thị phi, cạm bẫy nên con người mới
mang trong mình những mơ ước, hoài bão, khát vọng. Mai Văn Phấn đã xây dựng trong
tưởng tượng của mình một thế giới không chỉ riêng ông mà đó là điều mà ai ai
cũng mong muốn. Ở trong thế giới đó con người sẽ được làm chủ cuộc sống của
mình, được tự do làm những điều mình thích, và chính con người cùng với tình
yêu của họ sẽ cứu rỗi thế giới, làm cho thế giới trở nên tươi đẹp hơn. Xã hội
tươi đẹp hơn đó là một nơi mà mọi người sống vui vẻ, hạnh phúc, hòa thuận với
nhau, không lọc lừa toan tính, không cạm bẫy thị phi. Con người sẽ ươm mầm, tắm
tưới cho cuộc sống xã hội ngày càng tươi đẹp hơn, đúng như cuộc sống mà họ hằng
khát vọng, ao ước.
Tổng hợp các tác
phẩm có dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ cảm quan về cuộc sống, con người và xã hội
được sử dụng trong luận văn, chúng tôi có bảng hệ thống (xem phía dưới Tài liệu tham khảo).
Như vậy, trong 11 tập thơ của Mai Văn Phấn được
sử dụng trong luận văn, chúng tôi đã khảo sát dấu ấn hậu hiện đại nhìn từ cảm
quan về cuộc sống, xã hội và con người ở 65 bài thơ tiêu biểu. Có thể những bài
thơ này không phải là những bài thơ tiêu biểu nhất của Mai Văn Phấn nhưng đây
là những tác phẩm thể hiện rõ nhất dấu ấn hậu hiện đại xét về phương diện cảm
quan về cuộc sống, con người và xã hội.
*
* *
Cảm quan về cuộc sống, về con người và xã hội
chính là động lực thúc đẩy, kích thích sự thay đổi, sự đổi mới thơ ca của các
thi nhân. Chính hiện thực cuộc sống bề bộn, ngổn ngang, phức tạp đó đã tác
động, thúc đẩy một sự biến đổi mạnh mẽ. Xã hội chúng ta đang sống là xã hội
hiện đại nhưng đã mang tâm thức của thời hậu hiện đại. Xã hội ấy đem đến cho
con người những lợi ích thiết thực, những nhu cầu được giải tỏa, sự tiến bộ và
văn minh hướng đến cái tốt đẹp, những giá trị chân – thiện – mỹ sâu sắc. Nhưng
mặt khác cũng chính xã hội ấy lại bắt đầu nảy sinh những mâu thuẫn và hoài
nghi, những giằng xé cuộn sóng. Sống trong xã hội rối ren, phức tạp đó, hình ảnh con người hiện lên là
những mảnh ghép cô đơn, là những con người vô bản sắc, là những con người với những mong muốn, khát khao mãnh liệt. Mai Văn Phấn
luôn đổi mới bút lực của mình. Chính cái nhìn về thế giới, về cuộc sống của Mai
Văn Phấn đã làm thay đổi tâm thế và hình thức thơ ông. Thơ Mai Văn Phấn ngày
càng có sự cách tân táo bạo, đi gần hơn với nền văn chương hậu hiện đại. Chính cảm quan về cuộc sống, con người và xã hội mang đậm dấu ấn hậu hiện
đại đó đã tạo sức hút đối với người đọc.
CHƯƠNG 3
DẤU ẤN HẬU HIỆN ĐẠI TRONG THƠ MAI VĂN PHẤN
NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN
3.1. Ngôn ngữ thơ Mai Văn Phấn
Thơ ca lấy ngôn ngữ làm
phương tiện biểu hiện cho mình. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, tư duy thơ lại
thay đổi theo tư duy cuộc sống và những yêu cầu của thời đại. Điều đó kéo theo
những biến đổi tất yếu trong ngôn ngữ thơ. Không thể đặt một thứ “rượu mới”
trong một chiếc “bình cũ”. Tư duy thơ hiện đại không thể nằm trong lớp vỏ ngôn
ngữ ước lệ, tượng trưng của thơ ca trung đại, cũng như chẳng thể dùng ngôn ngữ
trang trọng một thời trong thơ ca cách mạng để diễn đạt tư duy tỉnh táo, lí
trí, thực tế của thơ ca thời đại hôm nay. Đánh giá về vai trò ngôn ngữ thơ, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Chính con chữ, qua cấu trúc nghệ thuật
của nhà thơ sẽ cho ta hiểu được chiều sâu và sự ngân vang của tình, giọng điệu
và tư tưởng nghệ thuật của họ... Trong thơ, chữ cũng chính là tư duy, là cách
nói và thái độ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo. Như vậy, sự đổi mới trong thơ
bao giờ cũng là sự đổi mới đồng bộ giữa cái nhìn nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ
và vai trò của nó” [31; 29]. Để đánh giá, nhìn nhận một tác phẩm, một phong
cách tác giả, hay một thời kì văn học, yêu cầu đầu tiên là phải thâm nhập được
vào mã ngôn ngữ, để rồi từ đó phát hiện ra được những vấn đề tiềm ẩn trong lớp
vỏ ấy: tư duy, tài năng, phong cách của người cầm bút...
Mỗi nhà thơ trong quá
trình sáng tác đều cố gắng tạo cho mình một phong cách, và cũng chú ý xác lập
nên một mã ngôn ngữ riêng. Mục đích cuối cùng là tạo ra được sự hòa hợp, thống nhất giữa cảm hứng thơ và ngôn ngữ
biểu hiện, tạo nên một thể nhất quán, để trong đó mỗi từ mỗi câu được sử dụng
đều có khả năng chuyển tải trọn vẹn cảm xúc, tư duy của người viết và đóng
những dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Thơ Mai Văn Phấn về đại thể có thể
nhận thấy một số đặc điểm nổi bật sau:
3.1.1. Ngôn ngữ mơ hồ hóa
Một trong những đặc tính
nổi bật của thơ đó là tính mơ hồ hóa. Tính mơ hồ này không mâu thuẫn với tính
chính xác. Tất cả đều được nghệ thuật hóa thể hiện tư tưởng của nhà thơ. Tính
mơ hồ trong ngôn ngữ thơ là một trong những yếu tố đặc biệt. Nó được thể hiện ở
chỗ các tác giả muốn hướng người đọc đến sự không rõ ràng, rành mạch, không xác
thực, như thực như hư. Thơ gợi nhiều hơn tả, khoảng trống trong thơ chứa đựng
khoảng lặng giàu suy tư cảm xúc, nó đưa người đọc đến tận cùng của suy nghĩ. Sở
dĩ vậy, xét về mặt nội dung, thơ giàu tính mơ hồ vì nó nhiều hình ảnh, hàm súc,
ý ở ngoài lời. Trên phương diện hình thức, thơ ca cũng mang tính mơ hồ, bởi vì trên
mặt giấy ngoài phần chữ nổi còn có khoảng trắng, gợi biết bao điều bí ẩn, câu
thơ, lời thơ có khi bỏ lửng để cho người đọc có thể tự do tưởng tượng, tự do
suy luận đắm chìm trong suy tư của mình. Theo Trần Đình Sử “Bài thơ là một ảo
ảnh, và lời thơ gây mơ hồ cho người đọc”. Như vậy tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ
khiến cho lời thơ trở nên mơ hồ đa nghĩa. Thế nhưng để có thể hiểu tính mơ hồ
trong ngôn ngữ thơ là gì? Nó có ý nghĩa gì đối với văn chương có lẽ không phải
ai cũng trả lời được. Theo W.Empson mơ hồ là một ý nghĩa không xác định, dùng
để biểu đạt nhiều loại sự vật cho phép có nhiều cách giải thích. Trong “Bẩy
loại hình nghĩa mơ hồ” ông đã dày công nghiên cứu và phân loại. Tuy cách phân
loại này chưa được rạch ròi, nhưng qua đó ta thấy được tính mơ hồ được biểu
hiện dưới nhiều dạng khác nhau: dùng các hình ảnh mang tính ẩn dụ, tượng trưng,
so sánh; dùng các câu như câu đảo trật tự từ, câu lược từ; sử dụng một từ có
hai ý nghĩa, hai ý tưởng, hai giá trị… Giáo sư Trần Đình Sử cũng dựa vào lí
thuyết Empson chia mơ hồ thành các phương thức: mỉa mai, nghịch lí, song quan…
Như vậy mơ hồ hóa trong ngôn ngữ thơ là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu. Các
quan niệm dù khác nhau nhưng chung quy đều có điểm chung: Tính mơ hồ của ngôn
ngữ thơ là khả năng tạo nên sự không xác định (mơ hồ) về nghĩa của ngôn ngữ thơ
ca. Nghĩa không xác định này tạo nên dư vị tạo tính hàm súc của thơ. Từ đó
khiến cho hình tượng thơ trở nên hàm súc, đa nghĩa, gợi nhiều hơn tả.
Sự cách tân, đổi mới thơ
ca của Mai Văn Phấn thể hiện rõ nhất ở phương diện ngôn ngữ. Nếu như các nhà
thơ cổ điển dùng chữ để biểu hiện cuộc nhào lộn của tu từ pháp thì Mai Văn Phấn
với tư cách là một nhà thơ hiện đại lại dùng chữ để biểu lộ ý nghĩ của mình hay
cái mình muốn nói. Bằng những cảm xúc rất thật với cuộc đời, Mai Văn Phấn đã
viết nên những vần thơ cuồn cuộn phù sa, dữ dội mà không kém phần cuốn hút và
ám ảnh. Đọc thơ Mai Văn Phấn, nếu chỉ đọc một lần thì có lẽ rất khó để hiểu,
rất khó để cảm nhận. Muốn khám phá thế giới thơ Mai Văn Phấn đòi hỏi phải lao
động hết mình, nghiêm túc. Bởi lẽ “chữ nào của anh cũng nặng, hằng số ảo trong
từng con chữ rất cao. Giữa hai dòng thơ, giữa các con chữ là sự bất tận của
những cảm nhận, những rung động tận đáy tâm hồn, những ấn tượng mạnh mẽ, có khi
thành nỗi ám ảnh” [43].
Có khi trong những trang
thơ Mai Văn Phấn xuất hiện những câu mà sự kết hợp giữa những ngôn từ không
liên quan gì nhau, ngôn từ được tĩnh lược tối đa làm cho hình tượng thơ nhòe đi
trong cảm nhận.
Tôi đợi
Những cánh chim
Mỏi mòn
Chân bồn chồn
Dòng sông
Trong đục...
(Lời của đá)
Những câu thơ không đầu,
không cuối, không vần, không nhịp, làm cho nghĩa của cả câu, cả bài trở nên mơ
hồ, vô nghĩa. Tác giả đã mở ra một khoảng trống tự do và yêu cầu độc giả cùng
tham gia sáng tạo để mở ra một chân trời cảm nhận cho riêng mình.
Thơ đôi lúc cũng không
cần phải quá rõ ràng, bởi vì trong nhiều trường hợp một câu thơ sẽ đẹp hơn
nhiều khi ta cảm nó thay vì hiểu nó. Những câu thơ của Mai Văn Phấn nhiều khi
nhòe đi do sự tỉnh lược và dồn nén ngôn từ:
Trời tối
Ghé sát hoa
Đọc nốt trang sách
(Hoa mận trắng)
Câu thơ cho người đọc
một sự ngỡ ngàng, khó đoán định. Nhưng tại sao phải cố hiểu hay giải thích
nghĩa của từng câu chữ làm gì? Trước mắt ta là cả một bức tranh tươi đẹp. Ta có
thể thấy sắc trắng của hoa mận rạng ngời. Hình ảnh gợi lên khung cảnh thật trữ
tình. Đó là hình bóng của thi nhân ngồi đọc sách bên hoa mải miết, say mê đến
quên cả thời gian.
Hay như với bài thơ Cái nhìn, chỉ với ba câu thơ hay nói
đúng hơn là ba dòng thơ ngắn ngủi nhưng nó mang đến cho ta nhiều cảm nhận:
Vũng nước nhỏ dưới chân núi
Soi
Tận đỉnh
(Cái nhìn)
Vũng nước nhỏ dưới chân núi đã tạo nên hai hình ảnh tương phản cả về vị trí
không gian và hình khối không gian. Nó gợi liên tưởng đến đẳng cấp, vị trí, tầm
vóc của con người trong xã hội, trong hoàn cảnh sống. Và rộng hơn nó còn gợi
tới cả trí tuệ, tâm hồn con người. Vũng nước bé nhỏ kia những tưởng sẽ bị ngọn
núi che khuất nhưng nó lại có thể soi rõ mọi thứ thì chắc hẳn nó phải rất trong.
Phải trong xanh nó mới có khả năng soi lên đến tận đỉnh. Từ đó ta có thể suy
rộng ra quan niệm triết lí về cuộc sống con người: nếu con người có ý thức
thanh lọc tâm hồn thì sẽ hướng tới sự giải thoát, sự tự do tuyệt đối, không gì
có thể che lấp được như vũng nước bé nhỏ kia.
Ngôn ngữ mơ hồ hóa là
một trong những thủ pháp quan trọng trong việc cách tân thi ca của Mai Văn
Phấn. Đây là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng để nhà thơ tạo ra cảm giác mới
lạ, hấp dẫn, cho phép nhìn cuộc sống một cách sâu sắc và toàn diện hơn.
Nhà thơ Hoài Khánh từng
nhận định: “Là một nhà thơ tiên phong cho việc cách tân thi ca trong cả nội
dung và hình thức, qua những ngôn từ lạ và nền tảng xúc cảm có bề dày, Mai Văn
Phấn hi vọng mang đến cho bạn đọc yêu thơ có thêm một giọng điệu mới, một bầu
không khí mới” [51]. Còn nhà thơ Vĩnh Phúc lại mách bạn đọc: “Hãy đọc Mai Văn
Phấn trong lặng im và để thơ cuốn ta đi với nhịp điệu của cảm xúc nội tại, với
tầng tầng ngôn ngữ đa chiều và những xếp lớp hình ảnh lạ lẫm đến bất ngờ kiểu
như...em gieo trồng trên ngực/ Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt...hay... Bổ
nhào từ đỉnh cao/ Bằng đôi cánh sắc/ Lấy tâm điểm xác chết/ Chém toác bầu
không/ Gió hấp tấp không chịu băng bó...” [57].
Bài thơ Con đại bàng của Mai Văn Phấn được rất
nhiều người đánh giá là một bài thơ hay. Hay bởi lẽ nó không chỉ đặc sắc về nội
dung mà còn bởi sự độc đáo về ngôn ngữ. Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng nói lên biết bao nhiêu điều:
Bay cao
Càng tin
Trái đất là giọt sương
(Con đại bàng)
Đại bàng là chúa tể của
các loài chim, chúa tể của bầu trời. Ngay từ câu thơ mở đầu Bay cao, nhà
thơ Mai Văn Phấn đã cho ta thấy đại bàng hiện lên với một tư thế tuyệt đẹp,
hiên ngang, ngạo nghễ giữa trời. Khi bay cao đại bàng “càng tin”... Đại bàng đã
tin điều gì? Và vì sao khi bay cao, đại bàng lại “càng tin”? “Càng tin”
ở câu thơ thứ hai như bản lề khép mở nối kết ý câu thơ thứ nhất với ý câu thơ
thứ ba: Trái đất là giọt sương.
Đây là một thi ảnh rất lạ và đẹp. Một so sánh vừa hữu lý nhưng cũng vừa
phi lý. Hữu lý ở chỗ, ở độ cao vót, trong mắt đại bàng, trái đất bị thu nhỏ
giống như “giọt sương”. Còn phi lý ở chỗ, trái đất của chúng ta vốn
là hành tinh một cá biệt trong vũ trụ, với hình dáng xù xì thô tháp
lại được so sánh với cái mong manh, dễ tan biến nhưng trong suốt lung linh là
“giọt sương”. Có “bay cao” thì đại bàng mới càng tin “Trái đất là giọt sương”.
Chỉ với ba câu thơ ngắn gọn nhưng đã làm hoàn chỉnh vẻ đẹp của Đại bàng: đẹp ở
tư thế, niềm tin và đẹp ở tầm nhìn và cái nhìn về cuộc sống. Ba câu thơ đã vẽ
nên đường bay của đại bàng. “Bay cao” là điểm xuất phát còn nhìn thấy “Trái đất
là giọt sương” mới là cái đích đến của nó. Chính cái đích đến đó mới củng cố
niềm tin cho đại bàng “càng tin” về cái nhìn của mình. Cũng như đại bàng, trong
hành trình vào đời, con người trước hết phải có ước mơ, hoài bão, có niềm tin
vào chính mình và vào cuộc sống. Đó là tư thế nhập cuộc. Có vậy mới giúp ta có
cái nhìn tích cực về cuộc sống, biết yêu và biết trân trọng cuộc sống. Trong
hành trình cái đích đến mới là cái quan trọng nhất.
Ở một số bài thơ, Mai
Văn Phấn sử dụng cách chơi chữ để thể hiện thái độ của mình đối với thế
giới. Qua cách sử dụng ngôn ngữ độc đáo
ông đã làm hiện lên hiện thực thế giới đầy rẫy bất an, kéo theo đó là sự lo âu
của con người:
Cánh bướm nặng nhọc nâng mặt đất trầm mặc sũng ướt lên
cao mặt nước phẳng lặng giãn nở muôn vẻ hạt mưa rồi tự tin vung lưới rìu sóng
nước quăn cùn bổ vào sườn đất hạc khô hóa thạch vọng lên mặt cỏ rân rân tiếng
mùa xuân nơi nơi mù khói nứt nẻ dưới gót giày trẻ con mở viện bảo tang khổng lồ
soi ánh mắt ngây thơ vào khuôn mặt méo lệch đọng nước mắt rắn đanh hình dạng
nham nhở màu máu thớ đất nhểu dài lời người lớn phân bua mơ hồ xa tít bông hoa
gần nhất khiến bàn tay rền vang cùng tiếng bi bô tràn âm thanh dội ngược làm
vũng nước nín thở rung mình nghe hút nẻo tháng ngày tiếng sấm nổ gọi mùa hoa
gạo…
(Mười bài tập mùa xuân)
Đoạn thơ hiện ra với
hàng loạt những hình ảnh rối bời, cuộn xoắn, không chấm, không phẩy, không biết
nút tháo khiến ta nghĩ đến một con dốc chữ đang trên đà đổ xuống, ập vào, nuốt
trọn. Cái “méo lệch”, “rắn đanh”, “nham nhở màu thớ đất nhểu dài”, “âm thanh
dội ngược”, “vũng nước nín thở rung mình”… gợi sự dồn ép, nén chặt trái tim, co
thắt lồng ngực và rờn rợn một nỗi sợ hãi như một tiếng thở nén lòng trước báo
áp lực cuộc đời mà con người phải đối diện. Là thế giới thực sự đáng sợ như thế
hay bởi lòng người cứ tự huyễn hoặc mình? Cách sử dụng ngôn ngữ của Mai Văn
Phấn quả thực rất độc đáo và thú vị. Mai Văn Phấn thành công trong việc cách
tân ngôn ngữ thi ca nhằm đạt đến độ nhuần nhuyễn, tự nhiên trong quá trình sáng
tạo ngôn từ theo hướng mơ hồ hóa mà vẫn không hề đánh đố người đọc.
3.1.2. Ngôn ngữ tạo sinh
Bên cạnh ngôn ngữ mơ hồ
hóa, thơ
Mai Văn Phấn có kiểu ngôn ngữ tạo sinh. Ngôn ngữ tạo sinh nghĩa ở đây có
thể hiểu là thứ ngôn ngữ mà nhà thơ sử dụng đưa lại cho người đọc, người nghe
nhiều cách hiểu khác nhau. Giống như lời nhận định của PGS.TS Đào Duy Hiệp: “Trong trò chơi ngôn ngữ đó, văn bản thơ không còn cho một nghĩa cố định, duy
nhất đúng, mà còn có những nghĩa “tự sinh” trong quá trình đọc. Tôi hình dung
rằng, nếu từ ngữ theo nghĩa từ điển là hình vuông, (“trăng” là trăng, “mưa” là
mưa), vuông thành sắc cạnh; thì cũng những từ ngữ đó, trong thơ, chúng là hình
tròn, mà chứa trong nó là hình vuông của nghĩa từ điển. Phần dư thừa của hình
tròn đã mang nét nghĩa khác do được cộng sinh từ trường từ vựng, âm hưởng,
giọng điệu, tiết tấu,.. của bài thơ. Thơ thực dụng, thơ tuyên truyền hoặc thơ
rao hàng thì chỉ có một nghĩa, tạm gọi là “thơ vuông” [47]. Còn theo nhà nghiên
cứu Hồ Thế Hà: “Mai Văn Phấn là một hiện tượng riêng của nền thơ đương đại Việt
Nam – mà là hiện tượng riêng, liên tục lấp lánh và mới lạ. Ý thức đổi mới thi
ca luôn thường trực trong từng cảm giác bé nhỏ của chính người thơ mà anh tự
gọi là “vong thân” – tức phủ định bản ngã thi sĩ trước đó của mình để được tồn
tại trong một trạng thái tình cảm luôn luôn mới và trong một dạng thái ngôn ngữ
luôn luôn khác – nghĩa là luôn luôn tạo sinh nghĩa – đã làm cho thế giới thơ
Mai Văn Phấn không ngừng vận động, không ngừng phá và thay.”
Mai Văn Phấn đã
nhận ra một khả năng kì diệu của ngôn
ngữ ở chỗ các đơn vị ngôn ngữ có thể thay thế cho nhau, nhờ vào tính tương
đương, đồng dạng giữa chúng. Và ngôn ngữ trong thơ Mai Văn Phấn rất giàu sức
gợi, mở ra cho người đọc nhiều cách nghĩ, cách cảm khác nhau:
Xối ánh sáng vào từng góc khuất
Khóc khuất như lò thúc mầm
Như thép nóng đem tôi vào nước
Như quả trứng
trong lò đang ấp
Rễ thân cành
đã chiết đâm ngang
Tắm gội cho
mùa xuân về
Vừa lặn vào
ánh sáng
Vừa gọi thần
ông bà, cha mẹ
Cơ thể bốc cao
về phía ngọn đèn
Vừa xối mạnh
vừa gọi tên em
Ánh sáng bồng
bềnh bụng mang dạ chửa
Thử gọi một ai
xa lắc xa lơ
Ngọn đèn lặng
phắc càng tỏ
Càng tỏ
(Tắm đầu năm)
Xưa nay ta thường nghĩ đến tắm là một hành
động làm sạch cơ thể. Tắm thường diễn ra vào cuối ngày hoặc ngày cuối năm. Đó
là hành động tổng kết cơ thể, loại bỏ hết những tạp chết trên người để đón ngày
mới, năm mới. Thế nhưng Mai Văn Phấn lại tắm vào dịp đầu năm, và tắm bằng ngọn đèn. Ngọn đèn đó chứa đầy ánh
sáng, càng lúc càng tỏ, xối sâu vào từng góc khuất như “lò thúc mầm”. Người đọc
có thể cảm nhận được rằng thứ ánh sáng đang được dội khắp ngõ ngách cơ thể ấy
chính là thứ “nước thánh” để thanh lọc cơ thể, xóa đi những bụi bẩn của cuộc
đời, tẩy rửa những hoen ố của tâm hồn, để con người hướng về những tình cảm đơn
thuần nhất giữa người với người, để đón mùa xuân của đất trời và đón chào cả
mùa xuân tâm hồn của chính mình sau nghi lễ “rửa tội” đầy thiêng liêng, thành kính:
Mặt đất vừa
qua phút lâm bồn
Anh về hụt
bước trước hoàng hôn
Chân trời phía
ấy vừa se lại
Chiều rỗng mặc
kim chỉ gió luồn
(Nghe tin em sinh con)
Trong đoạn thơ trên Mai Văn Phấn đã mượn hình
ảnh đất đai – một biểu tượng của sự phồn sinh để nói về công cuộc vượt cạn vĩ
đại nhưng cũng không kém phần nhọc nhằn của người phụ nữ. Đất đã được hình dung
như cơ thể một người phụ nữ, cũng trải qua sứ mệnh thiêng liêng cao cả của
mình. “Mặt đất” vừa trải qua phút “lâm bồn” cũng giống như em vừa vượt cạn
thành công. Giây phút đó thật nhọc nhằn vất vả nhưng cũng thiêng liêng cao quý
biết nhường nào.
Mai Văn Phấn là người có ý thức cách tân thơ
ca rất mãnh liệt, điều đó còn được thể hiện rõ trong những trang thơ. Ông đã sử
dụng những kí hiệu biểu tượng để nói lên khát vọng của mình:
Từ tưởng tượng
Và niềm khát
vọng
Tôi rút những
mũi tên
Ra đi tìm đích
cho ngày.
Quanh tôi
những tấm bia bất động
Đây ngó sen
vời vợi đáy hồ
Kia lũ trẻ
trần truồng chạy vào tôi hơn bốn mươi năm trước
Tôi mù mờ ngắm
những mu mơ.
Từng mũi tên
vạch đường bay vun vút
Xuyên táo
chiều không gian thời gian
Xuyên táo nhân
sinh quan và thế giới quan
Và tôi tin
mình bắn trúng đích
(Mũi tên bóng tối)
Kí hiệu mũi tên đang hiển hiện kia chính là
khát vọng, là mục đích mà Mai Văn Phấn đang hướng đến. Đó chính là khát khao
được đưa nền văn học Việt Nam ra khỏi bóng tối hiện tại, hướng đến những cái
mới, cái sáng tạo để bắt kịp nền văn học thế giới. Và người bắn những mũi tên
đó không ai khác chính là Mai Văn Phấn và những con người như ông. Thơ ca trong
thời điểm hiện tại như những “tấm bia bất động”, nó cũ mèm, nhàm chán, nhưng
con đường cách tân không phải dễ dàng. Con đường phía trước “mù mờ” và chưa
biết được sẽ về đâu. Họ - những con người mang trong mình khát vọng cách tân
đang bắn từng mũi tên dò dẫm về phía trước. Những mũi tên đó vượt hẳn ra khỏi
bờ vực của cái cũ, vượt qua không gian thời gian, đâm xuyên thế giới quan và
nhân sinh quan. Và Mai Văn Phấn có một niềm tin bất diệt là con đường mà ông và
những con người như ông đang đi là hoàn toàn đúng hướng, là sẽ đi tới thành
công.
Trong quá trình sáng tạo và đổi mới văn
chương, Mai Văn Phấn luôn có ý thức tạo ra tính chất mở cho văn bản thơ để mời
gọi bạn đọc đồng sáng tạo với mình thông qua việc sử dụng hệ thống ngôn từ giàu
tính chất tượng trưng và tạo ra những khoảng trắng giữa những dòng thơ:
Hãy nhìn xuyên
đêm
……………….
Thấy gì không
………………
Chiếc váy cuối
hạ
……………..
Lay động thân
cành
………….....
Cánh tay em
cân đối cảnh vật
……………
Mở rào gai góc
…………...
(Hình đám cỏ - Nhịp VII)
Những hình ảnh ấy, những khoảng trắng ấy giữa
các dòng thơ chính là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm. Tùy vào những bạn đọc
khác nhau sẽ có cách suy nghĩ và liên tưởng khác nhau. Kêu gọi bạn đọc đồng
sáng tạo cũng là một dụng ý nghệ thuật đắt giá của Mai Văn Phấn trong hành
trình đổi mới thi ca của mình.
Với việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ tạo sinh
nghĩa với đầy ắp những hình ảnh ẩn dụ và tượng trưng, Mai Văn Phấn đã mang đến
cho mình cũng như nền thơ ca hiện đại một hơi thở mới, một luồng sinh khí mới: ngôn
ngữ đặc trưng của phong cách hậu hiện đại. Với phương châm sáng tạo này, Mai
Văn Phấn đã tạo ra được tính chất mở cho tác phẩm văn học và kêu gọi người đọc
đồng sáng tạo với nhà thơ. Tiếp cận thơ ông, người đọc tùy thuộc vào khả năng
liên tưởng, tầm văn hóa và tri thức của mình sẽ khám phá ra nhiều lớp nghĩa
khác nhau.
3.2. Giọng điệu thơ Mai Văn Phấn
Nghiên cứu về thơ ca không thể không chú ý
đến giọng điệu. Mỗi nhà thơ khi cầm bút đều chú ý tạo dựng một chất giọng của
riêng mình, vì nếu không có chất giọng riêng ấy, anh ta chỉ mãi là bóng hình mờ
nhạt trong cả dàn đồng ca chung của thời đại. Giọng điệu là thước đo không thể
thiếu để xác định tài năng và phong cách độc đáo của nghệ sĩ: “Giọng điệu cá
nhân nghệ sĩ là sự tụ kết của nhiều yếu tố, cá tính sáng tạo, quan niệm nghệ
thuật, thái độ đối với đời sống, tài nghệ tổ chức ngôn từ trong quá trình tạo
giọng để thu hút và thuyết phục độc giả” [18; 39]. Giọng điệu thơ còn là yếu tố
góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của người cầm bút, thể hiện
cách nhìn, cách nghĩ và thái độ sống của họ trước cuộc đời. Giọng điệu còn là
một bộ phận quan trọng tạo nên diện mạo đặc trưng của một thời kì thơ, khu biệt
với những thời kì trước và sau đó.
Xuất phát từ hiện thực cuộc sống ngổn ngang,
chất ngất rủi ro mà các nhà thơ hậu hiện đại đã đem vào trong thơ mình một
giọng điệu riêng, mục đích cuối cùng là để phản ánh những vấn đề của thời đại
đang diễn ra. Đây là một phương tiện nghệ thuật hữu hiệu trong việc truyền tải
các giá trị văn chương. Mai Văn Phấn là một trong những nhà thơ hậu hiện đại
tiêu biểu được ghi dấu đậm nét về giọng điệu thơ. Giọng điệu thơ ông trước hết
được bắt nguồn từ quan niệm nghệ thuật về nhân sinh và thế giới. Thơ ông thể
hiện sự phong phú về sắc điệu: khi thì giễu nhại, hoài nghi, lúc triết lí,
chiêm nghiệm và có lúc lại mang giọng điệu vô âm sắc…
3.2.1. Giọng điệu giễu nhại
Mỗi thời kỳ văn học được quy định bởi một
loại giọng điệu điển hình riêng. Đó là sự kết tinh giọng điệu của thời đại đã
sản sinh ra nó. Mỗi tác phẩm, mỗi tác giả có một giọng điệu khác nhau, nhưng
luôn thống nhất trong một khuôn giọng điệu cơ bản và chủ đạo của thời kỳ văn
học ấy. Xuất phát từ cảm quan hậu hiện đại mà văn học hậu hiện đại rất ưu tiên
cho giọng điệu giễu nhại. Giễu nhại với tư cách là một thủ pháp đã xuất hiện
trong những tác phẩm văn học từ thời cổ đại. Trong các thời kỳ văn học sau đó,
giễu nhại luôn được sử dụng với những sắc thái riêng. Giọng điệu giễu nhại chỉ
là một phần của hình thức giễu nhại, hình thức trào lộng hay tiếu trào. Điều đó
cho thấy giễu nhại không phải giọng điệu của thơ ca hậu hiện đại sản sinh nó.
Các nhà thơ, nhà văn vận dụng những gì
sẵn có để biến tấu theo những dụng ý của riêng mình.
Hình thức “nhại” là một trong những đặc trưng
nổi bật của văn chương hậu hiện đại đang ngày càng phổ biến trong văn học Việt
Nam, trong đó có thơ. Giọng điệu giễu nhại được thể hiện rất rõ nét qua những
trang thơ của Mai Văn Phấn. Bằng cách ấy, nhà thơ công khai bày tỏ thái độ của
mình đối với cái rối ren hỗn độn trong xã hội. Châm biếm, mỉa mai, trào lộng,
hài hước là những nhân tố tạo nên sắc thái giễu nhại trong thơ ông. Mai Văn
Phấn đã không ngại phô bày trong thơ mình hình bóng những con người trong thời
đại mới với trạng thái bi quan cùng cực trong tâm trạng mệt mỏi và bất lực giữa
một thực tế cuộc sống xô bồ, ảm đạm không lối thoát. Con người trong xã hội đó
ngày càng thoái hóa, biến chất với một loạt các hành động bỉ ổi, vô liêm sỉ,
thiếu văn hóa:
Đạo mạo múa
tay trong bị
Đạo mạo giết
một con muỗi …
Đạo mạo chỉnh
lại con c… trong túi quần nơi hội họp
Đạo mạo xỉ mũi
vào cửa kính
Đạo mạo moi
tiền của gã ăn mày
Đạo mạo nghe
trộm điện thoại
Đạo mạo nhìn
ngực chị em trong đám tang
Đạo mạo ký tên
vào công trình khoa học
Đạo mạo làm
thơ tình khi đã liệt dương…
(Bài học)
Với giọng điệu giễu nhại, hoài nghi Mai Văn
Phấn đã đưa người đọc từng bước tiếp cận gần hơn với bản chất của của một con
người. Bản chất đó được phơi bày từ từ và lộ nguyên hình là một kẻ xấu xa, bỉ
ổi, là một tên thô tục, vô văn hóa. Bằng cách “nhại” này, nhà thơ thoải mái đẩy
sự việc lên đến đỉnh của trào lộng và vì vậy trong thơ tiếng cười cứ thế trào
ra. Mai Văn Phấn đã diễn tả thành công cái kệch cỡm, lố bịch, nhặng xị cuả con
người trong xã hội này với những nấc thang giá trị bị đảo lộn, những tiền đề
truyền thống cũ bị lung lay. “Giết một con muỗi” – hành động này có lẽ không có
gì đáng để bàn đến. Nhưng sang những hành động tiếp theo đạo mạo “phát biểu
chung chung”, nghiêng mình trống rỗng” nó đã tạo ra một sự hoài nghi trong tâm
hồn người đọc. Đáng ra với dáng vẻ đạo mạo kia con người phải nói, phải phát
biểu những ý kiến chính xác, sâu sắc, được nhiều người quan tâm. Thế nhưng con
người kia lại đang nói về vấn đề gì? Phải chăng hắn cứ đạo mạo nói chung chung,
ậm ừ, gật gù để che dấu đi sự ngu dốt của mình? Hình tượng của kẻ đạo mạo này
càng méo mó hơn trong mắt người đọc bởi một loạt những hành động tiếp theo: lấy
trộm áo mưa, thở mùi hôi vào miệng người khác, bọc nhầm một chiếc răng sâu,
tiểu tiện nơi công cộng, xụt xịt trong khăn mùi xoa… Một loạt các hành động được
nêu ra càng thể hiện rõ bản chất vô xỉ của cái kẻ đạo mạo kia. Hắn không chỉ là
một kẻ dốt nát mà còn là một kẻ vô duyên, vô ý thức với một loại các tính xấu.
Và không chỉ dừng lại ở đó, hắn ta lại được hiện lên:
Đạo mạo chỉnh
lại con c… trong túi quần nơi hội họp
Đạo mạo xỉ mũi
vào cửa kính
Đạo mạo moi
tiền của gã ăn mày
…
Đạo mạo nhìn
ngực chị em trong đám tang
Đạo mạo làm
thơ tình khi đã liệt dương…
Mai Văn Phấn đã đưa những tình tiết đó vào
trong thơ một cách tự nhiên nhất mà không hề né tránh. Đằng sau cái vẻ bề ngoài
mà hắn cố tạo ra là một con người đạo đức giả, là một kẻ vô văn hóa, thiếu đạo
đức. Hắn là người có thể vì danh lợi, địa vị mà sẵn sàng làm mọi việc bất chấp
mọi thủ đoạn: đạo mạo ký tên vào công trình khoa học, thả virus vào e-mail
người khác, đánh tráo bài thi…
Hay như trong bài thơ “Chuyện còn dài”, Mai
Văn Phấn viết:
Con gián và
tôi từ giờ song phẳng
Nó chui ra.
Tôi vô cảm
Nó gặm nhấm.
Tôi ngập chìm
Nó leo tường.
Tôi thù vặt
Nó bài tiết.
Tôi ăn gian
Nó hôi xì. Tôi
lì lợm
Nó dò xét. Tôi
mở đường
Nó nghênh
ngang. Tôi u muội
(Chuyện còn dài)
Mai Văn Phấn đã đặt con
người ngang hàng với các loài vật, loài côn trùng để tự vấn lương tâm, tự nhìn
nhận nhân cách của họ. Đối với ông, nhân thế chỉ còn là chốn súc sinh ngự trị,
con người được đặt ngang hàng với các loài vật, cùng sống, sinh hoạt, tham gia
các hoạt động. Từ
đó ông muốn mỗi người đọc phải nghiêm túc suy nghĩ và chỉnh đốn lại chính bản
thân mình nhằm hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn.
Và giọng điệu giễu nhại
được thể hiện khá rõ nét trong tập thơ mới xuất bản gần đây nhất của Mai Văn
Phấn – “Thời tái chế”. Khi nghe đến cái tên nhan đề tập thơ này chắc hẳn ai
cũng thấy lạ, bởi nó khác hẳn với tên nhan đề những tập thơ trước đó của ông: Cầu nguyện ban mai, Bầu trời không mái che,
Lặng yên cho nước chảy… Thời tái chế mang đến cho người đọc một cách nhìn,
cách cảm nhận mới. Nó tái hiện rõ nét hiện thực đời sống, nhận diện bản chất
những việc đã và đang diễn ra. Chương VII – Mô hình là chương thể hiện rõ nét
nhất giọng điệu giễu nhại trong tập thơ. Các mô hình lần lượt hiện ra và mỗi mô
hình là một bức tranh trào phúng để từ đó con người nhìn rõ hiện thực cuộc sống
đang diễn ra:
Những năm sáu mươi thế kỷ trước, nhiều gia đình người
Việt ở miền Bắc được phát miễn phí những cuốn họa báo Trung Quốc.../ Thi thoảng
lại có hội thi, thi cày bừa, thi cấy lúa, thi đổ phân, thi gặt hái… Hội thi nào
cũng có cờ, trống phách và biểu ngữ. Một nhóm người đứng trên bờ theo dõi, động
viên, cổ vũ rất to. Bác chủ nhiệm hợp tác xã khi ấy hao hao giống một người
trong trang họa báo.
(Mô hình 1 – Thời tái
chế)
Mô hình 1 là kí ức từ
những năm 60 của thế kỉ trước, cuộc sống giống như một vở kịch mà sân khấu được
trang hoàng bằng vô số những biểu ngữ, những tranh cổ động, cờ và trống phách.
Tất cả mọi người cùng thi đua và các hội thi là một “món ăn” không thể thiếu: “Thi
thoảng lại có hội thi, thi cầy bừa, thi cấy lúa, thi đổ phân, thi gặt hái… Hội
thi nào cũng có cờ, trống phách và biểu ngữ”.
Năm cuối cùng ở đại học tôi bị đánh trượt môn Chính trị…
Tôi đã mang theo nhiều tài liệu để quay cóp, ghi những ý chính vào bàn tay và
gan bàn chân, trao đổi với cả bàn trước bàn sau mà vẫn trượt. Năm sau tôi vô
tình gặp lại thầy giáo dạy môn đó trong quán beer hơi. Thầy thú nhận bây giờ
mình cũng không còn nhớ nội dung bài giảng.
(Mô hình 2 – Thời tái
chế)
Mô hình 2 là không gian
giảng đường đại học, câu chuyện xoay quanh chàng sinh viên thi bao nhiêu lần
với bao nhiêu phao vẫn bị trượt bài thi “tinh thần làm chủ tập thể”. Ra trường
gặp lại thầy giáo môn đó tại quán bia hơi, ông ta mới thú thực, ngay cả ông
cũng chả nhớ nổi nội dung bài giảng đó, học thuộc lòng hôm trước, hôm sau quên
ngay. Thật là một chi tiết quá “đắt”. Mô hình 3 lại khiến người đọc liên tưởng
đến truyện ngắn “Người trong bao” của Sê Khốp, tất cả mọi người đều bị theo
dõi, bị theo sát từng cử động nhỏ, chỉ trừ khi lúc về nhà ngủ, hay thì thầm với
vợ. Nhân vật Bê li cốp trong truyện ngắn “Người trong bao” luôn mang những nỗi
sợ bị theo dõi, sợ những gì mình làm bị người khác biết dù hắn ta chỉ sống theo
“những thông tư, chỉ thị, và các bài báo cấm đoán”, nhưng nỗi sợ đó ám ảnh anh
ta cả khi nằm trùm kín chăn trong nhà đã khóa cẩn thận. Ở mô hình 4, 5, 6 lại
là những chi tiết về tinh thần làm chủ của tập thể, những người được bầu ra làm
“tổ tư vấn” thực ra chỉ là những bù nhìn. “Chủ nghĩa mặt tiền” được lật tẩy
bởi những chi tiết sắc bén, những ngôi nhà khang trang, thoáng mát tọa lạc bên
hồ nước, không gian và thực phẩm sạch sẽ, trong lành, nhưng thực ra những thứ
đó chỉ đặt ở bên ngoài của con đường, đi sâu vào bên trong thì hoàn toàn trái
ngược, ngôi nhà đó chỉ là ngôi nhà hình mẫu. Có những thử thách như chiếc cổng
lửa, mà những hứa hẹn đằng sau đó là một thế giới đẹp đẽ khi chúng ta đủ ý chí
vượt qua. Nhưng vượt qua rồi thì ngoài việc “thân thể, râu tóc cháy thui” thì
nơi “thiên đường” sau chiếc cổng lửa chỉ là một bãi hoang với một đàn chuột
cũng từng bị thui. Mô hình 7 là câu chuyện tưởng như chẳng liên quan, một câu
chuyện giả tưởng khi các nhà khoa học có thể lai nhiều giống quả trên một thân
cây, nhưng điều đáng nói là: “Mọi người đã đưa về trung tâm khoa học này nhiều
giống cây trồng ưa thích, từ cam quýt, nhãn, chanh đào, mơ, nhót, thị, quất
hồng bì miền Bắc, đến mận, xoài, chôm chôm, mít, bưởi, dâu, sầu riêng, vú sữa
phương Nam. Nhưng đến khi trái chín thì lớp vỏ bên ngoài chỉ hiện lên một màu
hồng rực. Vẫn chưa ai nghĩ ra cách thay đổi từng phần lớp vỏ cho phù hợp với
chủng loại bên trong.” Dù là quả gì đi nữa thì chúng vẫn phải mang một loại “đồng phục”, không thể khác. Nó khiến chúng ta liên tưởng đến những “đồng phục”
đang tồn tại nhan nhản ngoài xã hội: “đồng phục khuôn mặt”, “đồng phục tư tưởng”. Kết thúc là mô hình 8 với
phương án xây ngôi nhà hình tổ chim trên cây, ngôi nhà được thiết kế như một
căn cứ quân sự, nhưng cũng hoang sơ như thời khủng long tuyệt chủng, tất cả
mọi người đều phải chung tay xây dựng nó, dù bắt đầu bằng những mầm xanh bé tí
ti. 8 mô hình là 8 mảnh hiện thực được cắt dán ngẫu nhiên, tưởng như chả cái
nào liên quan đến cái nào, nhưng khi xâu chuỗi vào ta sẽ có một bức tranh toàn
cảnh với những điển hình bản chất cho một không gian, một đối tượng được hướng
tới. Giọng điệu tưởng như trung tính của chương Mô hình thực chất lại ẩn chứa
những ý vị trào phúng với màu sắc châm biếm sâu sắc.
Ngoài những yếu tố trên
thơ Mai Văn Phấn còn đầy ắp những tiếng cười. Nhưng đằng sau những tiếng cười
châm biếm và giọng giễu nhại ấy là nỗi đau đớn vô cùng tận của nhà thơ trước
hiện thực cuộc sống hôm nay. Tiếng nói của nhà thơ tuy nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa
đằng sau đó là hàng loạt những vấn đề lớn lao được đặt ra với toàn xã hội.
3.2.2. Giọng điệu vô âm sắc
Theo Roland Barthes sử
dụng thuật ngữ lối viết trắng là lối viết không thể hiện thái
độ, cảm xúc. Có nghĩa “Lối
viết trung tính đứng chính giữa những tiếng la hét và những lời phán xét ấy, mà
không tham gia gì vào bên nào cả; chính sự vắng mặt những thứ đó làm nên lối
viết này; nhưng sự vắng mặt này là toàn vẹn, nó không chứa một sự ẩn giấu, một
bí mật nào, cho nên không thể nói đó là lối viết thản nhiên; đúng hơn là lối
viết “vô tội”, là “độ không của lối viết” [21]. Theo Janh
Manfred “Trần thuật theo con mắt máy ảnh, giọng điệu vô âm sắc là
cách trình bày sự kiện từ bên ngoài và mang tính hành vi – phần lớn là trần
thuật ngôi thứ ba mang tính chất trung tính, thiếu vắng điểm nhìn bên trong và
có cái nhìn tĩnh tại của máy quay phim” [21]. Có thể hiểu một cách khái quát
giọng vô âm sắc là giọng trung tính, dửng dưng, không thể hiện thái độ, cảm xúc
của người kể chuyện. Nói khác, là giọng văn trắng. Người kể chuyện kể một cách
tĩnh tại theo lối của máy quay phim để tái hiện cuộc sống, hành động, sự việc
từ bên ngoài.
Trong những trang thơ của Mai Văn Phấn ta bắt gặp rất nhiều những bài
thơ mang giọng điệu vô âm sắc. Câu thơ tái hiện hiện thực cuộc sống với thái độ
thản nhiên:
Trên nền cũ ngôi nhà xưa, một liên doanh mới làm lễ động thổ. Ký
ức hiện về tựa ngôi đền, dâng trong tóc mình dĩ vãng tôn nghiêm.
(Hải Phòng trước năm 2000)
Tác giả đang đứng ở vị trí người kể chuyện, với giọng khách quan nhất kể
về mảnh đất Hải Phòng những năm 2000 mà cụ thể ở đây là sự xuất hiện của một
tiêu điểm công nghiệp. Một liên doanh mới làm lễ động thổ trên nền cũ ngôi nhà
xưa. Một liên doanh xuất hiện hứa hẹn một dây chuyền sản xuất công nghiệp hiện
đại. Thế nhưng hình ảnh ngôi đền xuất hiện, nó vừa nhuốm màu xưa cũ vừa có nét
trầm mặc. Nhà thơ đang diễn tả từng bước đi của mảnh đất Hải Phòng trước năm
2000, đó là những bước đi trong sự hoài niệm, ghi nhớ.
Cũng có khi Mai Văn Phấn sử dụng giọng điệu lạnh lùng, dửng dưng để diễn
tả sự đảo lộn trong cuộc sống hiện tại. Mối quan hệ giữa con người với con
người trong xã hội nhiều khi đến mức tàn nhẫn, thơ văn trở nên đời thường, trần
trụi, mang âm hưởng, mang không khí thời đại:
Chúng bịt miệng
trấn lột mọi thứ
và xin tôi bộ phận sinh dục.
Nói rằng xin /bởi nếu tôi
không đồng ý
của quý kia phải liệng xuống
hố phân
(chúng biết cả bí quyết thần
chú).
(Chỉ là giấc mơ)
Giọng điệu cũng giống như một cuốn phim vậy! Khi nhúng vào nước màu sẽ
nổi hình, nổi khối, làm hiện rõ tất cả những gì sống động được ghi lại trong
cuốn phim đó. Xuất phát từ hoàn cảnh bức
bối của hiện thực đời sống đầy rẫy những bất an, khủng hoảng và đổ vỡ niềm tin,
mối quan hệ giữa con người với con người nhiều khi kéo theo sự tha hóa. Con
người sống với nhau nhiều khi mất đi sự tin tưởng, đoàn kết mà thay vào đó là
sự dọa dẫm, khống chế lẫn nhau, đưa lợi ích cá nhân lên trên hết. Những câu thơ
xót xa về sự thay đổi của tình người. Với giọng điệu lạnh lùng như thể dửng
dưng trước mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội, những câu thơ
của Mai Văn Phấn như là nhát dao cứa vào tim người đọc.
Nếu trước đây tình yêu gắn liền với những cái cao cả, những câu thề
nguyền chung thủy sắt son thì giờ đây trong thơ Mai Văn Phấn chủ thể trữ tình
không xuất hiện, không có sự đánh bóng nhân vật trữ tình. Mai Văn Phấn dùng
giọng điệu tỉnh bơ, lạnh lùng để nói đến tình cảm của những đôi lứa yêu nhau –
thứ tình cảm hết sức thiêng liêng và cao đẹp. Đến với tình ái bởi thấy cuộc đời
mình thiếu vắng vô tận, thiếu khuyết đến một nửa để rồi nhà thơ nghĩ mình không
bao giờ là một chỉnh thể toàn vẹn:
Lúc cô đơn anh nghĩ
là nửa trái cây
nửa tiếng chim hót
nửa hang sâu
một phần tiếng động
nửa con cá
một góc thân tàu
nửa lặng im nối vào mặt phẳng
(Hình Đám Cỏ - Nhịp VII)
Tất cả những đối tượng được nhà thơ đưa ra để so sánh với bản thân khi
tồn tại dưới dạng “một nửa” đều trong trạng thái chết, đều vô nghĩa hoặc không
tồn tại. Vì thế, nói điều này nhà thơ muốn gửi đến người tình của mình một
thông điệp: Nếu đời anh mà không có em thì sự tồn tại của anh trên đời sẽ thành
vô nghĩa, anh sẽ không còn là chính mình nữa và chỉ khi nào hai chúng ta hòa
làm một thì cuộc đời này sẽ nở hoa, cuộc sống của anh mới có ý nghĩa. Mai Văn
Phấn coi em và tình yêu là cội nguồn cứu rỗi,
là mảnh phao bám víu giữa hoang mang trần thế này.
Cũng chính sự cô đơn ấy đã biến thành trận cuồng phong của nỗi khát khao
tình yêu trong thơ Mai Văn Phấn. Trận cuồng phong ấy dường như muốn xé nát, đập
vỡ tất cả:
Nhoài lên mỏm đá sắc
Thân thể gió trầy xước
Máu của gió là mưa
Nắng nhỏ xuống
…
Giang tay núi đạp chân vào đất
Vò nát
Xé toang thân gió
Ánh sao rơi
Buổi sớm vỡ oà
(Đỉnh gió)
Cũng đều diễn tả hiện thực cuộc sống bằng giọng điệu lạnh lùng, dửng
dưng thế nhưng trong thơ Vi Thùy Linh lại xen lẫn chút bình phẩm, giễu nhại. Nó
diễn tả cái kệch cỡm, lố bịch, nhặng xị của thời đại mà chính con người đang
sống với những nấc thang giá trị bị đảo lộn, những tiền đề truyền thống cũ bị
lung lay. Đọc những câu thơ của Vi Thùy Linh ta không khỏi xót xa về sự thay
đổi của tình người. Nó như nhát dao chặt đứt tình cảm đối với người ra đi:
Có kẻ thuộc giá vàng, giá
dollar hơn ngày giỗ cha
Có kẻ khóc người thân bằng
cassette
Giả vờ vui, giả vờ buồn
Sống quen diễn và đề phòng ma
mãnh
Ngay cả thủ đoạn ăn cắp cũng
ngày càng tinh xảo
(Tảng băng trôi – Vi Thùy Linh)
Còn trong thơ Mai Văn Phấn nó giống như những mảnh vỡ gợi lên cảm giác
về một cuộc sống không bằng phẳng mà đầy những chông gai, cay đắng. Nếu thơ ca
giai đoạn trước ta bắt gặp giọng hào sảng, mạnh mẽ của thời kháng chiến hay
giọng trữ tình sâu lắng của thơ mới thì ở giai đoạn này, giọng vô âm sắc đã
mang đến cho thơ ca cái dung tục hóa đời thường. Thơ Mai Văn Phấn cũng ở trong
lộ trình đó.
3.3. Không gian - Thời gian nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn
Giáo sư Trần Đình Sử đã
từng nói “Nếu hiểu thơ ca là sự cảm nhận thế giới và con người thì thời gian,
không gian chính là hình thức để con người cảm nhận thế giới và con người” [39; 104]. Mọi sự vật, hiện tượng đều được gắn với hệ tọa độ
không - thời gian xác định, nên những cảm nhận của con người về thế giới đều
bắt đầu từ sự đổi thay của không gian, thời gian. Và từ sự đổi thay của không
gian - thời gian, con người nhận ra sự đổi thay trong chính mình.
3.3.1. Không gian đa chiều
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật
thể hiện tính chỉnh thể của nó” [18; 162]. Không
gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ
không những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng
trưng, mà còn cho thấy những quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác
giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính
độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật. Vì vậy
không thể tách hình tượng ra khỏi không gian mà nó tồn tại.
Các nhà thơ hậu hiện đại
nói chung, Mai Văn Phấn nói riêng có cái nhìn mới mẻ về hiện thực. Hiện thực
không chỉ là cái con người có thể nhìn thấy và hợp quy luật mà nó còn bao hàm
cả những gì con người không thể nhìn thấy, không thể giải thích kể cả đời sống
tâm linh, những giấc mơ huyễn hoặc. Mỗi trang thơ của Mai Văn Phấn gắn với một
không gian nhất định, tùy thuộc vào cảm xúc, tâm trạng mà không gian ấy được khai
thác khác nhau mang dụng ý nghệ thuật của tác giả. Mai Văn Phấn quan niệm cuộc
sống là một mớ hỗn độn, đầy rẫy bất an cho nên khi miêu tả con người trong cuộc
sống đó, ông đã xây dựng một kiểu không gian tương ứng đó là không gian đa
chiều, biến ảo. Mỗi trang thơ của Mai Văn Phấn là một mảnh ghép. Tất cả những
mảnh ghép đó tập hợp lại phản ánh đầy đủ mọi mặt của cuộc sống. Khoảng không
gian hiện lên trong thơ ông là không gian đứt nối, không tạo tính liên tục, nó
như một bức tranh lập thể đa chiều, phân mảnh, lắp ghép các mảng màu mà người
họa sĩ đã sáng tạo nên. Không gian hiện lên trong thơ ông có khi đó chỉ trong
phạm vi của một căn phòng nhỏ:
Con ong bay vào phòng
bằng nhựa hay bằng gỗ
nham nhở dơ trên mình những vết cắt dở dang
đúng nó đã bay
tiếng vỗ cánh êm ru hoàn hảo
(Không thể tin)
Nhưng cũng có khi không
gian đó mở rộng ra trong phạm vi toàn thành phố. Mai Văn Phấn đưa chúng ta đi
khám phá hết mọi ngóc ngách của cuộc sống. Mỗi
bài thơ là mỗi mảnh ghép giúp chúng ta có cái nhìn bao quát, tổng thể về
thế giới xung quanh:
Đêm nay
Rắn rết, bọ cạp tràn vào thành phố
Nhưng đừng sợ!
Nhà nào bây giờ cũng thiết kế kiểu lô cốt
Trời tối không ai ra đường
(Còn cậu hãy đứng đằng
kia)
Trong thơ Mai Văn Phấn,
người đọc nhiều khi bị day dứt, ám ảnh bởi những khoảng không gian mới lạ, đó
là không gian của những “giấc mơ”, “ý nghĩ”. Mỗi giấc mơ là một mảnh ghép, nó
nói lên ước mơ, khát vọng của con người về cuộc sống:
Con chó mơ:
thức giậy trong nắng sớm
quen hơi những khách qua đường
không cần xồ ra và sủa giận dữ
không bị khinh rẻ đánh đập
thức ăn quen đã bày
Tôi mơ:
đêm ngủ không cần khóa cửa
ra đường chẳng ai lừa mình
họ nghĩ sao nói vậy
thoáng món ăn ngon và nắng đẹp
thật tội nghiệp con chó
Nước mắt làm tôi tỉnh dậy
Nỗi đau cuộn sóng bạc đầu.
(Nếu)
Trong cơn mơ của mình
con chó đã tưởng tượng đến một cuộc sống tươi đẹp đó là mỗi sớm mai thức giậy
đón ánh bình minh trong êm đềm, yên ả. Nó không phải xồ ra giận giữ với những
con người xa lạ, có ý đồ xấu đang rình rập. Con chó cũng đã nghĩ đến cảnh tượng
khi nó thức giấc thì những món ăn nó thích đã được bày dọn sẵn và nó cũng sẽ
không bị đánh đập khinh rẻ như mọi khi. Con người cũng mơ về một cuộc sống yên
bình, con người sống với nhau không lọc lừa gian dối để khi ra đường không ai
lừa mình, để đêm ngủ không cần khóa cửa mà vẫn yên tâm. Và cuộc sống sẽ càng
tươi đẹp hơn khi được tận hưởng những món ăn ngon, những ngày nắng đẹp. Nhưng
giấc mơ chỉ là mơ. Mơ thì tươi đẹp mà tỉnh giậy thì phũ phàng. Hiện tại cuộc
sống vẫn đen tối, nỗi đau vẫn cứ cuộn sóng.
Thế giới trong thơ Mai
Văn Phấn còn hiện lên trong không gian hư ảo của giấc mơ, không gian đầy mộng
mị, siêu thực của bóng người, bóng con vật, bóng đồ vật... Chẳng hạn:
Bóng ta không còn phân vân trên vách liếp muốn lưu giữ hư
danh và sủng ái mơ hồ. Bóng minh bạch trên mặt gương, trên tường vôi, đá ốp,
trong tơ nhện vô tình ràng buộc hạt sương làm thổn thức cỏ non.
Ta theo bóng những cây cầu bắc qua sông lờ lững, qua trễ
nải lo âu của hoa cỏ đôi bờ, qua cái miệng xoáy nước ngây thơ chưa biết nói,
qua hồn người chết đuối không biết bơi.
Còn bóng ai in trên quả chuông, loa kèn, tang trống. Nơi
ấy Phật-Thích-Ca và Chúa Giê-Su cộng hưởng, làm sự im lặng cũng nhấp nhô chuyện
trò trong khoảng rỗng ban mai.
Sinh ra từ ngọn lửa và ánh sáng, bóng chạy theo mình, cái
có có không không duy nhất mắt ta nhìn thấy được
(Chương III: Cộng hưởng
I – Người cùng thời)
Và bên cạnh cái không
gian hiện thực mô tả cái thực tại cuộc sống, không gian tâm tưởng là cái niềm
tin, ước vọng về tương lai. Trong thơ Mai Văn Phấn còn xuất hiện kiểu không
gian thực ảo đan xen, tạo ra hiệu ứng về một xã hội khó đoán định, đưa đến cái
nhìn đa chiều về đời sống, gợi cảm giác bất an trước sự đổ vỡ của trật tự xã
hội. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật đắc địa trong việc thể hiện tư tưởng
cũng như quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ trước hiện thực cuộc
sống. Không gian thực là không gian mà trong thời điểm hiện tại con người đang
sống, chịu sự chi phối và không thể tách ra được. Còn không gian ảo là do tưởng
tượng, liên tưởng, suy tưởng đẩy đến một miền không gian khác nhằm thoát khỏi
hiện tại. Không gian thực - ảo đan xen làm cho người tiếp cận mơ hồ, khó đoán
định:
Trăng đã về bên kia
Phủ lên những nụ hôn khác
Màn sương, mùi cỏ khác
Nơi ấy một dòng kênh
Bóng con thuyền nhỏ qua cầu
Bờ đá nằm im nghe mồ hôi lạ
Giọt giọt trăng khuya
(Mùa trăng)
Trong đoạn thơ trên,
hình tượng trăng xuất hiện trong một không gian mơ hồ, không xác định: “trăng
đã về bên kia”. “Bên kia” là ở đâu? Bên kia là ở đâu chưa biết, nhưng ở đây nó
đặt trong sự tương quan đối sánh với bên này. Nghĩa là giờ đây trăng không còn
ở đây nữa. Nó đã “phủ lên những nụ hôn khác/ màn sương, mùi cỏ khác”. Bên này –
bên kia rồi lại bên kia – bên này. Thực ảo cứ thế đan xen lẫn lộn khiến người
đọc, người nghe có cảm giác mơ hồ với thực tại.
Mai Văn Phấn đã thật sự
thành công trong việc dựng không gian nghệ thuật để truyền tải, gửi gắm những
thông điệp của mình về cuộc sống. Kiểu không gian đa chiều biến ảo đó đưa lại
cho người đọc một cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Trong cái không gian ấy, Mai
Văn Phấn đã vẽ ra những bức tranh đời sống khác nhau, có mảng sáng, có mảng
tối, có hiện tại, có quá khứ và cả tương lai. Và không gian ấy cũng mang đậm
dấu ấn riêng của tác giả.
3.3.2. Thời gian phi tuyến tính
Thời gian nghệ thuật là
một phạm trù triết học, là đại lượng xác định quá trình hình thành, vận động,
phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan. Cùng
với không gian, thời gian là hình thức khẳng định sự tồn tại của vật chất. Khi
phản ánh cuộc sống, văn học đề cập đến thời gian như là nhân tố cốt yếu để làm
nên giá trị tác phẩm.
Thời
gian trong quan niệm của nhà văn được tư duy ở nhiều khía cạnh khác thời gian
vật lí. Nó không còn là dòng chảy một chiều hướng về phía trước, mà nó còn là
mối lo âu, trăn trở, do đó có sự đảo ngược, xáo trộn. Thời gian nghệ thuật có
thể quy về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, và có thể kéo dài
trong chốc lát thành vô tận. “Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian
của con người trong từng thời kì lịch sử, từng giai đoạn phát triển, nó cũng
thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về phương thức tồn tại của con người
trong thế giới” [18; 323].
Nếu trước đây thời gian
tuyến tính từng chiếm giữ vị trí độc tôn trong thơ ca kháng chiến, thơ ca cách
mạng “đường thiên lí càng đi càng rộng”, “những ngày tôi sống ở đây là đẹp
nhất”, ...thì nay trong thơ hậu hiện đại nói chung, thơ Mai Văn Phấn nói riêng
thời gian ấy đã bị phá vỡ đứt nối và đảo lộn, nó gắn bó với cuộc sống hiện đại,
mang hơi hướng của con người hiện đại hôm nay. Thời gian phi tuyến tính, đứt
nối, đảo lộn này gắn bó song hành cùng không gian đa chiều, biến ảo làm nên
diện mạo mới cho văn học. Thời gian này đã tạo nên hiệu ứng về một xã hội mới,
nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh con người trong mối quan hệ với hiện
thực đời sống. Cái đứt nối, đảo lộn không chỉ dừng lại là tính chất của một trò
chơi cấu trúc văn bản được làm lạ hóa, gây chú ý cho người đọc, thay đổi sự tập
trung hoặc phi tập trung, mà nó còn tạo ra cho tác phẩm nhiều khoảng vắng.
Trong những trang thơ
của Mai Văn Phấn, thời gian hiện lên không chỉ trong một thời điểm nhất định mà
nó có sự đan xen hòa quyện giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Điều đó
cũng rất dễ hiểu bởi nhà thơ Mai Văn Phấn luôn nghĩ con người ta
sống không thể tách rời quá khứ “Dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương khói”.
Với dân tộc cũng vậy “Lịch sử cùng cuộn chảy với bao mạch ngầm tha
thiết ngàn sau”... Cho nên, muốn có khả năng đi tới không thể không
trang bị cho mình khả năng nhìn lại. Trong trường ca Người cùng thời Mai
Văn Phấn thể hiện rất rõ cảm thức của mình về hoài niệm quá khứ.
Đó là một quá khứ bi tráng của dân tộc:
Hình Tổ quốc nghìn năm đóng đinhvào kí ức
Mang nét vẽ dáng tổ tiên ta đội nón đứng bên trời
Giờ Tổ quốc cùng tôi mỗi buổi sớm lại tưng bừng tái hiện
Mang khuôn mặt mình thời mọc tóc thay răng
(Người cùng thời)
Hay:
Trong lời hịch năm xưa lóe lên binh khí
Xương cốt cha ông chôn bên xác quân thù
Những câu thơ chờ ta hôm nay vuốt mắt
Cọc sông Bạch Đằng đã nhổ hết chưa?
(Người cùng thời)
Đứng ở thời điểm hiện
tại nhưng nhà thơ luôn hoài niệm về một thời quá khứ vàng son đã qua. Thời khắc
đó đã qua từ rất lâu “nghìn năm” nhưng nó vẫn hằn sâu “đóng đinh vào kí ức”.
Ông cha ta xưa đã cố gắng bao nhiêu mới có được tổ quốc ngày hôm nay.
Với Mai Văn Phấn, thời
gian hoài niệm về quá khứ luôn là khoảnh khắc tâm tưởng có sức cuốn hút tác giả
mạnh mẽ. Những hồi ức ấy được bắt đầu từ thời điểm hiện tại, xuất hiện khi tác
giả chiêm nghiệm, suy ngẫm hay bắt gặp một sự vật, hiện tượng nào đó trước mắt,
hoặc thậm chí nó có mặt trong cảm xúc suy nghĩ miên man, vô định:
Xưa có con tim nào hóa đá
Để cho một ngày đá hóa con tim
Để bàn chân ta sáng lên ngọn lửa
Thắp lên phần cháy dở đêm qua
(Người cùng thời)
Thời gian “đêm” cũng là tuyến thời gian được Mai Văn Phấn đưa vào trong
thơ với tần suất khá lớn. Đêm xuống là thời khắc con người sống thật với bản
chất của mình nhất, thời gian đó mở ra một khoảng không gian bất tận và sâu
thẳm:
Úp mặt vào bóng tối lùm cây
Gió đang chạy trên lưng mình
những bước chân đô thị
Bóng tối dẫn tôi về ngôi nhà
của mẹ
Ngôi nhà như chiếc bánh không
nhân
(Nhật kí đô thị hóa)
Hay:
Những đêm không sao như còn
đây
Tôi bị kéo căng giữa những
tiếng đay nghiến của bà và mẹ
Chuyện áo cơm leo lét dầu
đèn...
Thời bom đạn bình minh như bát
vỡ
Tôi ôm chiếc bát của bóng đêm
ăn dở
Thành lực điền đối diện với
hoàng hôn
(Hát giữa hai mùa)
Thời gian trong thơ Mai Văn Phấn có khi còn được mặc định bằng mùa. Mỗi
mùa gắn với những sự vật, hiện tượng khác nhau mà khi nghe đến sẽ gợi ta nhớ
về. Xuân đến với bóng hoa đào, với cây nêu trước ngõ:
Xuân
Ngấm đất
Đào xuống gặp toàn năm cũ
(Trồng cây nêu trước nhà)
Xuân đến không chỉ với bóng hoa đào, với cây nêu trước ngõ mà ta bắt gặp
rất nhiều những nét đặc trưng của mùa xuân qua trang thơ của Mai Văn Phấn: Rượu
xuân, Gió xuân, Cuối xuân đầu hè, Nước mùa xuân, Dấu hiệu mùa xuân, Mười
bài tập mùa xuân, Đêm lập xuân, Mùa xuân, Giai điệu xuân, Gặp mùa xuân, Đầu
năm, Đêm đầu năm, Lập xuân, Đón giao thừa, Sáng mồng một, Ngày đầu năm, Giữa
xuân, Vẫn còn tết, Nắng xuân, Khát vọng đầu năm, Cuối tháng giêng, Mưa xuân
tới, Mùa, Sáng xuân, Xuân còn trong đất, Mưa đầu mùa, Mưa xuân, Cuối xuân, Đêm
giao mùa, Xuân tràn, Xuân đi, Tháng Giêng, Tắm đầu xuân...
Hạ sang khi sen nở khắp hồ:
Gió
Hương sen
(Đỉnh núi cao)
Hạ về cùng với những tia nắng nắng chói chang,
những quả bàng chín, những tiếng gà trưa: Mưa cuối hạ, Sáng mùa hè, Mùa
hạ rất gần, Ngày nóng nực, Giữa hạ, Nắng lên cao, Ngày hè, Trời nắng nhìn ra
vườn, Thay mùa, Tiếng trưa, Mùa nhãn chín, Quả bàng chín trong đêm,...
Thu đến khi trái hồng vừa chín:
Bóc trái hồng
Vừa chín
Sợ người thỉnh chuông
(Thu đến)
Thu như người bạn tình đỏng đảnh, thu mang đến nguồn cảm hứng bất tận
cho thi sĩ Mai Văn Phấn với một loạt những bài thơ: Thu chậm, Bầu trời thu,
Hạt mưa thu, Trưa mùa thu, Nắng tháng Tám, Thu chín, Cuối thu, Thu, Nắng cuối
thu, Trung thu năm nay, Tiễn mùa thu,Thu qua,Chớm đông, Trời trở lạnh, Gió mùa
về, Trong sương mù, Khúc cảm mùa thu, Gom nhặt cuối mùa, Thoáng thu, Thu về,
Nỗi nhớ mùa thu, Ký sự mùa thu, Đầu thu, Nhịp thu về, Quyền lực mùa thu,
Những bông hoa mùa thu, Thu đến, Ngày thu ở nước Nga, Sắp hết thu, Sang thu,
Sáng lập thu, Cảm giác mùa thu, Thu đầy...
Và đông đến với những trận gió buốt. Đông như người bạn ấp ủ niềm yêu
thầm kín của con người: Mùa
đông đến, Đêm đông, Giữa mùa đông, Sáng mùa đông, Đêm lạnh, Gió
đông,...
Đắp chăn
Sót lại đám lá
Run rẩy ngoài cửa sổ
(Trời rét)
Bên cạnh những bài thơ trực tiếp dùng từ chỉ thời gian ngay ở tiêu đề,
Mai Văn Phấn còn có nhiều bài thơ, nhiều câu thơ vận dụng rất khéo các kiểu từ
loại khác có tính kí hiệu mô tả thời gian như: mặt trời, trăng, tờ
lịch, bông cúc trắng, mùa lá rụng, hoa sen, sen tàn, tàn phai, kiếp, phai nhạt, cá...
Chiếc lá mùa xuân
Rơi
Trúng mùa hè
(Đích)
Chiếc lá mùa xuân rơi đón mùa hè sắp tới, chiếc lá thu rụng xuống báo
hiệu mùa đông sắp về. Dù không diễn đạt trực tiếp nhưng những tín hiệu đó đã
cho ta thấy rõ bước đi của thời gian:
Gió thu
Giữ mãi
Mới thả xuống đất
(Lá rụng)
Thời gian phi tuyến tính, không theo một trật tự nào mà đứt nối, đảo lộn
đã tạo nên hiệu ứng về một xã hội mới, nhưng không nằm ngoài mục đích phản ánh
con người trong mối quan hệ với hiện thực đời sống. Kiểu thời gian này đã làm
nên đặc trưng riêng, khó lẫn lộn đậm chất Mai Văn Phấn.
*
* *
Phương
diện nghệ thuật là cách thức để người nghệ sĩ thể hiện tư duy sáng tạo nghệ
thuật của mình. Văn học hậu hiện đại vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mới và
phức tạp là một trở ngại cho việc tiếp nhận. Do vậy thơ hậu hiện đại ở Việt Nam
đang được đón nhận với nhiều luồng ý kiến trái chiều. Có khen có chê, thậm chí
có nhiều người dị ứng với nó. Chung quy lại đó là sự dị ứng với cái mới, cái
mới chưa được hiểu rõ tường tận về nó. Đây cũng là lí do khiến nhiều nhà thơ
ngần ngại dấn thân với hậu hiện đại. Mai Văn Phấn đã mạnh dạn thể nghiệm nó
bằng cách vận dụng một số thủ pháp cơ bản vào việc sáng tác. Nhìn từ phương
thức biểu hiện, dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn trong phạm vi luận
văn xét trên ba phương diện: ngôn ngữ, giọng điệu và không gian thời gian nghệ
thuật. Ngôn ngữ chủ đạo trong thơ Mai Văn Phấn đó là ngôn ngữ mơ hồ hóa và ngôn
ngữ tạo sinh. Giọng điệu nổi bật là giọng điệu vô âm sắc và giọng điệu giễu
nhại. Mai Văn Phấn xây dựng thế giới thơ của mình trên không gian đa chiều và
thời gian phi tuyến tính. Ở mỗi phương diện chúng ta đều thấy dụng công của nhà
thơ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
C. KẾT LUẬN
1. Thơ ca Việt Nam sau 1975 là bức tranh khá phong
phú và phức tạp. Những tiền đề xã hội – thẩm mỹ của thời đại đã tạo điều kiện
cho các nhà thơ phát huy kiểu tư duy, cách cảm xúc và ngôn ngữ biểu hiện mới.
Những cách tân của thơ sau 1975 thực chất là sự tiếp nối mạch ngầm sáng tạo thơ
ca chảy qua nhiều thế hệ. Sự tìm tòi của các nhà thơ đương đại tuy chưa tạo ra
được tác giả - tác phẩm lớn nhưng đó là những hướng gợi mở, hé lộ một giai đoạn
phát triển mới của thi ca. Đặt Mai Văn Phấn vào trong dòng chảy đó, chúng ta
nhận thấy cây bút này có một vai trò cách tân khá quan trọng, là một trong
những hiện tượng độc đáo trong tiến trình đổi mới thơ Việt sau 1975.
Qua khảo sát, nghiên cứu
một số tập thơ của Mai Văn Phấn chúng ta thấy rõ sự vận động trong cảm xúc và
thi pháp thơ của tác giả nói riêng và từ đó quan sát được một phần của tiến
trình vận động của thơ đương đại nói chung. Mai Văn Phấn đã dần định hình được
một phong cách khá độc đáo. Mỗi tập thơ là một sự bứt phá của tác giả để thực
hiện sứ mệnh cách tân thơ Việt theo hướng đi tìm một diện mạo riêng cho thơ dân
tộc, làm giàu thêm truyền thống thơ ca dân tộc. Trong hành trình sáng tác, Mai
Văn Phấn đã không ngừng nỗ lực, cùng với các nhà thơ khác làm giàu thêm truyền
thống thơ ca Việt Nam. Hành trình đó một mặt phản ánh sự sáng tạo bền bỉ, vốn
kiến thức văn hóa dồi dào, mặt khác cũng khẳng định quy luật đổi mới tất yếu của
thi ca đương đại.
2. Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm hiểu những
nét nổi bật về dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn trên cả hai bình diện
cảm quan về cuộc sống, cảm quan về con người, xã hội và nhìn từ phương thức
biểu hiện. Mai Văn Phấn nằm trong dòng chung đổi mới thơ Việt, chủ trương sử
dụng các phương thức thể hiện khác biệt với quy chiếu của văn học hiện đại. Mọi
yếu tố nghệ thuật của thơ hiện đại hầu hết được thể hiện một cách tập trung,
liền mạch. Ngược lại, ở thơ Mai Văn Phấn các yếu tố đó được thể hiện một cách
rải rác, phân tán như thể những mảnh vỡ. Đến với thơ Mai Văn Phấn, người đọc có
cảm giác được tiếp xúc với một thế giới bề bộn, ngổn ngang. Thơ hạn chế một
cách tối đa sự bộc lộ chủ quan của mình. Thơ Mai Văn Phấn kích thích nhiều hơn
tính đồng sáng tạo nơi người đọc.
3. Thơ Mai Văn Phấn thể hiện cảm quan hậu hiện đại của người nghệ sĩ, cảm quan
trước thực tại hỗn độn với những sự phi lí trong đời sống của xã hội hiện đại.
Thời đại toàn cầu hóa của công nghệ thông tin tạo ra thế giới phẳng. Thế giới
ảo trong cuộc sống thực khiến cho con người đánh mất đi bản thể của mình. Các
mối quan hệ tốt đẹp của truyền thống dần bị phá vỡ. Mọi giá trị đích thực đang
bị đe dọa, sự giả dối và ngụy tạo lên ngôi.
Đứng trước thực tại ấy, Mai Văn Phấn với tâm hồn nhạy cảm đã phản ánh
hiện thực cuộc sống thời đại theo những cách riêng của mình. Ông đã cho
thấy những suy tư mang tính chiều sâu về
thân phận con người và cuộc đời, cái nhìn sâu sắc và giàu triết lí về cuộc
sống. Mai Văn Phấn được xem là một điểm sáng của sự nỗ lực và bứt phá trong
sáng tác nghệ thuật của nền thơ ca Việt Nam đương đại.
4. Các nhà thơ hậu hiện đại không gây nên phong trào, không tạo thành nhóm hay
trường phái mà mỗi người tự chơi một trò chơi riêng của mình. Mai Văn Phấn cũng
vậy, ông không quá kì công tạo nên những kĩ thuật hoàn toàn mới mà rất thoải
mái tái sử dụng tất cả những gì có sẵn trong kho tàng văn chương nhân loại. Thế
nhưng với cảm thức hậu hiện đại thì công việc tái sử dụng lại trở thành công việc sáng tạo thực sự. Thơ Mai
Văn Phấn cũng là một cách để các thi sĩ có cơ hội thể hiện bản thân. Ngôn ngữ,
giọng điệu và không thời gian trong thơ ông đều mang những dấu ấn của tác giả
qua mỗi giai đoạn sáng tác. Tuy nhiên đi vào mỗi tập thơ, chúng ta có thể thấy
những góc phản chiếu đậm nhạt khác nhau, những vênh lệch tạo nên dấu ấn cá nhân
của Mai Văn Phấn. Chính internet, văn học mạng phát triển là con đường ngắn
nhất tạo điều kiện cho các nhà văn có thể nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện
đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại. Mai Văn Phấn đã tiếp cận cái mới rất
nhanh với một tư duy vô cùng nhạy bén nên đã sớm khẳng định được vị thế của
mình trên văn đàn Việt. Dấu ấn hậu hiện đại trong thơ Mai Văn Phấn phản ánh khá
toàn diện từ cảm quan sáng tác cho đến việc vận dụng các thủ pháp nghệ thuật. Nghiên
cứu thơ Mai Văn Phấn dưới nhiều góc độ khác nhau chắc chắn sẽ còn mở ra những
chân trời mới thi vị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài
liệu văn bản:
[1]. Thái Phan Vàng Anh (2010), “Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ XXI từ góc
nhìn hậu hiện đại”, Văn nghệ quân đội (712), tr104.
[2]. Lê Huy Bắc (2013), Văn học hậu hiện đại, lí thuyết và tiếp nhận,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
[3]. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, NXB
Khoa học xã hội.
[4]. Nguyễn Hồng Dũng (2015), Ảnh hưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại đối với
tiểu thuyết Việt Nam từ năm 1986 đến 2010, Luận án tiến sĩ, Đại học Huế.
[5]. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB Giáo dục.
[6]. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn
Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức (2000), Văn học Việt Nam (1900-1945), Nxb Giáo dục.
[7]. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học.
[8]. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau 1975 – từ cái nhìn toàn cảnh”,
Tạp chí nghiên cứu văn học số 11.
[9]. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng,
NXB Văn học.
[10]. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thi ca, NXB Khoa học
xã hội.
[11]. Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Hà Nội.
[12]. Hà Văn Đức (2000), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb Giáo
dục.
[13]. Mai Thị Liên Giang (2015), Chủ thể tiếp nhận và lịch sử tiếp nhận thơ Mới,
NXB Hội nhà văn VN.
[14]. Mai Thị Liên Giang (2018), An trú miền đọc, NXB Hội nhà văn VN.
[15]. Mai Thị Liên Giang (2019), “Cảm thức thời gian trong thơ Mai Văn Phấn”,
Tạp chí Dạy và Học ngày nay, kỳ 2 - 11/2019.
[16]. Hồ Thế Hà (2018), Thơ Việt Nam hiện đại - Thi luận và Chân dung, NXB Hội nhà văn VN.
[17]. Hồ Thế Hà, Nguyễn Thành (2014), Phân tâm học với văn học, NXB Đại học Huế.
[18]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (2006), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Văn học.
[19]. Hoàng Thị Huế (2014), “Ánh xạ từ biểu tượng cái tôi trong thơ của một
số nhà thơ Việt đương đại”, Tạp chí khoa học Đại học Huế.
[20]. Hoàng Thị Huế (2014), “Thơ Việt đương đại nhìn từ hành trình cách
tân”, Tạp chí khoa học Đại học Huế.
[21]. Jean Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, NXB Tri thức.
[22]. Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn khác biệt
và thành công (Kỷ yếu hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011), NXB Hội nhà văn.
[23]. Phương Lựu (chủ biên 2002), Lý luận văn học, tập 1: Văn học - nhà văn -
bạn đọc, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.
[24]. Phương Lựu (2011), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, NXB Đại
học Sư phạm Hà Nội.
[25]. Phương Lựu (2013), Lí luận văn học (tập 3) Tiến trình văn học,
NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
[26]. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học,
Nxb trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[27]. Mai Văn Phấn (2003), Cầu nguyện ban mai, NXB Hội nhà văn VN.
[28]. Mai Văn Phấn (2003), Vách nước, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[29]. Mai Văn Phấn (2009), Hôm sau, NXB Hội nhà văn VN.
[30]. Mai Văn Phấn (2009), và đột nhiên gió thổi, NXB Hội nhà văn VN.
[31]. Mai Văn Phấn (2010), Bầu trời không mái che, NXB Hội nhà văn VN.
[32]. Mai Văn Phấn (2012), hoa giấu mặt, NXB Hội nhà văn VN.
[33]. Mai Văn Phấn (2013), Vừa sinh ra ở đó, NXB Hội nhà văn VN.
[34]. Mai Văn Phấn (2015), thả, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
[35]. Mai Văn Phấn (2018), Lặng yên cho nước chảy, NXB Hội nhà văn VN.
[36]. Mai Văn Phấn (2018), Tĩnh lặng, NXB Hội nhà văn VN.
[37]. Mai Văn Phấn (2018), Thời tái chế, NXB Hội nhà văn VN.
[38]. Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả
lời phỏng vấn, NXB Hội nhà văn VN.
[39]. Trần Đình Sử (2012), Một nền lí luận văn học hiện đại, NXB Đại
học Sư phạm.
[40]. Đỗ Lai Thúy (2012), Thơ như là mỹ học của cái khác, NXB Hội
nhà văn VN.
[41]. Honderich Ted (chủ biên) (2002), Hành trình cùng triết học (Lưu Văn Hy dịch),
Nxb Văn hóa thông tin.
B. Tài liệu mạng:
[42]. Lê Huy Bắc, Đôi điều về văn chương hậu hiện đại Việt Nam,
http://tonvinhvanhoadoc.vn/.
[43]. Hoàng Hữu Các (2009), Tập thơ và đột nhiên thổi gió của nhà thơ
Mai Văn Phấn,
maivanphan.com.
[44]. Nguyễn Việt Chiến (2010), Mai Văn Phấn trong “vòng xoáy” của thơ hậu -
hiện - đại,
maivanphan.com.
[45]. Nguyễn Hồng Dũng (2015), Nghiên cứu - phê bình văn học hậu hiện đại ở
Việt Nam: Những diễn giải và quan niệm,
http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=5631%3Aedweesd&catid=94%3Aly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Ite
mid=135&lang=vi
[46]. Nguyễn Quang Hà (2012), Một số cách tân nghệ thuật trong thơ Mai Văn
Phấn, Luận văn thạc sĩ, Đại học Thái Nguyên,
maivanphan.com.
[47]. Đào Duy Hiệp (2010), “Cấu
trúc ngôn ngữ và hình ảnh trong tập thơ Và đột nhiên gió thổi của Mai Văn Phấn”,
http://www.vanchuongviet.org.
[48]. Nguyễn Hiệp, Mai Văn Phấn: vượt thoát về phía trong veo,
http://www.vanvn.net.
[49]. Inrasara (2007), “Thơ hậu hiện đại Việt, kẻ khai mào”,
www.thotre.com.
[50]. Inrasara (2013), Mai Văn Phấn - kết thúc cho một khởi đầu,
maivanphan.com.
[51]. Hoài Khánh (2009), “Với Hôm sau, nhà thơ Mai Văn Phấn thêm một lần
tự đổi mới mình”,
hoaikhanh.vnweblogs.com, truy cập ngày 25/3/ 2019.
[52]. Hoài Khánh (2010), “Mai Văn Phấn với Bầu trời không mái che”,
hoaikhanh.vnweblogs.com, truy cập ngày 25/3/ 2019.
[53]. Dương Kiều Minh (2009), “Hiện thực giả định và hiện thực tâm tưởng
trong thơ Mai Văn Phấn”,
http://vnca.cand.com.vn
[54]. Cao Năm (2013), Nhà thơ Mai Văn Phấn hiện thân của sự sáng tạo,
http://nhavantphcm.com.vn.
[55]. Hoàng Thị Thanh Nhàn (2014), Thế giới nghệ thuật trong thơ Mai Văn Phấn,
Luận văn cao học, Trường Đại học Vinh,
maivanphan.com.
[56]. Dương Thị Phú (2018), Thơ Mai Văn Phấn từ góc nhìn phê bình sinh
thái, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
maivanphan.com.
[57]. Vĩnh Phúc (2009), “Mai Văn Phấn với Hôm sau và Đột nhiên gió thổi”,
http://doanvinhphuccr.vnweblogs.com
[58]. Lê Hồ Quang (2014), "Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn",
http://maivanphan.vn.
[59]. Lê Hồ Quang (2014), Đặc trưng thế giới nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn,
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh
[60]. Lê Hồ Quang (2014), “Tất cả chúng ta vừa sinh ra ở đó”,
http://maivanphan.vn
[61]. Nguyễn Hưng Quốc (2009), Chủ nghĩa hậu hiện đại - những mảnh nghĩ rời,
http://www.tienve.org/home/activities/viewTopics.do?action=viewArtwork&artwor
[62]. Đặng Văn Sinh (2009), “Mai Văn Phấn và khúc biến tấu Hôm sau”,
http://maivanphan.com.
[63]. Đỗ Minh Tuấn, Chập chờn bóng ma hậu hiện đại,
http://htx.dongtak.net.
[64]. Đặng Thân (2009), “Mai Văn Phấn và công nghệ cách tân thơ”,
http://maivanphan.vn
[65]. Mai Thị Thảo (2014), Cảm hứng tôn giáo trong thơ Mai Văn Phấn,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội, đăng trên:
maivanphan.com.
[66]. Vũ Thị Thảo (2012 ), Đặc điểm nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn, Luận
văn cao học, Trường Đại học Đà Nẵng,
http://maivanphan.com
[67]. Nguyễn Đình Thi (2003), Mấy ý nghĩ về thơ,
http://www.talawas.org/talaD B/showFile. php?res=911&rb=0101
[68]. Nguyễn Ngọc Thiện (2013), Xóa nhòa ranh giới giữa thơ ca và văn xuôi
trong thơ văn xuôi của Mai Văn Phấn,
http://maivanphan.com
[69]. Nguyễn Thị Thùy Trang (2015), Dấu ấn chủ nghĩa siêu thục trong thơ Mai Văn
Phấn,
http://maivanphan.com
[70]. Đặng Thị Phượng Vĩ (2015), Văn xuôi Vũ Đình Giang – tính chất đa giọng
điệu,
http://bichkhe.org.
[71]. Bão Vũ (2008), “Đọc Tắm đầu năm” (Thơ của Mai Văn Phấn),
http://maivanphan.vn
[72]. Lê Vũ (2009), “Bài học & phong cách hậu hiện đại”,
http://damau.org, truy cập ngày 30/ 11/ 2018.
[73]. Lê Vũ (2011), “Bầu trời không mái che của Mai Văn Phấn”
Nguồn
http://doanvinhphuccr.vnweblogs.com, truy cập
ngày 30/ 11/ 2018.
STT
|
Về
cuộc sống
|
Về
con người
|
Về xã
hội
|
1
|
“Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”
|
“Quyền lực mùa thu”
|
“Đến trong ý nghĩ”
|
2
|
“Nhật kí đô thị hóa”
|
“Cặp hài vạn dặm
|
“Chỉ là giấc mơ”
|
3
|
“Chú tiểu chùa nghèo”
|
“Biến tấu con quạ”
|
“Quay theo mái nhà”
|
4
|
“Cái nhìn”
|
“Đúng vậy”
|
“Xử lí nghiêm”
|
5
|
“Nắng xuân”
|
“Không thể tin”
|
“Hoa ở hội trường”
|
6
|
“Ngồi giữa lá sen”
|
“Ở những đỉnh cột”
|
“Quy hoạch con đường”
|
7
|
“Cái miệng bất tử”
|
“Ở Sokcho”
|
“Nhật ký”
|
8
|
“Nét quê”
|
“Tắm đầu năm”
|
“Mọi người”
|
9
|
“Dậy trẻ con”
|
“Để anh nhận ra”
|
“Bác tôi”
|
10
|
“Không thể tin”
|
“Kể lại giấc mơ”
|
“Cửa mẫu”
|
11
|
“Thế giới hiện hữu”
|
“Đá trong lòng suối”
|
“Màu xanh”
|
12
|
“Quay theo mái nhà”
|
“Một mình”
|
“Chọn cảnh”
|
13
|
“Nếu”
|
“Chuyện còn dài”
|
“Qua ngõ hàng xóm”
|
14
|
“Ghi ở Vạn
Lí
trường thành”
|
“Nhìn anh”
|
“Những bông hoa
mùa thu”
|
15
|
“Sống hồn
nhiên”
|
“Tắm đầu
năm”
|
“Nếu”
|
16
|
“Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ”
|
“Còn cậu hãy đứng ở đằng kia”
|
“Ngậm em trong miệng”
|
17
|
“Được quyền nghĩ những điều đã ước”
|
“Vô tình trong nắng sớm”
|
“Tĩnh lặng 11”
|
18
|
“Biến tấu con quạ”
|
|
|
19
|
“Anh anh em em”
|
|
|
20
|
“Nhóm lửa”
|
|
|
21
|
“Bài ca mùa màng”
|
|
|
22
|
“Những trái tim giải thoát”
|
|
|
23
|
“Hình đám cỏ”
|
|
|
24
|
“Nỗi nhớ mùa thu”
|
|
|
25
|
“Bài ca buổi sớm”
|
|
|
26
|
“Đỉnh gió”
|
|
|
27
|
“Đất mở”
|
|
|
28
|
“Linh hồn đã bay”
|
|
|
29
|
“Mùa hạ rất gần”
|
|
|
30
|
“Qua hoàng hôn”
|
|
|
Học viên Cao học Lê Thị Ngọc Hà bảo vệ luận văn Thạc sĩ
STT
|
Về cuộc sống
|
Về con người
|
Về xã hội
|
1
|
“Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc”
|
“Quyền lực mùa thu”
|
“Đến trong ý nghĩ”
|
2
|
“Nhật kí đô thị hóa”
|
“Cặp hài vạn dặm
|
“Chỉ là giấc mơ”
|
3
|
“Chú tiểu chùa nghèo”
|
“Biến tấu con quạ”
|
“Quay theo mái nhà”
|
4
|
“Cái nhìn”
|
“Đúng vậy”
|
“Xử lí nghiêm”
|
5
|
“Nắng xuân”
|
“Không thể tin”
|
“Hoa ở hội trường”
|
6
|
“Ngồi giữa lá sen”
|
“Ở những đỉnh cột”
|
“Quy hoạch con đường”
|
7
|
“Cái miệng bất tử”
|
“Ở Sokcho”
|
“Nhật ký”
|
8
|
“Nét quê”
|
“Tắm đầu năm”
|
“Mọi người”
|
9
|
“Dậy trẻ con”
|
“Để anh nhận ra”
|
“Bác tôi”
|
10
|
“Không thể tin”
|
“Kể lại giấc mơ”
|
“Cửa mẫu”
|
11
|
“Thế giới hiện hữu”
|
“Đá trong lòng suối”
|
“Màu xanh”
|
12
|
“Quay theo mái nhà”
|
“Một mình”
|
“Chọn cảnh”
|
13
|
“Nếu”
|
“Chuyện còn dài”
|
“Qua ngõ hàng xóm”
|
14
|
“Ghi ở Vạn Lí
trường thành”
|
“Nhìn anh”
|
“Những bông hoa
mùa thu”
|
15
|
“Sống hồn nhiên”
|
“Tắm đầu năm”
|
“Nếu”
|
16
|
“Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ”
|
“Còn cậu hãy đứng ở đằng kia”
|
“Ngậm em trong miệng”
|
17
|
“Được quyền nghĩ những điều đã ước”
|
“Vô tình trong nắng sớm”
|
“Tĩnh lặng 11”
|
18
|
“Biến tấu con quạ”
|
|
|
19
|
“Anh anh em em”
|
|
|
20
|
“Nhóm lửa”
|
|
|
21
|
“Bài ca mùa màng”
|
|
|
22
|
“Những trái tim giải thoát”
|
|
|
23
|
“Hình đám cỏ”
|
|
|
24
|
“Nỗi nhớ mùa thu”
|
|
|
25
|
“Bài ca buổi sớm”
|
|
|
26
|
“Đỉnh gió”
|
|
|
27
|
“Đất mở”
|
|
|
28
|
“Linh hồn đã bay”
|
|
|
29
|
“Mùa hạ rất gần”
|
|
|
30
|
“Qua hoàng hôn”
|
|
|