Cây sưa đỏ và thơ Mai Văn Phấn

Nhà thơ Liêu Thái
Liêu Thái
Tôi biết thơ Mai Văn Phấn
trước khi biết sưa đỏ. Tôi thi thoảng viết về thơ Mai Văn Phấn, và vườn nhà tôi
cũng trồng khá nhiều sưa đỏ, tôi quan sát nó, tìm ra nhiều điều thú vị. Có một
mối tương quan đặc biệt giữa thơ Mai Văn Phấn với sưa đỏ.
Cây sưa đỏ
Xin nói về gỗ sưa đỏ, vài
năm trước, giá của loại gỗ này lên đến vài chục triệu đồng trên mỗi ký lô (gỗ
lõi). Và tôi lúc ấy, trồng với ước mơ làm giàu, trồng khắp vườn, cây lên xanh
rợp cả một khu vườn. Thế rồi cây sinh lõi, đỏ, khá đẹp, tôi ban đầu chỉ nhìn
thấy tiền từ nó... Bão tới, nguyên một vườn sưa còn lại vài cây, bật gốc toàn
bộ, tôi tiếc đứt ruột. May sao, những cây bị bão quật đã kịp thả hạt dưới gốc,
vậy là sau mùa bão, một vườn sưa con mọc lên thay chỗ vườn cây bật gốc. Lần
này, cây cắm sâu rễ và không sợ bão như vườn cây trồng.
Hôm Tết, anh Ba Hưng,
người anh Cả trong gia đình vào nhà chơi, anh nhìn thấy một khúc gỗ, nặng, đỏ,
đẹp sặc sỡ nằm ngoài sân, anh hỏi tôi: “Sưa đỏ hả em?”, tôi nói: “Dạ không, cái
này là thầu đâu (sầu đông, xoan) đó anh?”. Anh giật mình: “Ồ, sao nó giống sưa
đỏ quá vậy, độ nặng cũng tương đương!”. Lúc này tôi mới để ý, đúng là giống
thật, hóa ra cây hoa xoan mọc chưa đầy 10 năm tuổi lại có lõi rất cứng và đỏ,
đẹp, vân uốn lượn, nhìn mê hồn, đặc biệt là bỏ ngoài mưa nắng, vân gỗ trở nên
huyền hoặc... Ủa, vậy thì sưa đỏ có cái gì mà người ta chấp nhận trả giá cao
quá vậy?
Có đấy, thứ nhất, nó rất
đặc biệt với tôi, tôi từng mất ít nhất cũng mười người bạn thân vì nó. Bạn, anh
em tôi, cứ người nào thân, tôi tặng họ một ít sưa đỏ con để trồng, thì, hoặc là
mất bạn, tự dưng trở nên xa lạ, hoặc là trở nên thân thiết, gần gũi hơn trước.
Nhưng số đông là trở nên xa lạ, mặc dù cây sưa tôi tặng họ về trồng lớn nhanh,
sum suê và rất tốt.
Tôi nhớ cách đây mười năm,
tôi nhập về một lô sưa con giống Hải Nam, hầu hết là tặng cho bạn, chỉ bán cho
mấy ông bạn cực thân, mình cực quý, trong đó có anh Nguyễn Văn Tuấn, tôi bán
mắc nhất để gỡ lại chút vốn, coi như tự mặc định là anh ấy cùng chung tay với
mình để tặng những người khác, và với giá đó, anh Tuấn vẫn không hề hấn gì.
Trong số các anh em bạn tôi tặng và bán giá rẻ, hình như chỉ có anh Tuấn, người
bị tôi chặt chém nặng nhất và anh Thắng, người tôi bán giá rẻ bằng 10% giá bán
cho anh Tuấn là còn chơi thân, số còn lại (tôi tặng) quăng cục lơ với tôi.
Tôi ngồi ngẫm lại, rõ
ràng, đây là loài cây rất thiêng, người xưa, đặc biệt người Chăm Pa cổ còn gọi
nó là cây Chiên Đàn, tức một loài cây có mùi hương gần với thần thánh, cây
không mọc ở những nơi dơ bẩn và cho dù cây đã lớn, nhưng nếu như người trồng nó
làm điều ác, trái lương tri thì tự dưng cây khô dần rồi chết. Điều này tôi cũng
tin nốt!
Nhưng vấn đề ở đây là mối
tương quan giữa sưa đỏ với thơ Mai Văn Phấn!
Kỳ thực, không phải tự
dưng mà người ta điên rồ xếp sưa đỏ và diện danh mộc, và càng không phải người
giàu, nhiều tiền quá trở nên điên rồ mà bỏ ra hàng đống tiền mua một khúc gỗ vô
tri vô giác về chế tác rồi đặt trong nhà. Mà dường như những ai từng đụng đến
sưa đỏ, chắc chắn họ phải có một nguồn năng lương dị biệt, chính thứ năng lượng
dị biệt đó giúp họ có thể hanh thông hơn trong việc làm ăn và đến một lúc nào
đó, mọi thứ hội đủ duyên lành, họ chọn những vật gia dụng có năng lượng tương
ứng với bản thân...
Gỗ sưa đỏ, nếu xét về độ
đẹp, chắc chắn nó không đẹp hơn gỗ xoan, gỗ chò, gỗ mít hay kiền kiền, và đương
nhiên nó phải gọi “nhan sắc” của gỗ keo ta, gỗ xà cừ, gỗ cẩm lai, gỗ trắc...
bằng Cụ. Thế nhưng giá trị của mấy loại gỗ kia chỉ bằng 2% đến 10% giá trị của
nó là cùng. Như gỗ keo, gỗ xoan thì chắc không bằng 1% giá trị. Cái lạ ở chỗ này.
Những ai từng va chạm,
tương tác và dùng vật dụng gỗ sưa đỏ (còn gọi là huỳnh đàn, chiên đàn) thì sẽ
biết được mức độ bí nhiệm của nó. Về mặt quang học, nếu bạn đặt một miếng gỗ
sưa đỏ dưới ánh sáng mặt trời, để chừng 10 phút sau, bạn quan sát trong vân gỗ
bắt đầu ánh lên những dải màu khá đẹp và dần dần, cầu vồng bảy màu hiện ra trên
miếng gỗ. Điều này không có ở bất kì loại gỗ nào khác. Và gỗ luôn có một mùi
hương thơm nhẹ, thư thái, phảng phất, cho dù bạn để miếng gỗ cả trăm năm thì
chỉ cần dùng ngón tay chà thật mạnh vào miếng gỗ chừng nửa phút, mùi hương ấy
lại tỏa ra.
Ngày xưa, vua chúa và các
quan lớn chọn gỗ huỳnh đàn để làm ngai vàng và giường ngủ (ngai vàng ở Hoàng
thành Huế làm bằng gỗ này, hiện vẫn còn trưng bày trong khu vực cấm thành) để giữ
năng lượng tốt, nhằm giữ sức khỏe. Và, khi tâm tưởng bạn bị rối loạn, bạn chỉ
cần đốt vài mảnh gỗ sưa, mùi hương dịu nhẹ của nó giúp bạn thư thái, cân bằng
tinh thần rất tốt... riêng điều này tôi từng trải nghiệm nhiều lần.
Nhưng, cây sưa đỏ, nếu bạn
muốn thử lòng anh em chiến hữu, cứ tặng cây con hoặc một miếng gỗ (nếu có) cho
họ, nếu họ thực sự tốt thì họ sẽ gắn với bạn, chí thân hơn, nếu họ đã có khuynh
hướng rời bạn nhưng chưa tới lúc, thì hình như năng lượng của cây sưa đỏ giúp
họ nhanh chạm bản ngã, họ rời bỏ bạn ngay tức khắc. Điều này tôi tin, rất tin,
vì tôi trải nghiệm nhiều rồi!
Thất tinh đất Bắc
Lại nói về thơ Mai Văn
Phấn, hai lần tôi viết về thơ ông, tôi mất một số người bạn mà tôi cho rằng đó
là bạn quý, đương nhiên họ rời bỏ tôi, chứ cuộc đời tôi chưa hề bỏ ai. Và lần
này, rất có thể tôi sẽ bị một số bạn ít ỏi còn lại bỏ nốt. Nhưng không sao, hãy
sống bằng năng lượng của mình, đúng với tần số của nó, mọi việc đều do Duyên.
Lại nói về thơ, ở lứa tuổi
“khơi mào thơ tự do/hiện đại”, có lẽ, với tôi, bầu trời thơ miền Bắc có Thất
Tinh, đúng bảy con người đáng nói nhất, trong đó, có người xuất hiện rất sớm,
có người xuất hiện rất muộn, nhưng dấu ấn thơ của họ thì không thể chối bỏ
được. Thất Tinh (cùng trang lứa) này gồm: Trần Đăng Khoa, Nguyễn Quang Thiều,
Nguyễn Duy, Paul Nguyễn Hoàng Đức, Đặng Thân, Đặng Tiến và Mai Văn Phấn.
Nếu như Trần Đăng Khoa là
Một Hài (thần) Đồng Thi Ca, thì Nguyễn Quang Thiều là Thần Thi, Nguyễn Duy là
Hộ Pháp Thi, Paul Nguyễn Hoàng Đức là Thiên Sứ Thi, Đặng Thân là Phạt Ngữ Thần
Thi, Đặng Tiến là Tiên Thi thì Mai Văn Phấn là Thánh Thi.
Trần Đăng Khoa cho dù bước
sang tuổi Thất Thập, chọn đề tài thời sự, xã hội hay triết học, thần học chăng
nữa thì trong thơ của ông luôn phảng phất cái nhìn ngây ngô, trong trẻo, thuần nhiên
của một đứa trẻ, của một thần đồng thơ mấy mươi năm trước. Cái này không phải
hễ muốn là có được.
Nguyễn Quang Thiều, trong
thơ ông có gì đó mang dáng dấp của sấm nguyền và trừng phạt mặc dù ông làm thơ
rất hiền, đề tài chẳng có gì dữ dội, nhưng đâu đó từ trong sâu thẳm các
vỉa/tầng ngôn ngữ của ông lại ẩn chất sấm nguyền và trừng phạt, có một chút
thần linh huyền hoặc và “hung tợn”.
Nguyễn Duy viết những bài
thơ về tình yêu, về quê hương, đất nước, về trăn trở thời cuộc, về hiện tình
đất nước... dường như bài thơ nào của ông cũng thấm đẫm tình người, sâu cay,
chua chát và giàu suy tư, thế nhưng mọi thứ không dừng ở đó, sâu thẳm bên trong
hơi thơ của ông là tiếng thở của một hộ pháp bảo vệ chánh pháp, đang cố gắng
giữ im lặng quan sát ba ngàn thế giới và quyết bảo vệ “người đi tìm chân kinh”.
Nói ra nghe cứ như phim chưởng hay Tây Du Ký vậy, nhưng sự thật, nếu bạn yêu
thơ Nguyễn Duy, đọc nhiều thơ ông, bạn sẽ có cảm giác này.
Paul Nguyễn Hoàng Đức là
nhà thơ khá đặc biệt (trong cái nhìn của tôi), ông có tính cách ngông, ngạo mạn
và đương nhiên chả coi ai ra gì trong cái nhìn triết học (gồm cả hiện sinh và
phi lý) của ông. Nhưng, giữa lập ngôn và hành ngôn của ông lại có phần ngược
chiều, nếu như lập ngôn của ông đầy ngạo mạn, gây sự hiềm khích và bất mãn
không ít, làm mất thiện cảm bao nhiêu thì thơ của ông lại nhuốm màu của thế
giới thượng thiên, trữ tình, lãn mạn và đẹp bấy nhiêu... Có thể xem các tác
phẩm thơ, trường ca của ông là một kiểu viết lại Tân Ước, một kiểu giễu nhại
Tân Ước hoặc một kiểu viết Tân Ước theo lối mới... đều không sai. Ông như một
sứ giả thi ca không được mấy người hiểu (kể cả tôi, tôi cũng rất ghét phong
cách trịch thượng của ông, nhưng cái hay về thơ của ông thì không thể chối cãi
được).
Đặng Thân, một Phạt Ngữ
Thần Thi, ông này làm thơ mà không có tục thì không thể gọi là thơ của Đặng
Thân, nhưng cái tục của ông không phải là cái tục bình thường, mà là một cái
tục của bậc thánh trí, nó phải tục mới là thơ và đọc thơ ông thì cứ như đã thơ
thì phải tục. Một cái tục đậm triết lý nhân sinh và lột trần, lộn trái mọi thứ
giá trị định hình, mọi đại tự sự trong văn chương, thi ca. Bầu trời thơ miền
Bắc mà thiếu Đặng Thân thì xem như chịu một lỗ thủng quá lớn.
Điều này khác xa với Đặng
Tiến, tuy xuất hiện muộn hơn so với năm vị trên nhưng ông có chỗ đứng rất rõ
nét trên bầu trời thi ca miền Bắc (xin lỗi vì tôi phân chia vùng miền, vì thực
tế, không thể xếp bầu trời thi ca miền Nam với miền Bắc cùng một chỗ, rất khó,
vì hệ qui chiếu thẩm mỹ rất khác biệt của họ) nhưng sức viết ồ ạt, xung năng
thơ dữ dội của ông như một dòng chảy kinh hoàng bạt vía. Một buổi chiều đạp xe
rong ruổi trên các đồi chè Thái Nguyên, tức thơ, dừng lại viết bằng điện thoại,
tích tắc có hai bài, ba bài, thậm chí cả một bài thơ dài mấy ngàn chữ, câu nào
cũng hay, chữ nào cũng đẹp, cũng chứa sức nặng thời cuộc, nhân tình thế thái...
Và Đặng Tiến có lối viết, lối chơi của bậc tiên thi mê tửu và lộng ngôn, tức
cái chính là nhâm nhi, khề khà rượu, không khí trong lành, buổi chiều, thậm chí
nhâm nhi cả hoàng hôn, vui thì viết, không vui, mệt thì bia cỏ... Lối tiên thi
rất đỗi hậu hiện đại này, dường như từ trước tới giờ, không mấy ai giống ông và
ông cũng chẳng giống ai.
Mai Văn Phấn, một Thánh
Thi. Một nhà thơ sống tại Việt Nam, làm việc và sáng tác tại Việt Nam nhưng cõi
thơ của ông nhuốm màu tâm thức Bạch Dương. Từ những đoản khúc trong "Biến tấu
con quạ" cho đến "Con chào mào" và các thi phẩm thơ ba câu của
ông đều mang dáng dấp xứ bạch dương trắng với cái lành lạnh của tuyết rơi, cái
buồn buồn (nhưng mạnh mẽ, không ủy mị) của buổi chiều xứ bạch dương. Cái độc
đáo của Mai Văn Phấn là sự khế hợp giữa tâm thức bạch dương với thực tại làng
quê, cây tre, cây đa, cánh rừng xứ Việt. Và dường như thơ Mai Văn Phấn là loại
thơ khó đọc, khó hiểu hơn rất nhiều so với những tác giả còn lại. Nếu như trình
tự đọc dành cho các tác giả khác là Hiểu, sau đó Cảm, thì đọc thơ Mai Văn Phấn,
đầu tiên là Cảm, sau đó mới có thể Hiểu. Nhưng mức độ hiểu cũng chỉ dừng ở mức
Cảm - Hiểu - Cảm.
Tôi vẫn thường gọi ngôn
ngữ thơ Mai Văn Phấn là ngôn ngữ Thánh Thi.
Hầu hết các tác phẩm của
Mai Văn Phấn, nếu mới nhìn vào, cứ ngỡ đó là những bài thơ rời được tập hợp
thành một tác phẩm, nhưng kỳ thực, mỗi tác phẩm ấn loát của ông là một
Symphony, có mở đầu, có dẫn luận, có cao trào, có quãng lặng và có kết thúc.
Nếu ai đó cố y bóc rời một vài nốt trong Symphony để soi rọi thì đó là việc hết
sức tệ hại, nó sẽ tạo phản ứng rất mâu thuẫn.
Nhưng chưa dừng ở đó, các
tác phẩm của ông cũng là một chuỗi âm thanh, mỗi tác phẩm đóng vai trò một mảnh
rời thanh âm trong tổng thể symphony (lớn) ấy.
Trong cái nhìn mới mẻ, bứt
thoát khỏi mọi lề luật cũ của thi ca, Mai Văn Phấn dụng chữ theo những rung
ngân của cả vô thức và tiềm thức, thi thoảng, đâu đó trong chữ nghĩa của ông
thấp thoáng bóng dáng của hốt ngộ, một thứ sản phẩm của siêu thức được chưng
cất thành chữ. Và đương nhiên, tần số rung cảm của loại thơ này sẽ có những dị
biệt, rất khó để nắm bắt và đọc đúng tần số của nó. Chính vì vậy, tình trạng
thơ ba câu của Mai Văn Phấn không được giải mã một cách nghiêm túc và bị chê là
thơ “tào lao” cũng là chuyện dễ hiểu.
Thử phân tích hai bài thơ
của Mai Văn Phấn, và một bài giễu nhại của anh Lê Mạnh Hà mà anh Phan Đạo (một
người tôi rất quý mến, kính trọng, và giả sử lần này anh có hồ đồ chăng thì với
tôi, đó cũng là chuyện vui đùa quá trớn của một nhà thơ, nghệ sĩ, với anh Lê
Mạnh Hà cũng vậy) để thấy sự khác nhau rất căn bản về tần số rung cảm.
Bài của Mai Văn Phấn: Thắp
hương xong/ Dựa lưng/ Vào ngôi mộ bên cạnh (Viếng mộ ông bà); Thắp hương
cha/ Tưới xuống đất/ Thành tiếng (Ly rượu).
Bài của Nguyễn Mạnh Hà: Đi
đái xong/ Tuổi già/ Ướt đầu gối (Không tên).
Ở bài “Viếng mộ ông bà”,
mở đầu là hành động thắp hương (như bao người viếng mộ khác), đến câu hai, hành
động “dựa lưng” như một sự tìm kiếm, kết nối giữa cái hữu hình với cái vô hình,
giữa hiện tại với tiền nhân - quá khứ, có một mối dây kết nối và phát triển từ
thắp hương đến dựa lưng. Tuy nhiên, sự kết nối này hoàn toàn trống rỗng và hụt
hẫng, bởi đó là tựa vào “một ngôi mộ khác”.
Ở đây, ngôi mộ khác có thể
là ngôi mộ hữu hình, bằng vôi, đá, xi măng... bên cạnh ngôi mộ ông bà, người
thơ tựa lưng nghỉ lấy hơi. Tuy nhiên, có một ngôi mộ khác đã xuất hiện trong
tâm tưởng, một ngôi mộ mọc lên giữa miền tâm tưởng hữu hạn của con người, một
ngôi mộ mọc lên giữa vô cùng cát bụi mà con người, một hữu thể cô đơn đang phải
tựa lưng, nghỉ mệt, chờ đợi cho đến ngày mình ngả hẳn, nằm ngủ yên trong lòng
nó. Một ngôi mộ không thể chối bỏ của kiếp nhân sinh. Và ngôi mộ ấy có thể là
ngôi mộ, có thể là lọ tro cốt lưu giữ vết dấu một kiếp người thoáng qua trong
gió bụi.
Câu thơ cuối ít nhiều mang
giọt nước mắt, mang tấm lưng lấm tấm mồ hôi mỏi mệt và mang cả tiếng thở dài
suy tư kiếp người. Đó cũng là sự hốt ngộ mà bất chợt người thơ nhận ra kiếp
nhân sinh cũng là một ngôi mộ đang chờ. Một câu thơ mà nếu cùng tần số ngôn ngữ,
bạn đọc sẽ cảm nhận được những giọt mồ hôi đang lạnh toát trên lưng mình, giữa
mùa xuân!
Ở bài thơ thứ hai: "Ly
rượu", cũng mở đầu bằng một hành động cụ thể, thắp hương, một đối tượng cụ
thể là Cha, nhưng đến hành động "Tưới xuống đất", tức tưới ly
rượu xuống đất (ẩn dụ mời rượu, tri ân, báo hiếu...), từ ấy, bật ra âm thanh,
cái âm thanh rượu rơi xuống đất không còn đơn giản là rượu đổ xuống đất nữa, nó
là một ẩn dụ về sự chia lìa và kết nối vô vọng. Và “Thành tiếng”, đây là
tiếng gì? Tiếng rượu rơi xuống đất hay là tiếng nhân sinh vỡ vụn, tiếng khóc
tan rã trên nền sự sống hằng cửu?!
Những bài thơ ba câu của
Mai Văn Phấn như những mảnh rời tâm tưởng, mỗi mảnh là một tràn âm thanh sự
sống đang vụn vỡ, rồi lại lần mò, hàn gắn và tan rã trong sự viên dung của cảm
thức tro bụi. Những mảnh âm thanh ấy đang vang vọng trên giao lộ heo hút, bất
định của sự sống.
Về bài thơ của Nguyễn Mạnh
Hà: Đi đái, cũng là hành động (đương nhiên cả thơ Mai Văn Phấn và Nguyễn
Mạnh Hà không phải là thơ Haiku, chắc chắn là vậy, vì sao không phải Haiku, tôi
sẽ đề cập ở một bài viết khác, nhưng nôm na là nó không có các chỉ dấu, thang
số và tín hiệu đặc trưng của Haiku), ướt đầu gối là một sự kiện/ hiện
tượng biểu hiện của tuổi già (cu không còn săn cứng hoặc hùng dũng, đã ỉu
xìu...) và “ướt đầu gối” như là hệ quả đương nhiên của việc tuổi già, cu
không còn vững chãi cho dù chỉ để đi đái. Một bài thơ cũng thấm đẫm nhân sinh,
nhưng yếu tố giễu nhại về tuổi tác, về tuổi trẻ vụt bay rất rõ. Rất tiếc, bài
thơ chỉ có một tầng nghĩa, không thể đào sâu thêm về nhân sinh quan hay vũ trụ
quan (nếu không muốn khiên cưỡng, ép uổng). Nhìn chung, bài thơ đang ở tầng số
năng lượng thấp, không thể so sánh với các bài thơ ba câu của Mai Văn Phấn.
Phân tích như vậy để thấy
rằng thơ ca mãi mãi không thuộc về số đông, và trong một số trường hợp đặc
biệt, thơ ca rất kén độc giả, dễ đánh nhầm giữa báo chí, vè, tuyên truyền,
truyện ngắn, phú, hịch... với thơ.
Có một chuyện vui, tôi
từng đọc vài bài, trong đó có bài "Cái Lồn Què" của Bùi Chát cho một
nhà thơ (nông dân) ở quê nghe, anh này cũng có làm thơ tục nữa, nghe xong, anh
nói: “Thơ gì đâu mà tệ quá, thua cả thơ tau, loại này tau làm một ngày ra cả
trăm bài!”. Tôi đồng ý với anh ngay, vì tôi biết, anh có thể viết một ngày trên
trăm bài na ná như vậy, mọi thứ đều giống giống, ngoại trừ tần số năng lượng và
dòng phức cảm bên trong của các bài thơ.
Hai bài thơ: "Biến tấu
con quạ" và "Con chào mào" (Mai Văn Phấn)
Biến tấu con quạ
Tử khí kéo ngọn bấc tới đỉnh
trời
Con quạ rực sáng.
*
Khai sinh
Sau tiếng quạ kêu
Ra đi không cưỡng lại
Gói bọc được mở ra
Sự băng hoại không thể cất
giấu
Thày lang đốt sách cuối vườn
Tân dược trong kho đều quá
hạn sử dụng
Những phù thủy chịu hình
phạt
Miệng bị đóng bởi những móc
sắt
Khai sinh
Khi quả chuông rơi xuống bất
ngờ
Chụp lên đầu người bõ già
Con cá nhảy vào đám mây tự
vẫn
Buông ngang trời ngàn vạn
lưỡi câu
Khai sinh
Mực đổ dưới chân và máu
vón cục ở yết hầu, phế quản
Viết
một nét lên trang đầu
thấm
suốt cả ngàn trang sách.
*
Bổ nhào
từ đỉnh cao
Bằng
đôi cánh sắc
Lấy tâm
điểm xác chết
Chém
toác bầu không
Gió hấp
tấp không kịp băng bó.
*
Móc từ
hốc mắt
những
nhãn quan
Di ảnh
là vật chứng
Mổ vào
lưỡi
và kéo
dài
Phơi
dưới trời bài học khẩu ngữ
Bóc
từng mảng thịt
Tháo
rời tứ chi
Sổ tung
lục phủ ngũ tạng
Hộp sọ
vừa được dựng lên
Rêu đã
phủ đầy
Không
viết nổi những dòng bi ký.
*
Con quạ
mơ
Mọi cái
chết đều được sắp đặt
Sau
tiếng quạ kêu
Ai đã
tự nguyện nằm xuống.
*
Con quạ
bay vào phòng
Một
ngón tay giơ lên yếu ớt
Ý nói:
Đây là họng súng
Là lưỡi mác
Thậm chí cuốc thuổng
Thậm chí chính ngón tay rất
cứng
Đúng
hơn là đông cứng
Rồi băng
đá
Rồi rữa
tan.
*
Đừng
đến gần bóng râm
Chúng
là con quạ
Xõa
cánh lúc hoàng hôn, rạng đông
Nanh
vuốt bám gió
Xay
nghiền lá khô
Bẻ
những cành vượt
Nhà thơ
trú trong bóng râm
Từng
con chữ bị khoét mất mắt.
*
Trông
Sự vật
Trừng
trừng
Bởi
chớp mắt
Bóng
quạ
Ập tới.
Bóng
mình
Không
cất tiếng
Sợ biến
thành gà con.
*
Một số
người trỗi dậy từ đám đông, khoác áo đen, mang mặt nạ đen. Vừa chạy, họ vừa đập
cánh tay vào hai bên sườn. Đầu cố ngước lên. Bóng đen bay là là mặt đất.
*
Đậu
trên chạc cây trong trạng thái bội thực và ngủ gật, con quạ mơ mỗi mẩu thức ăn
đang nén chặt trong diều biến thành quả trứng. Đàn quạ con lũ lượt chui khỏi
ngũ quan, lập tức sà xuống săn mồi theo bản năng của loài ăn thịt.
*
Những
đau khổ tột cùng ngoái nhìn đời sống tưởng chừng đã chết. Áo khoác kêu thất
thanh khi đi qua bàn tủ. Máy điện thoại im lìm ngủ. Chiếc kẹp ghim mở miệng cố
giấu đi móng vuốt. Cán chổi móc vào tay người lao công, kéo chị ta về bên hố
rác. Vành mũ trên đầu kêu thảng thốt, rồi cúi xuống rỉa hết mặt nhân viên bảo
vệ. Không ai mở cổng. Nhiều người vẫn tìm được lối đi vào.
*
Những
linh hồn thoát xác tìm cách quay về chiến đấu với loài quạ dữ. Sau những loạt
đạn không gây sát thương, khói hương căng thành bảng, viết con chữ đầu tiên của
bài học mới.
*
Đây là
dòng cuối cùng trong một bản di chúc:
“Bắt đầu lễ Thiên táng lúc xuất hiện bóng quạ”.
*
Bóng
đêm chui dần vào bụng quạ.
Cả
chúng ta nữa, đang cồn cào cùng dòng sông đói khát. Những giọt nước đục tìm
cách lọt qua khe vải. Mặt nước khổng lồ ghìm nén xao động, mong giữ lại bóng
người. Bật que diêm rồi, vẫn nhớ ngọn bấc còn rất xa. Vung tay lên, nói to một
mình trong bóng tối.
Con quạ khật khừ xuyên đêm
Thảng thốt kêu
Lần đầu tiên tiếng động ra
đi không vọng lại.
Con chào mào
Con chào mào đốm trắng mũ đỏ
Hót trên cây cao chót vót
triu…
uýt… huýt… tu hìu…
Tôi vội
vẽ chiếc lồng trong ý nghĩ
Sợ chim
bay đi
Vừa vẽ
xong nó cất cánh
Tôi ôm khung nắng, khung gió
Nhành cây xanh hối hả đuổi
theo
Trong vô tăm tích tôi nghĩ
Lát nữa chào mào sẽ mổ những
con sâu
Trái cây chín đỏ
Từng giọt nước
Thanh sạch của tôi
triu… uýt… huýt… tu hìu…
Chẳng cần chim lại bay về
Tiếng hót ấy giờ tôi nghe
rất rõ.
M.V.P