Nguyễn Quang Thiều "Dưới cái cây ánh sáng"

"Cây Thiên Đường" của Nguyễn Quang Thiều, sơn dầu trên toan, 2021
DƯỚI CÁI CÂY ÁNH SÁNG
một
Đã thiếp ngủ những hài cốt trong nghĩa địa ngoại thành, những con giun mộng du miên man trong đất
Đã thiếp ngủ đâu đấy tội lỗi, lương thiện đâu đấy cũng ngủ, những pho sách ngủ mãi từ thế kỷ trước bởi quá mệt mỏi
Chỉ vòm cây trước ngôi nhà an ủi kẻ đau đớn không ngủ trong tiếng rì rào
Ngồi sâu trong bóng tối bệnh tật, một thi sỹ trong thị xã bé bỏng bị trúng mũi tên của số phận bất trắc và ái tình, trái tim chàng nhiễm trùng sưng tấy
Chàng đã từng lấy trái tim mình đặt trên một chiếc khay ngọc trắng và im lặng ngắm nhìn
Trái tim chàng kia ư? giản dị làm sao, bí ẩn làm sao, trần trụi và đau đớn làm sao
Tiếng đập lúc thì thầm sợ hãi, lúc rền vang như sấm, lúc muốn lao vút khỏi thân xác của chàng như một sao băng
Chàng ngồi đó suốt đêm trống rỗng như lồng ngực không có tim, đôi lúc sợ hãi không dám cất lời đối thoại
Với cả một con kiến bò lang thang vô định trên chiếc bàn rộng trong đêm
Đôi lúc chàng không dám cầm trái tim mình đặt vào chỗ cũ trong lồng ngực tối đen bởi chàng sợ những đau đớn, những tuyệt vọng và cả những cơn mơ
Trong tiếng đập không ngưng nghỉ, không cho phép chàng được chạy trốn khỏi đời sống
Ai đó lại đến bên chàng, không phải một bóng ma, nhưng chàng không bao giờ nhìn thấy mặt, ngồi đối diện kể cho chàng nghe câu chuyện loạn luân
Và những câu chuyện tình bi thương cùng cái chết bởi rượu độc, dây treo cổ, cùng những tháng ngày buồn tẻ lờ đờ trôi từ những thế kỷ trước
Chàng muốn ra đi khỏi thế gian này trong đêm tối khi tất cả còn đang say ngủ
Nhưng lần nào cũng vậy chàng không thể rời khỏi chiếc ghế hành hình lương tâm do chính chàng đặt trong căn phòng mà chàng sẽ tự nguyện ngồi vào đó đêm đêm
Khi chàng đủ can đảm đứng lên thì ban mai lại đến với chàng sớm hơn thần chết một bước chân
Dòng sông vươn lên, những vòm cây được thắp sáng bình minh, con chó già sung sướng thoát khỏi bóng tối với những hình ảnh lũ ma
Và chàng ở lại thị xã bé bỏng và tội nghiệp với những câu chuyện loạn luân kể mãi sang tận ngày mới
Những câu chuyện tình lấp lánh và rực đỏ như máu quyến rũ và kinh hãi chảy không ngưng nghỉ từ ngực chàng
Vẫn chiếc ghế ấy trong bóng tối chàng đau đớn nghĩ tới người đàn bà đau ốm với nỗi đau buồn lớn hơn toàn bộ đời sống của nàng
Nàng có đôi mắt, hai ngọn đèn bão trong đêm mưa biển
Hai ngọn đèn sáng mãi trong mưa gió xa xôi, xa xôi như ở tận bến bờ bên kia, xa như nàng đã chết từ lâu
Sáng mãi im lặng trong gió gào, trong mưa, trong tiếng rền rĩ đau thương biển cả
Nàng là ai? những người đàn bà đi qua cuộc đời chàng là ai? Nô lệ của chàng hay Nữ hoàng của chàng? Thánh thần hay Ma quỉ?
Ôi những người đàn bà suốt đời đau đớn bởi tình yêu đã yêu chàng như uống thuốc an thần để chống lại cơn mất ngủ của vô vọng
Chàng là ai? Chàng sinh ra trên thế gian này với sứ mệnh gì? Chàng có phải là một côn trùng tội lỗi?
Để xoè cánh bay từ vòm cây này đến vòm cây kia và đẻ trứng trên những phiến lá?
Hay chàng là một Thiên Thi bị Thượng Đế đầy đoạ vì những câu thơ tuyệt vọng và rồ dại
Hay bởi da thịt nặng nề và nhớp nháp như một con đỉa khổng lồ bám lấy bộ xương chàng
Nó hút ý nghĩ chàng? hút sự trong sáng của chàng? hút ngôn ngữ chàng? hút những cơn mơ rực rỡ của chàng?
Hay chàng sinh ra chỉ để chứng kiến những đàn bà loạn luân, những đàn bà đắm mê giọng nói trầm và nóng như lửa của chàng và chứng trầm cảm của những mối liên hệ bởi những văn bản nô lệ
Hay chàng là một túp lều nhỏ nhoi của tự do trên thế gian như bay tốc lên bởi những cơn cuồng phong ái luỵ, hay chàng là cánh cửa nhà tù của đời sống này có một lần quên khoá
Hay chàng là ví dụ của một côn trùng khổng lồ không cánh, của loài sói, ví dụ của đại bàng, ví dụ của ngôi sao cô độc trong vũ trụ vô tận
Là ví dụ của lạc đà chất trên lưng không phải vàng bạc châu báu hay những túi nước ngọt mà là những bao tải cát để đi qua sa mạc cát
Ôi đó có phải là trò đùa hay đó là phép thiêng giản dị và vô lý như cát trong những bao tải kia
Nhưng lạc đà không chối bỏ những bao tải cát trên lưng và không rời bỏ những con đường sa mạc cát
Lạc đà có thể gục ngã đâu đấy trong một ngày nào đấy trên cát và chỉ kêu lên một tiếng: Ôi sa mạc.
Sự khắc nghiệt độc ác của ngươi là thách thức khổng lồ, vực sâu tuyệt vọng và là bài ca kỳ vĩ của ta.
Sa mạc thè những cái lưỡi cát khổng lồ nuốt chàng vào sâu trong cái dạ dày lãng quên
Nhưng chàng đã đứng dậy như lạc đà với sức nặng khủng khiếp chỉ của một hạt cát trên lưng, nhẫn nại và kiêu hãnh bước đi
Hay chàng là một thi sỹ chân chính của xứ sở này không dối lừa mình, chàng là ví dụ của điên loạn đập cánh và sự dày vò như sóng bạc đầu của đại dương thanh sạch nhất thế gian
Hay chàng là kẻ mang cơn mơ phá tung những bức tường, những cánh cửa của thế gian nơi chàng đang sống
Hay chàng chỉ là một ống họng khổng lồ rống vang hai tiếng khổng lồ đau đớn: Tự do.
Có khoảng khắc trong bóng tối những ngón tay chàng vuốt ve chính da thịt chàng đã làm chàng đau buốt và gục đầu nức nở
Chàng đã từng khóc âm thầm bởi những cơn mê đói khát của con đỉa khổng lồ
Mà chàng không thể gỡ nó khỏi chàng, chàng vẫn phải tắm rửa cho nó và mặc áo quần cho nó, đặt tên cho nó và nhiều lúc bào chữa cho nó
Ôi quyền lực và sự man rợ của bóng tối biến chàng thành côn trùng? thành con sói cô độc? thành đại bàng im lìm trên đỉnh núi lạnh? thành lạc đà và thành ngôi sao xanh?
Giấc mơ nào chàng cũng gặp những người đàn bà mang thai xanh như nước biển đi qua ngôi nhà
Họ đã đi và vẫn đi, còn đi mãi, chàng không làm sao quên được, chàng cất tiếng gọi nhưng họ vẫn lặng lẽ rời xa
Chàng không cứu được họ, chàng không phải là viên thuốc an thần khổng lồ cho họ, chàng chỉ là một cơn mơ chống lại sự khiếp sợ của đêm tối
Và trong cơn mơ ấy chàng đau đớn hơn tất cả hiện tại.
Chàng không biết những người đàn bà mang thai xanh như nước biển sẽ nằm xuống sinh nở nơi nào
Và giấc mơ cùng trống rỗng của chàng có được sinh ra như những hài nhi đầm đìa nước ối và máu sản phụ
Nhưng một đêm nao, một người đàn bà quay lại nhìn chàng và chàng lại thấy
Hai ngọn đèn bão toả sáng đau buồn và ấm áp trong đêm mưa biển xa xôi
Với thông điệp về một thế giới mà chàng không thể nào đến được nhưng ám ảnh chàng hơn cả cái chết
Chàng là ví dụ của kinh hãi ngồi trước những viên thuốc đủ cho chàng ngủ vĩnh viễn
Là ví dụ ngược nghĩa với những văn bản giả rối, ví dụ của những cơn sốt không virus, ví dụ của khát thèm được đâm thủng cổ họng mình
Chàng là ai? bóng tối không có câu trả lời, ban mai không có câu trả lời, chàng là ai?
Cả những người phán xử chàng cũng không có câu trả lời, cả những người hận thù chàng, cả những người yêu dấu chàng và khóc vì chàng trong bóng tối định mệnh
Cả những người đàn bà tội lỗi và thánh thiện vẫn vuốt ve con đỉa khổng lồ bám chặt bộ xương chàng và thì thầm run rẩy với con đỉa ấy, bị hành hạ vì con đỉa ấy, tự vẫn vì con đỉa ấy và tìm thấy một chút ý nghĩa đầy ảo giác với con đỉa ấy
Chàng có còn sống không? Chàng không biết. Hay chàng bây giờ chỉ là cái bóng quá khứ của chàng
Sao tuyệt vọng và trống rỗng và dối trá và tình yêu lấp lánh và kinh hãi như máu chảy trên ngực không giết chàng? Chàng thèm lưỡi dao xuyên thủng trái tim chàng lúc này hơn mọi ân huệ
Chàng đã từng mơ lưỡi dao mang ánh sáng giá lạnh xé đôi trái tim dữ dội và mềm yếu của chàng
Như một ánh sao băng xé bóng tối ở một miền của vũ trụ các hành tinh đã chết
Đôi lúc không có gì quyến rũ chàng trong bóng tối bằng động tác từ từ gục xuống nền gạch lạnh
Và hân hoan được kêu lên lần cuối như tiếng rống cô độc của sư tử: Ôi cái chết.
Nhưng chàng đã không ngưng nghỉ như đại bàng đập cánh để bay lên khỏi thân xác của chàng
Khi đại bàng đã bay cao thì nặng nề của thân xác không còn
Nhưng khi bóng tối ụp xuống chàng lại rơi xuống đại dương trống rỗng với ngàn câu hỏi
Chàng đang sống thật ư? Hay đấy chỉ là cái bóng của chàng đang mỗi lúc một mờ? hay đang tan dần vào ánh sáng? hay chàng không có thật trên thế gian
Hay chàng chỉ là một ảo ảnh của chính chàng, ảo ảnh của một ảo ảnh? và chàng đi từ ảo ảnh này sang một ảo ảnh khác.
Nhưng chàng vẫn tin chàng sẽ tìm thấy chàng đích thực trong những ảo ảnh kia
hai
Hỡi Chúa Trời, con quỳ dưới chân người, con gánh trên lưng con bóng tối khổng lồ
Đôi môi con run rẩy chạm vào những ngón chân Người giá lạnh nhưng những giọt máu chảy từ bàn tay bị đóng đinh của Người từng giọt, từng giọt rơi xuống ngực con rực sáng và nóng ấm vô tận
Cây thập giá nơi Người bị đóng đinh trong đêm sừng sững dựng lên cái Cây Ánh Sáng vĩ đại nhất trên thế gian này
Người đã cho con một thân thể mạnh mẽ làm sao, rực nóng làm sao mà đau đớn làm sao
Người đã lấy đau đớn và hổ nhục thân xác con để bọc trái tim đầm đìa máu và mạnh mẽ và huyền ảo như lửa và một linh hồn trong sáng
Người đã cho con ngôn từ để con cất lên trong cả những câu thơ chưa kịp làm lễ đặt tên đã biến mất
Con đã sinh ra trên thế gian này con đã uống sữa thơm và mật ngọt của người
Tuổi thơ con đã từng được những thiên thần của Người dắt chạy trên cánh đồng lộng lẫy của thế gian
Con đã cười vang, tiếng cười trong như ban mai khi chơi trò đuổi bắt cùng những thiên thần của Người
Con đã từng nằm trong vòng tay ấm như hơi lửa để các thiên thần dắt con vào cơn mơ và kể cho con câu chuyện về những con chim Tao Linh mổ những bông tuyết đầu tiên đêm Giáng Sinh và uống ánh sáng những ngôi sao và đêm đêm ngủ trên những vầng mây trắng
Con đã ngước lên cao trong sáng và tinh khiết và mặt con ngập tràn ánh sáng trong những đêm tối thế gian
Rồi con lớn lên, các thiên thần không còn dắt tay con, con phải tự bước đi trên con đường thế gian đơn độc, buồn bã, khổ đau và quỉ dữ bám mãi theo con
Con đã đến nơi ấy xa xôi trong một chiều không định trước, nơi ô cửa ngàn năm trên một tháng đường hoang phế vẫn toả sáng ánh mắt của Người
Giờ con nhận ra chính trong bóng tối quá nặng nề nơi con lại ngập tràn ánh sáng của Người
Và lúc này da thịt con đau đớn làm sao, tội lỗi làm sao ẩn náu dưới sự quyến rũ của vẻ đẹp cơ bắp cường tráng
Con chỉ biết ngước lên, gương mặt nhàu nát, sạm đen, tuyệt vọng và sợ hãi của con đang sáng dần lên trong ánh mắt của Người
Hãy để những giọt máu chảy từ hai bàn tay bị đóng đinh của Người rửa sạch tâm hồn con
Để ánh sáng của Người xua tan trong lòng con bóng tối của khiếp sợ, của tội lỗi, của tuyệt vọng
Để khi bóng tối ập xuống cố dìm con tận đáy của sợ hãi, của cơn đói dục vọng thì ngôn ngữ Người ban cho con rực rỡ hiện lên
Giống những ngọn đèn Người vẫn thắp đêm đêm từ thuở trái đất sinh ra và sáng mãi, sáng mãi lặng im để con quỳ xuống vừa khóc vừa hát
Trong triệu triệu, triệu triệu tiếng chuông rung lên trên những thánh đường nơi người đã lướt qua ánh sáng ngập tràn
ba
Bóng đêm vẫn vây bọc chàng mỗi lúc một dày trong thị xã bé nhỏ này không ai thức cùng chàng
Chỉ có chàng đang ngồi trước một kẻ là chàng, kia những ngón tay thô, kia cặp môi dày luôn luôn nung trong lửa
Kia mái tóc rụng dần như lá cây mùa đông, kia bộ ria mép bạc, kia giọng nói khàn và sâu như đáy đại dương
Một kẻ là chàng ánh sáng và một kẻ là chàng bóng tối
Một kẻ ngập tràn ánh sáng và miệng chứa đầy ngôn ngữ minh tuệ
Một kẻ ngồi trên chiếc ghế hành hình ngập bóng tối tự trừng phạt mình, chỉ trái tim không ngơi nghỉ dội vang
Cả hai đối mặt nhau không phải một người ngoài gương và một người trong gương
Một ánh sáng là chiếc gương của bóng tối và một bóng tối là chiếc gương của ánh sáng
Tất cả chỉ là một nhưng trong ánh sáng của Người, một đau đớn thân xác, một đau đớn tâm hồn
Cả hai không còn con đường nào để lẩn trốn nhau, giờ đối mặt nhau, và đấy là con đường cứu rỗi:
- Mi không còn đường chạy thoát khỏi ta được nữa. Mi là ta bóng tối và ta là mi ánh sáng
- Ta không hề chạy trốn ngươi. Ta chỉ chạy trốn ta và hơn thế ta truy lùng bản ngã
- Mi có biết ta yêu mi đến tan vỡ trái tim và cũng căm thù mi đến vỡ trái tim. Mi là niềm kiêu hãnh của ta và nỗi thống khổ của ta. Ta đã từng nguyền rủa mi và cũng từng ngắm nhìn mi và ta hạnh phúc khóc âm thầm và kiêu hãnh cất lời ca ngợi
- Ôi vì ngươi mà ta phải dày vò, phải đớn đau và mơ ước hơn tất cả những kẻ sống quanh ta. Nhưng ta phải sống. Kìa hãy nhìn những cái cây vòm lá hát cả khi gục đổ
- Dù căm thù mi những ta vẫn muốn ngắm nhìn mi. Mi tội nghiệp làm sao và mi đẹp đẽ làm sao
- Ngươi là ta ánh sáng, sao ngươi không tràn ngập thịt xương ta, không toả sáng phần bóng tối của người anh em song sinh với ngươi
- Sẽ đến một ngày như thế, nhưng không phải lúc này vì con đường mi đi không hạn định. Nhưng Chúa Trời sẽ cho ngươi nước uống, cho ngươi ngũ cốc, cho ngươi ngọn lửa, cho ngươi giọng nói và cho ngươi một tâm hồn biết đau đớn, ước mơ
- Ôi, ta biết ơn ngươi, người anh em song sinh, người đang ở trong ta hay đang ở ngoài ta?
- Ta không ở trong mi không ở ngoài mi vì ta chính là mi. Thôi mi hãy đứng dậy và bước đi. Để đến một ngày khi mi không còn là một nửa ta và ta không còn là một nửa mi, ta sẽ tặng mi một món quà vô giá
- Ta không muốn nhận bất cứ sự tha thứ nào của ngươi hay sự ngợi ca của ngươi. Ta phải đi, con đường ta vô tận
- Không, ta không tặng mi món quà ấy, ta muốn tặng mi một món quà mà mi không thể nào đoán trước và mi không có cách nào để chối từ
- Một lời tha thứ chăng? Một lời an ủi chăng? Một danh phận lớn lao trên thế gian này chăng? Tất cả những món quà ấy giờ đây với ta đều là vô nghĩa
- Món quà ta tặng mi chính là cái chết. Một cái chết tuyệt đẹp, một cái chết ngước lên cao với những câu thơ như bản thánh ca
- Hãy cho ta được lặng im, hãy để ngôn ngữ ta chảy âm thầm và nóng bỏng như máu trong ta. Hãy để ta đớn đau, hãy để ta hành hình chính ta. Hãy để ta đi. Con đường ta vô tận
- Nhưng mi đừng tưởng cái chết ngước lên cao với những câu thơ như thánh ca là cái chết dễ dàng. Món quà này dành cho mi mà quá ít kẻ sống trên thế gian này có được
Mi sẽ phải sống, phải đau đớn suốt đời, phải bước đi không giày trên gai sắc, trên đinh nhọn, trên rắn rết, đi qua lửa và nước
Mi phải ngày ngày ngồi trên chiếc ghế hành hình do chính mi đặt trong căn phòng bé nhỏ của mi. Và đêm đêm mi phải ngồi trước mi như bóng tối đối diện ánh sáng
- Ôi, ngươi là ai mà có thể ban cho ta món quà của Chúa Trời?
- Ta chính là ánh sáng trong mi, ta là sứ giả của Người trú ngụ trong thân xác mi để cứu rỗi mi và ban phước cho mi
bốn
Hỡi Chúa Trời, xin cho con được quỳ dưới chân người, xin cho con được cất lời cầu nguyện
Ngày nào cũng có đêm tối, đấy là nhà tù của con, toà án của con. Đấy là ác mộng của con, vô vọng của con, là trống rỗng của con
Nhưng đấy là chiếc gương trung thực nhất của con. Đấy là nơi con nhìn thấy con đường của cơn mơ
Khi đêm tối ập xuống như tấm lưới đen khổng lồ con chỉ là chú cá ngờ nghệch và thần chết đến ngồi trước con với một chai rượu vang đen giá lạnh làm da thịt và trái tim con buốt giá
Và gã nói những ngôn ngữ giống thi ca đã có lúc làm con mê sảng và bảo con hãy uống rượu vang đen buốt thấu cả tim
Nhưng Người đã ban cho con món quà biết ngước lên cao, biết nhóm lên ngọn lửa của sự sống đắm say và cất lên ngôn ngữ Thánh ca
Và ban mai lại đến và con lại được sinh ra như đứa trẻ cả da thịt và tâm hồn tinh khiết
Thần chết vội rời bỏ con và trước khi bước khỏi căn phòng, gã lừ mắt đe doạ đêm mai gã quay lại cùng với chai rượu vang đen giá lạnh
Nếu con uống ly rượu vang đen kia trái tim con sẽ bị đóng băng
Nhưng con đã không uống dù cơn khát từng làm con mê sảng, con không hề sợ hãi mà con mỉm cười không chối từ sự thăm viếng của gã
Con chỉ sợ hãi chính con nhưng con đã biết quỳ dưới chân Người, ngước mắt và cất giọng tạ ơn
năm
Và lúc này chàng nghe thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà chàng
Và lúc này những cái cây trên thế gian, những ngọn nến xanh khổng lồ thắp lên trên tất cả con đường
Bên họ những côn trùng, những sói buồn, những lạc đà thanh thản trong nhẫn nại, những đại bàng bắt đầu vỗ cánh và trên đầu họ những ngôi sao
Những người đàn bà kia chính là linh hồn những bông hoa trên vườn Địa đàng quá đắm say hương sắc chính mình
Đôi mắt họ mở to, ôi hai ngọn đèn bão trong mưa biển sáng mãi trong phần bóng tối chàng
Họ đang đi, đang đi và rì rầm, rì rầm và rì rầm bất tận
Trên những cánh đồng ngũ cốc đã bắt đầu lóng lánh và toả hương nồng nàn
Và ao hồ, sông suối và biển cả trước họ như tất cả làm bằng vàng rực rỡ
Những chiếc bánh trong lò được lấy ra, rượu vang đỏ được rót vào những chiếc ly hạnh phúc
Trên cánh đồng bất tận của thế gian một lễ hội ánh sáng bắt đầu
Và chàng bước ra khỏi chiếc ghế hành hình bóng tối, chàng và người anh em song sinh đã nhập thành một, chàng đi đến đồng cỏ rộng lớn không bến bờ
Những người đàn bà xanh như nước biển biến mất chàng chỉ thấy hoa nở trên cánh đồng bất tận
Chàng chỉ còn nghe tiếng ngân trong ngần của vô vàn chiếc chuông nhỏ như những đài hoa
Chàng chỉ thấy tất cả là ánh sáng cả đất đai đau khổ và tăm tối của chàng, cả con đỉa khủng khiếp bám suốt đời trên bộ xương chàng
Chàng quỳ xuống và ngước lên cây ánh sáng vĩ đại nhất đang toả mãi tán lá ban mai khổng lồ
Miệng chàng mở như một bông hoa và giọng nói chàng cất lên
Hoà cùng giọng nói của côn trùng, của sói, của đại bàng, của lạc đà trong cùng ngôn ngữ
Và lúc này dù chàng là côn trùng, là con sói cô đơn, là đại bàng, là lạc đà, là quỉ dữ
Thì tất cả đều đến được miền đất ngập tràn ánh sáng, tất cả được hoà làm một
Trong một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một ngôn ngữ ấy, trong một bầu trời ấy
Và Người đã biến chàng trở thành một chiếc lá nhỏ vĩnh viễn
trên một cành nhỏ của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập tràn
(đêm ngày 02 tháng 09 năm 2003)
Nguyễn Quang Thiều
Lời bình của Mai Văn Phấn:
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều không phải một tín hữu Công giáo, nhưng căn tính nghệ sĩ và khát vọng kiếm tìm chân lý và cái đẹp đã đưa ông đến với mỹ học Kitô giáo. Trong thế giới thi ca của ông, ta nhận ra nỗi khắc khoải về ơn cứu rỗi, niềm tin vào tình yêu thương vô biên của Đấng-Tạo-Hóa, cùng những chiêm nghiệm thấu triệt về kiếp người. Bài thơ "Dưới cái cây ánh sáng" của ông là minh chứng rõ nét cho sự dấn thân mạnh mẽ và tự nhiên ấy. Từ sự đồng cảm sâu sắc với tinh thần Kitô giáo, Nguyễn Quang Thiều đã tạo nên những vần thơ mang âm hưởng của lời nguyện cầu - một hành trình kiếm tìm ơn cứu độ, lòng bác ái, tình yêu thương dành cho tha nhân.
"Hỡi Chúa Trời, con quỳ dưới chân người, con gánh trên lưng con bóng tối khổng lồ" (Đoạn hai). Và rồi, trong Đoạn bốn, khi Nguyễn Quang Thiều viết: "Hỡi Chúa Trời, xin cho con được quỳ dưới chân Người, xin cho con được cất lời cầu nguyện." là lời cầu khẩn đầy khiêm nhường, mời gọi ánh sáng thiêng liêng chiếu rọi vào tâm hồn tăm tối, dày đặc ưu phiền. Hình ảnh ánh sáng tượng trưng cho sự sống, cho tình yêu, cho sự hiện diện của Thiên Chúa, là nguồn sống dồi dào, xua tan bóng tối tội lỗi và đau khổ, khai mở con đường đến với đức tin, sự an bình và niềm hy vọng.
Trong mỹ học Kitô giáo, ánh sáng là biểu tượng của chân lý và cái đẹp, đồng thời là dấu chỉ của sự hiện diện Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh, ánh sáng khởi nguồn cho sự sống và trật tự, là ân sủng soi dẫn lý trí và linh hồn con người hướng về chân lý tuyệt đối. Ánh sáng trong nghệ thuật Công giáo rạng ngời trên nền bóng tối để tôn vinh ân sủng và tình yêu Thiên Chúa. Bóng tối không tồn tại như một thực thể độc lập, mà là sự vắng mặt của ánh sáng - biểu tượng cho sự xa cách Thiên Chúa. Hành trình đức tin chính là hành trình tìm kiếm ánh sáng, vươn tới Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch sự sống. Ngay từ thuở tạo dựng, hành động đầu tiên của Thiên Chúa là "tách ánh sáng ra khỏi bóng tối" (Sách Sáng Thế, 1:3), phân định rõ ràng giữa thiện và ác. Chính Chúa Giêsu đã mạc khải: "Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (Phúc Âm theo Thánh Gioan 8:12).
Từ nền tảng triết học và mỹ học Kitô giáo, bài thơ "Dưới cái cây ánh sáng" của Nguyễn Quang Thiều mở ra một thế giới đầy khổ đau và bi kịch, nơi cuộc chiến nội tâm về sự tồn tại, mục đích sống, và đức tin diễn ra khắc khoải. Qua đó, bài thơ kiến tạo một cuộc đối thoại mang tính biểu tượng giữa ánh sáng và bóng tối, giữa hy vọng và tuyệt vọng, phản chiếu sự giằng xé giữa niềm tin và hoài nghi, giữa khát vọng vươn lên và nỗi đau trầm luân, mở ra chiều sâu triết lý về kiếp người.
"Dưới cái cây ánh sáng" mang đậm tính triết lý và khắc khoải của một thi sĩ đối diện với những câu hỏi lớn của cuộc đời. Bài thơ văn xuôi này gồm năm đoạn. Đoạn đầu, thi sĩ vật lộn trong bóng tối với đau khổ và tuyệt vọng, không ngừng khao khát thoát khỏi những hắc ám. Mỗi khi ban mai đến, anh lại quay về những chuyện tình bi thương, sự hối hận và cảm giác vô vọng. Đoạn thứ hai, những băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời, về sự đè nén của bóng tối. Đoạn ba, thi sĩ khẩn cầu dưới chân Chúa, những giọt máu từ bàn tay bị đóng đinh của Ngài đã truyền sức mạnh cho anh đối mặt với nỗi đau và thử thách. Chúa là ánh sáng tỏ rạng nhất - Cây Thập Giá vĩ đại - ban cho con người sức mạnh và niềm hy vọng. Đoạn bốn, thi sĩ nhận ra rằng cuộc đời là một hành trình tìm kiếm ánh sáng và tình yêu thương. Đoạn cuối, ánh sáng mãi dẫn dắt, và thi sĩ tin rằng trong mọi nỗi đau, Chúa là sự cứu rỗi vĩnh cửu. Bài thơ trình hiện hành trình tâm linh của con người trong mối quan hệ với Chúa, nơi mọi đau khổ, tuyệt vọng đều được ánh sáng và tình yêu của Ngài giải thoát.
Trong bài thơ, hình ảnh bóng tối biểu trưng cho khổ đau, tuyệt vọng, và những câu hỏi không lời đáp. Khổ thơ đầu tiên trong bài khắc họa cuộc sống của thi sĩ (cũng là hình ảnh ẩn dụ của con người) như một chuỗi những khoảnh khắc bế tắc và đau đớn. "Chàng" - một thi sĩ, nhân vật trữ tình, không chỉ vật lộn với bóng tối nơi thế giới xung quanh, mà còn với bóng tối của chính lòng mình, của những khổ đau nội tâm không cách giải thoát. "Ngồi sâu trong bóng tối bệnh tật, một thi sỹ trong thị xã bé bỏng bị trúng mũi tên của số phận bất trắc và ái tình, trái tim chàng nhiễm trùng sưng tấy/ Chàng đã từng lấy trái tim mình đặt trên một chiếc khay ngọc trắng và im lặng ngắm nhìn" (Đoạn một). Nhân vật "Chàng" quay lại quá khứ đau khổ trong bóng tối, nơi mà ánh sáng chưa thể chiếu rọi vào những vết thương. Bóng tối ở đây là biểu tượng của sự bế tắc tinh thần, của nỗi khổ đau không thể xoa dịu; Nó thể hiện hành động tự hủy của con người khi không còn niềm tin và lối thoát. Nhân vật trữ tình vừa đối mặt với cuộc sống đầy khổ đau vừa phải đương đầu với những câu hỏi khắc khoải về mục đích sống, về sự tồn tại và vai trò của Đấng-Sáng-Tạo trong cuộc đời mình.
Trong mỹ học Kitô giáo, ánh sáng là Thiên Chúa, là sự cứu rỗi, dẫn dắt con người qua bóng tối của tội lỗi và thử thách. Ánh sáng cũng là biểu trưng cho sự khôn ngoan, soi sáng tâm hồn con người. Ngược lại, bóng tối là hình ảnh tội lỗi, mê muội, không có hướng đi, nơi con người dễ bị sa ngã. Sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối trong "Dưới cái cây ánh sáng" phản ánh cuộc đấu tranh nội tâm giữa hy vọng và tuyệt vọng. Khi thi sĩ đối diện với bóng tối, anh nhận thức được sự tồn tại và mong muốn được giải thoát. Trong bài thơ, Nguyễn Quang Thiều đã 23 lần nhắc tới bóng tối với đa dạng tâm trạng ám ảnh và sợ hãi: "bóng tối bệnh tật", "sự man rợ của bóng tối", "bóng tối định mệnh", "bóng tối ụp xuống", "bóng tối khổng lồ", "bóng tối quá nặng nề", "bóng tối của khiếp sợ", "bóng tối tự trừng phạt mình", "hành hình bóng tối"... Điều ấy cho thấy bóng tối trở thành biểu tượng của nỗi đau nội tâm và sự giằng xé tinh thần. Những cách gọi khác nhau về bóng tối thể hiện các trạng thái tâm lý con người phải đối mặt: từ tuyệt vọng, cảm giác bị đè nén đến sự dày vò bởi lỗi lầm và hối hận. Những câu thơ về bóng tối gợi cảm giác nặng nề, phản ánh cuộc đấu tranh dai dẳng của con người với chính nội tâm mình.
Áp lực của bóng tối làm cho khát vọng ánh sáng trong thơ Nguyễn Quang Thiều càng bùng lên mạnh mẽ, như một phản ứng tự nhiên của con người trước áp lực của đau khổ và tuyệt vọng. Những mong mỏi về sự giải thoát, về một nguồn sáng dẫn lối vượt qua bóng tối không ngừng thúc đẩy thi sĩ tìm kiếm sự cứu rỗi, bình an, và niềm tin vào Thiên Chúa.
"Đôi môi con run rẩy chạm vào những ngón chân Người giá lạnh nhưng những giọt máu chảy từ bàn tay bị đóng đinh của Người từng giọt, từng giọt rơi xuống ngực con rực sáng và nóng ấm vô tận/ Cây thập giá nơi Người bị đóng đinh trong đêm sừng sững dựng lên cái Cây Ánh Sáng vĩ đại nhất trên thế gian này" (Đoạn hai); "Một kẻ là chàng ánh sáng và một kẻ là chàng bóng tối/ Một kẻ ngập tràn ánh sáng và miệng chứa đầy ngôn ngữ minh tuệ" (Đoạn ba). Nguyễn Quang Thiều sử dụng hình ảnh ánh sáng, đậm dấu ấn Kitô giáo, để khắc họa cuộc đấu tranh nội tâm, nơi con người không ngừng đối diện với bóng tối của sự đau khổ, tội lỗi và tuyệt vọng, đồng thời tìm kiếm ánh sáng của đức tin, sự cứu rỗi của Thiên Chúa. Hình ảnh Cây Thập Giá, trong Đoạn hai, trở thành "Cây Ánh Sáng vĩ đại nhất", biểu trưng cho sự cứu chuộc và niềm hy vọng, là con đường dẫn đến sự sống và ánh sáng vĩnh cửu. Cuộc đối thoại giữa ánh sáng và bóng tối trong những đoạn thơ trên phản ánh cuộc đấu tranh trong mỗi con người, nơi họ phải lựa chọn giữa chân lý của Thiên Chúa và sự mê muội của thế gian.
Trong ánh sáng của Thiên Chúa, nhà thơ đã chiêm nghiệm và suy tư về thân phận con người như một hành trình ngắn ngủi, mong manh giữa vô vàn thử thách của kiếp nhân sinh. Con người, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, vẫn luôn đối diện với sự vô thường của cuộc sống, nơi những đau khổ và niềm vui dường như chỉ là những đợt sóng thoáng qua. Tuy nhiên, dưới ánh sáng vĩnh hằng của Thiên Chúa, mọi nỗi niềm, khắc khoải ấy lại trở thành một phần trong cuộc tìm kiếm ơn cứu rỗi, một hành trình tìm về tình thương vô bờ bến của Đấng-Tạo-Hóa. Sự vĩ đại của Thiên Chúa luôn soi sáng, mang lại niềm hy vọng và sức mạnh cho con người, để họ vươn lên trong đức tin, vượt qua những âu lo, tìm thấy sự an ủi trong tình yêu vĩnh cửu.
"Vẫn chiếc ghế ấy trong bóng tối chàng đau đớn nghĩ tới người đàn bà đau ốm với nỗi đau buồn lớn hơn toàn bộ đời sống của nàng" (Đoạn một);
"Thần chết vội rời bỏ con và trước khi bước khỏi căn phòng, gã lừ mắt đe doạ đêm mai gã quay lại cùng với chai rượu vang đen giá lạnh" (Đoạn bốn);
"Và lúc này chàng nghe thấy tiếng chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà chàng/... Những người đàn bà kia chính là linh hồn những bông hoa trên vườn Địa đàng quá đắm say hương sắc chính mình/ Đôi mắt họ mở to, ôi hai ngọn đèn bão trong mưa biển sáng mãi trong phần bóng tối chàng" (Đoạn năm)
Nguyễn Quang Thiều khắc họa thân phận con người trong kiếp sống trần gian đầy khổ đau và cô đơn, như một sinh thể mong manh trước bệnh tật và nỗi buồn. Thần chết trở thành biểu tượng của sự bất lực và kết cục tất yếu, gieo rắc nỗi lo âu, buộc con người đối diện với ám ảnh về sự hữu hạn của đời sống. Hình ảnh người đàn bà trong khổ thơ trên, như những linh hồn vướng mắc trong đắm say, cho thấy con người dù khao khát và đam mê vẫn bị mắc kẹt trong bóng tối và sự cô đơn. Thân phận con người, qua những biểu tượng ấy, là cuộc giằng co không dứt giữa khát vọng vĩnh cửu và thực tại vô thường.
Trong tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, Nguyễn Quang Thiều biểu đạt khát vọng mãnh liệt của con người muốn vượt qua nỗi đau và thử thách, để tìm kiếm sự giải thoát và hòa nhập với những giá trị thiêng liêng. Các nhân vật trong bài thơ, từ “Chàng” đến người đàn bà đau ốm, hay linh hồn của những bông hoa vườn Địa Đàng, đều mong ước thoát khỏi đau thương, nhưng cũng phản ánh sự bất lực khi đối diện với cô đơn và bóng tối vây quanh. Mặc dù vậy, trong sự đối kháng giữa thiện và ác, niềm khát khao về một ban mai, một đời sống mới luôn trỗi dậy trong tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh ban mai xuất hiện gần kề với thần chết trong Đoạn một: "Khi chàng đủ can đảm đứng lên thì ban mai lại đến với chàng sớm hơn thần chết một bước chân", và tiếp theo là ban mai tinh khôi, tràn đầy ân sủng khôn ngoan của Chúa Thánh Thần trong Đoạn bốn: "Và ban mai lại đến và con lại được sinh ra như đứa trẻ cả da thịt và tâm hồn tinh khiết", đã biểu đạt một hành trình từ bóng tối tới ánh sáng, từ cái chết tới sự sống.
"Chàng chỉ còn nghe tiếng ngân trong ngần của vô vàn chiếc chuông nhỏ như những đài hoa/ Chàng chỉ thấy tất cả là ánh sáng cả đất đai đau khổ và tăm tối của chàng, cả con đỉa khủng khiếp bám suốt đời trên bộ xương chàng/ Chàng quỳ xuống và ngước lên cây ánh sáng vĩ đại nhất đang toả mãi tán lá ban mai khổng lồ/ Miệng chàng mở như một bông hoa và giọng nói chàng cất lên/... Và Người đã biến chàng trở thành một chiếc lá nhỏ vĩnh viễn/ trên một cành nhỏ của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ ngập tràn" (Đoạn năm).
Đoạn kết bài thơ là khúc khải hoàn, khi nhân vật trữ tình đón nhận ánh sáng vĩnh hằng. Những thi ảnh rực rỡ thể hiện đổi mới và tái sinh, biểu trưng của ơn cứu độ và thức tỉnh. Nhân vật "Chàng" từ u mê, khổ đau trong bóng tối đã bước vào trạng thái thanh thản, hòa hợp tuyệt đối với vũ trụ và Thượng đế. Khi "bước ra khỏi chiếc ghế hành hình bóng tối", "Chàng" hòa vào âm thanh của thiên nhiên, cảm nhận rõ sự kết nối với ánh sáng chiếu rọi trong tâm hồn, nơi mọi hắc ám được thanh tẩy và những sinh thể trong thế giới vạn vật cùng hòa hợp trong niềm vui và bình an. Đặc biệt, hình ảnh "cây ánh sáng vĩ đại nhất" lại hiện ra lộng lẫy như biểu tượng của Thượng Đế, nơi nhân vật trữ tình tìm thấy sự viên mãn và tái sinh, cảm nhận được sự hòa hợp với vũ trụ và Thiên Chúa. Qua đó, nhà thơ vừa thể hiện khát vọng vượt qua mọi khổ đau vừa kiếm tìm sự giải thoát vĩnh viễn trong ánh sáng của đức tin, nơi không còn bóng tối, không còn khổ đau.
Bài thơ "Dưới cái cây ánh sáng" cho thấy mỹ học Kitô giáo đã thấm nhuần và chi phối thi pháp thơ của Nguyễn Quang Thiều, thể hiện qua tinh thần chiêm niệm về ánh sáng thiêng liêng, đức tin cậy trông, khát vọng cứu rỗi, cùng hệ thống biểu tượng giàu ý nghĩa thần học. Gần đây nhất, vào cuối năm 2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã ấn hành tập trường ca "Lò Mổ" của Nguyễn Quang Thiều, trong đó, mỹ học Kitô giáo vẫn là ánh sáng dẫn dắt lý tưởng thẩm mỹ cho nhà thơ. Cuộc tuẫn nạn của những con bò trong trường ca, cùng những hình ảnh Công giáo như thánh đường, thiên đường, địa ngục, quỷ sứ... đã mở ra một không gian biểu đạt mang tính mặc khải, nơi con người đối diện với ơn cứu độ và lòng bác ái. "Nguyền xin ân điển của Đức chúa Jesus ở với mọi người!" (Chương chín), "Xin Chúa hãy ban phước cho người đàn ông tội lỗi này." (Chương mười sáu). Lời của nhân vật "Chàng" lại vang lên trong trường ca "Lò Mổ", kêu xin Chúa ban ơn cứu rỗi.
Qua bài thơ "Dưới cái cây ánh sáng" cùng nhiều tác phẩm khác, có thể thấy Nguyễn Quang Thiều được ánh sáng của Đấng-Tình-Yêu soi dẫn. Ánh sáng ấy không giới hạn trong khuôn khổ tôn giáo, mà là ân sủng khơi dậy khát vọng nội tâm, thúc đẩy hành trình dấn thân vào chân lý và cái đẹp. Nguyễn Quang Thiều là thi sĩ đã nhận được Ơn Gọi - không hệ tại ở danh xưng tín hữu, mà ở chính thao thức kiếm tìm ánh sáng không ngừng nghỉ: ánh sáng của thi ca, của thức tỉnh, của ân sủng, soi rọi những khắc khoải tinh thần và dẫn dắt con người đến với chân lý và cái đẹp trong huyền nhiệm đời sống.
Hải Phòng, 19/2/2025
M.V.P
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, sinh năm 1957, tại làng Chùa, xã Sơn Công, huyện Ứng Hoà, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Ông là nghệ sĩ đa tài về văn chương, báo chí, hội họa. Đã xuất bản, thơ: "Ngôi nhà tuổi 17" (1990), "Sự mất ngủ của lửa" (1992, tái bản 2016), "Những người đàn bà ghánh nước sông" (1995), "Những người lính của làng" (1996), "Thơ Nguyễn Quang Thiều" (1996), "Nhịp điệu châu thổ mới" (1997), "Bài ca những con chim đêm" (1999), "Thơ tuyển cho thiếu nhi" (2004), "Cây ánh sáng" (2009), "Châu thổ" (2010), "Dước ánh trăng và một bậc cửa" (2020), "Nhật ký người xem đồng hồ" (2023), "Lò Mổ" (2024). Văn xuôi: "Vòng nguyệt quế cô đơn" (1991), "Cỏ hoang" (tiểu thuyết, 1992), "Tiếng gọi tình yêu" (1993), "Kẻ ám sát cánh đồng" (1995), "Người đàn bà tóc trắng" (1996), "Đứa con của hai dòng họ" (1997), "Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều" (1998), "Người cha" (truyện thiếu nhi, 1998), "Bí mật hồ cá thần" (truyện thiếu nhi, 1998), "Con quỷ gỗ" (truyện thiếu nhi, 2000), "Ngọn núi bà già mù" (truyện thiếu nhi, 2001), "Người nhìn thấy trăng thật" (truyện ngắn, 2003), "Người, chân dung văn học" (2008), "Ba người, chân dung văn học (in chung, 2009), "Có một kẻ rời bỏ thành phố" (tiểu luận, 2010), "Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng" (tạp văn, 2016), "Mùi ký ức" (tuỳ bút, 2017). Sách dịch: "Khoảng thời gian không ngủ" (thơ Mỹ, 1997), "Chó hoàng Đingô" (truyện ngắn Australia, 1995), "Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc" (2002). Ngoài ra, Nguyễn Quang Thiều còn viết kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh và và hơn 500 bài báo, bút ký, ghi chép, tiểu luận… với các bút danh như Trực Ngôn, Vương Thảo, Hạnh Nguyên, Hoàng Lê… Thơ và truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều đã được in thành sách và được giới thiệu trên các tạp chí và báo ở các nước như Mỹ, Pháp, Nga, Úc, Ireland, Nhật, Hàn Quốc, Venezuela, Colombia, Na Uy, Thuỵ Điển, Malaysia, Thái Lan… Giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993 cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa; Giải thưởng Final cho tập thơ The Women Carry River Water của The National Literary Translators Association of America năm 1998, và một số giải thưởng quốc tế khác.

Tranh của nhà thơ - họa sĩ Nguyễn Quang Thiều