Những mẫu gốc ám gợi trong thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương - Mai Ngọc Phát
Những mẫu gốc ám gợi trong thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương
Tranh của HS Nguyễn Tuấn Sơn
Mai Ngọc Phát
Tôi gọi thơ chữ Nôm của Hồ Xuân Hương là thơ thuần Việt, bởi hầu như nhà thơ đã “tẩy sạch” vết tích của Đường Thi[1], Tống Thi[2], mà thấm tẩm vào trong đó bản sắc, cốt cách Việt, cũng như phủ ngập hương vị dân gian mộc mạc, hóm hỉnh. Trong khi đó, thơ chữ Hán của Hồ Xuân Hương lại cho bạn đọc hình dung khác về diện mạo thi sĩ của bà.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương đậm chất phong tình và tâm thức phản kháng, mang khát vọng hạnh phúc và tự do. Nó không chỉ vang dội trong thời đại của bà, mà có sức sống mãnh liệt, liên tục lan truyền, chiếm lĩnh tâm thức và tình cảm người đọc đương đại. Trước khi đưa ra ý kiến nhỏ về thơ Hồ Xuân Hương, tôi đã đọc nhiều sách vở, khảo cứu khá nhiều chuyên luận, những bài viết về thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Khi đó tôi nhận thấy mọi cánh cửa trong thi giới của nữ sĩ họ Hồ đã rộng mở. Đây thực sự là niềm hạnh phúc, may mắn cho người đọc đương thời. Giờ có chăng chỉ còn lại con đường nhỏ hẹp, khó tìm cho những ai muốn đi tới, tiếp tục khám phá vườn thơ rộng lớn, còn nhiều bí ẩn của bà. Từ bối cảnh và tâm thế đó, người viết bài này xin nêu một vài suy nghĩ về thơ Nôm của Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn mẫu gốc, nhằm góp thêm ý kiến về một gương mặt thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.
Theo nhà tâm lý học người Thụy Sĩ C.G. Jung[3], mẫu gốc, hay còn gọi là cổ mẫu, nguyên tượng, siêu mẫu, nguyên mẫu (archétypes), được dùng để khảo sát, đánh giá các hình tượng và biểu tượng văn học mang tính nguyên thủy trong hệ thống tác phẩm của một hay nhiều tác giả theo những khuynh hướng văn học nhất định. Tính khởi nguyên này của mẫu gốc đã sinh ra nguồn năng lượng đặc thù, thậm chí có thể ví chúng như những chiếc máy cái phát/ phủ sóng, làm nên từ trường, hấp lực của tác phẩm. Trong một số trường hợp, những mẫu gốc còn tạo ra xung năng làm nên tư tưởng thẩm mĩ, phong cách riêng của tác giả. “Các mẫu gốc là những mô hình, hình ảnh cổ xưa xuất phát từ vô thức tập thể và luôn đối trọng với tâm lý bản năng. Chúng là những tiềm năng được thừa hưởng khi được nhận thức dưới dạng hình ảnh hoặc biểu hiện trong hành vi tương tác với thế giới bên ngoài; đồng thời, là những hình thức tự trị và ẩn giấu sự biến đổi, một khi chúng đi vào ý thức và được các cá nhân và nền văn hóa kích hoạt biểu hiện”[4]. Như vậy, khảo cứu tác phẩm từ góc nhìn mẫu gốc là cách người đọc quan sát tác phẩm từ bên ngoài, khác với cách đọc nhập tâm/ thần, hóa thân vào tác phẩm như trước đây.
Trong trường hợp thơ Hồ Xuân Hương, trước tiên, xin đề cập đến tín ngưỡng phồn thực, căn nguyên làm hiển lộ những mẫu gốc trong thơ bà. Đọc thơ dù chỉ một vài bài, thậm chí một đôi câu, ta bỗng thấy hiện lên trước mắt cả hệ thống hình ảnh trực tiếp hoặc gián tiếp ám gợi về đời sống phồn thực, vạn vật sinh sôi, về sinh thực khí nam nữ, những hành động tính giao, hay những bộ phận gợi cảm trên thân thể phụ nữ:
“Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa”
(Vịnh cái quạt)
Người đời đã tốn rất nhiều thời gian và giấy mực để bàn luận sôi nổi về những hình ảnh ám gợi này. Đọc thơ bà, ta thường liên tưởng ngay đến những trò chơi ngôn ngữ từ xa xưa, như đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục, hay những câu ca dao đặc trưng tín ngưỡng phồn thực của người Việt. Do sống trong xã hội quân chủ Nho giáo chuyên chế, nên Hồ Xuân Hương bị coi là vi phạm những điều cấm kỵ, “dâm và tục”. Ngay đến tận bây giờ, thơ Hồ Xuân Hương vẫn có “sức công phá” rất mạnh, tiếp tục gây tranh cãi về thuần phong mỹ tục, thẩm mĩ nói chung. Nhưng những bài thơ được/bị coi là dâm tục ấy, nhìn từ góc độ xã hội học, lại có tính trào tiếu và phê phán thẳng thắn những thói hư tật xấu, sự giả dối, bạc bẽo của một bộ phận người trong xã hội, đồng thời cất cao tiếng gọi công bằng, tự do.
“Quân tử có thương thì bóc yếm
Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”
(Ốc nhồi)
“Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa”
(Mắng học trò dốt)
Nhà nghiên cứu - phê bình văn học Đỗ Lai Thúy, người đi tìm ngọn nguồn thơ Hồ Xuân Hương trong tín ngưỡng phồn thực, đã gọi bà là “người phát ngôn phồn thực”, một tín ngưỡng tôn thờ sự sinh sôi nảy nở của con người, cả vật nuôi và cây trồng. Tín ngưỡng ấy thấm sâu, làm nên hồn cốt những câu thơ bà viết về thiên nhiên sinh động và tinh nghịch.
“Quân tử có yêu xin đóng cọc
Đừng mân mó nữa nhựa ra tay”
(Quả mít)
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám”
(Canh khuya)
Và đây là hai câu thơ rất sống động và gợi cảm tựa đoạn phim 3D viết về dệt cửi, một nghề truyền thống ở các làng quê Việt Nam:
“Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau”
(Dệt cửi đêm)
Tín ngưỡng phồn thực chính là căn nguyên làm hiển lộ những mẫu gốc trong thơ Hồ Xuân Hương. Trong tác phẩm thơ Nôm của bà hiển thị một số mẫu gốc, nhưng tôi khảo sát hai mẫu gốc cơ bản nổi bật: mẫu gốc thiên nhiên Bắc Bộ và mẫu gốc phụ nữ Việt xưa. Hai mẫu gốc này tựa hai cây cột cái chống đỡ ngôi nhà thơ kiên cố và rộng lớn của Hồ Xuân Hương. Chúng thường hoán chuyển ngữ nghĩa cho nhau, ám gợi tín ngưỡng phồn thực, làm nên một thi giới độc đáo có một không hai không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới.
Ở mẫu gốc thiên nhiên Bắc Bộ, hình ảnh làng quê như: giếng khơi, lá trầu, đám rêu, khe nước, hòn cuội, ghềnh thác… thường hiện ra sống động, đầy gợi cảm. Theo học giả Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, cha của Hồ Xuân Hương là ông Hồ Phi Diễn, ở xã Quỳnh Đôi (Nghệ An), mẹ của bà họ Hà, quê ở Hải Dương. Nhưng bà lớn lên và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa vùng châu thổ sông Hồng, đáng chú ý hơn, trong thơ bà thể hiện cốt cách của miền đất Thăng Long kinh kỳ.
Thiên nhiên trong thơ bà thể hiện đa dạng hình bóng và sắc thái các miền quê Bắc Bộ. Bài thơ “Vịnh Cái Giếng” có lẽ được thi sĩ viết khi còn rất trẻ, hiện ra màu sắc tươi non mơn mởn trong nhịp điệu gấp gáp, tinh nghịch của thiếu nữ vừa bước vào tuổi cập kê:
“Cầu trắng phau phau hai ván ghép,
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Cỏ gà lún phún leo quanh mép,
Cá diếc le te lội giữa dòng.”
Ta dễ nhận thấy, ngay từ bài thơ non tươi, trong vắt này, Hồ Xuân Hương đã thể hiện một phong cách thơ hiếm có, sự ám gợi tính dục đã thể hiện rất rõ trong câu thơ kết: “Đố ai dám thả nạ dòng dòng?”
Những bài thơ về thiên nhiên của Hồ Xuân Hương, đặc biệt là những bài mang địa danh cụ thể đều mang tinh thần sáng tạo của Thánh Mẫu trong tín ngưỡng Đạo Mẫu. Chẳng hạn, bài thơ “Hang Cắc Cớ” cho thấy sự mầu nhiệm của người mẹ quyền năng trong buổi khởi nguyên của vũ trụ.
“Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mọc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm”
Hay câu thơ “Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom” trong bài “Động Hương Tích”, tác giả đã khêu gợi hình bóng buổi tạo thiên lập địa, gợi nhắc đến sự hoài thai, sinh nở của kiếp người.
Khi miêu tả ngoại cảnh, thiên nhiên, Hồ Xuân Hương thường xuất hiện ở ngôi thứ hai. Qua ngôi vị này, nhà thơ trở thành một “đối tác”, “bạn tình” của nhân vật có tên “thiên nhiên”. Do vậy, thiên nhiên trong thơ thường hiện ra đầy nhục cảm, gợi mời ái ân, đụng chạm:
“Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp,
Lách khe nước rỉ mó lam nham”
(Hang Thánh Hóa)
“Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu”
(Đèo Ba Dội)
Trong bài thơ về quần thể đá có tên “Đá Ông Chồng, Bà Chồng”, Hồ Xuân Hương đã mô tả sự sắp đặt vô tình của tạo hóa như một động thái mang tính giao của con người.
“Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc
Thớt dưới sương pha đượm má hồng”
Lần theo dấu vết trên các văn bản thơ Hồ Xuân Hương ta thấy, sau những thất bại về hôn nhân, tình ái, thi sĩ đã dành nhiều thời gian đi ngao du đó đây, chủ yếu ở miền Bắc và cả miền Trung. Ta có thể điểm tên một số bài thơ để thấy dấu chân của nữ sĩ họ Hồ: Chợ Trời, Chùa Thầy, Kẽm Trống, Quán Khách, Hang Thánh Hóa, Đèo Ba Dội, Động Hương Tích, Miếu Sầm Thái thú, Hang Cắc Cớ, Chùa Quán Sứ…
Mẫu gốc nổi bật thứ hai trong thơ Hồ Xuân Hương là phụ nữ Việt xưa. Hình tượng người phụ nữ trong thơ bà thường hiện lên với số phận bé mọn, bất hạnh, đầy trắc trở và khổ đau trong tình duyên và hôn nhân, nhưng luôn nhẫn nhịn và giàu lòng vị tha, bác ái. Bà dám trực diện đấu tranh cho quyền của phụ nữ, phản kháng quyết liệt và trần trụi, chia sẻ sâu sắc với số phận bất hạnh của nữ giới trong xã hội cũ:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng”
(Lấy chồng chung)
“Chiếc bách buồn về phận nổi nênh,
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Lưng khoang tình nghĩa dầu dan díu,
Nửa mạn phong ba vỗ bập bềnh”
(Vịnh sương phụ)
Để lột tả đa dạng chân dung của người phụ nữ Việt xưa, Hồ Xuân Hương thường xưng hô ở ngôi thứ nhất với tâm thế bi hài pha chút khêu gợi, mỉa mai xen với mời mọc, lạnh lùng đan với chua xót…
Xin nêu một khảo sát nhỏ cho thấy cách xưng hô độc đáo, hóm hỉnh của nhà thơ Hồ Xuân Hương.
Một số bài thơ bà xưng “em”:
“Thân em như quả mít trên cây”
(Quả mít)
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
(Bánh trôi nước)
“Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi”
(Trống thủng)
Hồ Xuân Hương xưng “tôi”:
“Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi”
(Ốc nhồi)
Hồ Xuân Hương xưng “chị”:
“Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”
(Trách Chiêu Hổ)
“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây chị dạy lối làm thơ”
(Lỡm học trò)
Tác giả xưng “thiếp”:
“Cái tội trăm năm chàng chịu cả,
Chữ tình một khối thiếp xin mang”
(Không chồng mà chửa)
“Hỡi chàng ôi hỡi chàng ôi,
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi”
(Khóc Tổng Cóc)
Xưng chính danh “Xuân Hương”:
“Này của Xuân Hương đã quệt rồi”
(Mời trầu)
Có lúc nhà thơ xưng “thân này”:
“Thân này đâu đã chịu già tom”
(Tự tình)
Hoặc bà xưng hô một cách lửng lơ, “đây”:
“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu”
(Miếu Sầm Thái thú)
Cách xưng hô của Hồ Xuân Hương ngoài mục đích xác định vị thế của tác giả, còn cho thấy thái độ đấu tranh không khoan nhượng của bà vì quyền của phụ nữ trong một xã hội bị kìm hãm bởi nhiều hủ tục, lễ nghi khắc nghiệt.
Như đã trình bày, hai mẫu gốc nổi bật đã làm nên một thi giới độc đáo, riêng biệt. Các mẫu gốc thường đan xen, ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng trong trường hợp thơ Hồ Xuân Hương, hai mẫu gốc thiên nhiên Bắc Bộ và người phụ nữ Việt đã soi chiếu cho nhau, phản ánh nhau, cùng song hành trong tâm lý ngạc nhiên, háo hức của người đọc. Cả hai mẫu gốc đều mang áp lực lớn và cường độ mạnh đến mức, khi chạm vào mẫu gốc này, bạn đọc lập tức liên tưởng đến mẫu gốc kia, và ngược lại. Các mẫu gốc, dưới góc nhìn sáng tạo, tự nó luôn trống rỗng và hoàn toàn độc lập. Nhưng khi được tôi trong “lò luyện đan” của nghệ sĩ thì nó được tái sinh trong những hình thức và tinh thần hoàn toàn mới mẻ.
Xin trở lại với khái niệm về mẫu gốc của C.G. Jung, đối chiếu với trường hợp thơ Hồ Xuân Hương cho thấy, các “mẫu gốc đã hợp nhất trong dòng cảm xúc sáng tạo của tác giả, tạo thành nền tảng năng động chung cho toàn thể cộng đồng”, dựa trên nền tảng mà mỗi cá nhân xây dựng trải nghiệm sống của riêng mình, tô điểm chúng bằng những thành tựu và biến thể văn hóa, cũng như tính cách và cuộc sống độc đáo của người viết.
Thơ Hồ Xuân Hương được khởi sinh từ những mẫu gốc bắt nguồn từ văn hóa dân tộc Việt, từ tập tục dân gian được thể hiện sinh động trong ca dao, ngụ ngôn, hò vè, đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục… Thơ của bà trĩu nặng nỗi bi ai về thân phận con người, về kiếp nhân sinh gắn liền với tư tưởng khai phóng, đấu tranh đòi quyền bình đẳng, giải phóng cho phụ nữ. Đồng thời, thơ bà thể hiện vẻ đẹp nhân hậu, giàu lòng vị tha của người Việt Nam thông qua những mẫu gốc ám gợi tín ngưỡng phồn thực, làm nên chân dung một nhà thơ lớn, độc đáo nhất trong vòng hơn hai trăm năm nay.
M.N.P
____________
[1] Những bài thơ làm dưới thời nhà Đường, Trung Hoa (618-907).
[2] Những bài thơ làm dưới thời nhà Tống, Trung Hoa (960-1279).
[3] Carl Gustav Jung (1875-1961), bác sĩ tâm thần, nhà tâm lý học Thụy Sĩ. Ông thành lập trường phái “Tâm lý học phân tích” nhằm phân biệt với trường phái “Phân tâm học” của Sigmund Freud.
[4] Stevens, Anthony. “The archetypes” (Chương 3), Papadopoulos, Renos.
The Handbook of Jungian Psychology (2006).
Tiền Thuận thiên đại bảo, mặt lưng chữ Nguyệt trên lỗ vuông, đường kính 25,2 mm