Có thể tạo ra những khuynh hướng nghệ thuật trường tồn - Nhà thơ Giáng Vân thực hiện phỏng vấn
Có thể tạo ra
những khuynh hướng nghệ thuật trường tồn
(Trả lời nhà thơ
Giáng Vân)
Nhà thơ Giáng
Vân
Lời giới thiệu của
Báo Nhân Dân: Nhà thơ Mai Văn Phấn, tác giả của 16 tập thơ đã ấn hành tại
Việt Nam, và rất nhiều trong số đó đã được dịch ra các ngôn ngữ khác. Mới đây,
sau giải thưởng dành cho nhà thơ Ý Nhi, giải Cikada đã tiếp tục trao cho nhà
thơ Việt Nam thứ hai là anh. Nhà thơ đã có cuộc trao đổi về sự hội nhập của các
nhà thơ Việt Nam với thế giới.
- Thưa nhà
thơ Mai Văn Phấn, sau nhà thơ Ý Nhi, Giải thưởng Cikada dành cho các nhà thơ
Đông Á, được thành lập nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ đoạt giải Nobel
Văn học người Thụy Điển Harry Martinson (1914 - 1978) đã được trao cho anh,
điều đó cũng có nghĩa thơ Việt đang có những tiếng nói chung với những nền thơ
của thế giới. Anh suy nghĩ thế nào về câu chuyện này?
- MVP: Để thơ của chúng ta đến được với bạn đọc quốc tế, điều tiên quyết, cần
có những bản dịch chất lượng, truyền tải đúng tinh thần của nguyên tác dù được
thể hiện dưới bất kỳ hình thức ngôn ngữ nào. Tuy nhiên, các tác giả vẫn nên
chấp nhận có sự vênh lệch về ý nghĩa ngôn từ, thậm chí có sự cải biên về hình
thức giữa các ngôn ngữ trong cùng một tác phẩm; ví dụ một số dịch giả Việt Nam
từng dịch thơ của các nhà thơ nước ngoài sang thể thơ “lục bát”. Dịch ngôn ngữ
văn học, đặc biệt dịch thơ luôn là công việc khó khăn, đầy thách thức. Nhà thơ
Agata Tuszynska (Ba Lan) từng nói: "Tôi thực sự tôn trọng công việc gian
nan, đơn độc và ít được khích lệ mà dịch giả phải gánh chịu". Việc tiếp
cận văn bản văn học cũng coi như một quá trình dịch. Người dịch phải hiểu thấu
tinh thần, thấy được vẻ đẹp của tác phẩm mình muốn dịch. Vì thế, dịch giả và
tác giả phải có sự đồng điệu, có cùng chung "tần số" cảm thụ văn
chương. Chính vì vậy, dường như các tác giả đều thấy thật khó và hiếm khi gặp
được dịch giả hiểu thấu và cảm nhận tinh tế tác phẩm của mình. Dịch giả tiếp
cận nguyên tác, không chỉ đơn thuần trên bình diện nội dung, ngôn ngữ, mà cần
có sự thông hiểu văn hóa, tâm lý, xã hội nơi tác giả đã trải nghiệm để viết nên
tác phẩm đó. Nhà văn Anthony Burgess (Anh quốc) có viết: "Dịch thuật không
chỉ là vấn đề ngôn ngữ, đó là vấn đề tạo ra nhận thức về một nền văn hóa."
- Nếu dõi theo
hành trình sáng tạo của Mai Văn Phấn, sẽ thấy những chặng rất khác nhau, về
hình thức biểu hiện, về quan niệm , về ngôn ngữ thơ… Vậy hẳn đã có những đổi
thay rất ghê gớm bên trong? Và điều gì đã xảy ra với sự đổi thay này?
- MVP: Thơ tôi
khởi phát từ những giá trị truyền thống. Bài thơ đầu tay của tôi chủ yếu dựa
vào bản năng, nhờ những hấp lực của đời sống thực tế khi ấy. Sau đó tôi nhận
ra, nếu cứ mãi dậm chân một nơi quen thuộc, bám vào những hệ hình thẩm mĩ sẵn
có sẽ khó tạo được phong cách riêng. Do vậy, tôi đã tìm cách/biết chán chính
mình mỗi khi kết thúc một giai đoạn sáng tác. Việc tự chán ấy cho tôi nội lực
mới để chui ra khỏi lớp vỏ cứng của sự tự mãn, trơ ỳ. Mỗi giai đoạn bứt phá,
đổi mới chính là tôi tự làm đổ vỡ/tự hủy để làm lại mình, thậm chí chống lại
mình.
- Thực ra, anh
có một cái đích cụ thể nào không? Đích đến của một nhà thơ đích thực, chung cuộc
là gì?
- MVP: Tôi khao
khát thế hệ tôi có được những phong cách riêng rõ nét, tạo được khuynh hướng
thơ hiện đại. Có lần tôi nói với một nhà thơ nước ngoài, suốt thời gian dài tôi
ngưỡng mộ những trào lưu của chủ nghĩa hiện đại từng được khởi xướng từ châu Âu.
Có những khuynh hướng nghệ thuật, ví dụ chủ nghĩa siêu thực, đã kết thúc từ
giữa thế kỷ trước, nhưng nó vẫn để lại trong đời sống nhân loại một dấu ấn quan
trọng. Các nghệ sĩ chúng ta cũng có thể tạo ra những khuynh hướng nghệ thuật
trường tồn như vậy chứ?! Tại sao không?
- Điều quan
trọng nào tạo nên đường đi sáng tạo dài lâu của một thi nhân?
- MVP: Ý thức tự
học, rèn luyện, phản tỉnh và luôn biết nuôi dưỡng, giữ gìn cảm xúc trong trẻo
và mạnh mẽ.
- Câu chuyện về
dịch thuật, đặc biệt là thơ, thật quan trọng để thơ tiếp cận được với công
chúng của mình. Theo tôi được biết, thơ Mai Văn Phấn hiện đã được dịch ra nhiều
ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Đó quả là hạnh phúc lớn của nhà thơ, nhưng
cũng thật choáng ngợp với bạn yêu thơ Việt. Anh có thể vui lòng chia sẻ với bạn
đọc đôi điều về câu chuyện này không thưa nhà thơ?
- MVP: Như đã
nói, thơ tôi có nhiều giai đoạn, theo từng chặng đổi mới. Mỗi giai đoạn đều
được các dịch giả lựa chọn tác phẩm để chuyển ngữ. Qua dư luận được biết, bạn
đọc các nước yêu thích những bài thơ gần đây của tôi. Họ cho rằng thơ tôi đã
hòa nhịp trong hình thức biểu hiện, họ muốn khám phá bản sắc dân tộc Việt, lối
sống, phong tục tập quán, cả tín ngưỡng, các thiết chế cộng đồng, xã hội. Để có
thể lan tỏa mạnh mẽ tác phẩm ra bên ngoài, mỗi tác giả cần có những bản dịch
chất lượng, trung thành với nguyên tác. Trước tiên, nên có những bản dịch tiếng
Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, bởi đây là những ngôn ngữ được nhiều người
sử dụng.
- Là một nhà
thơ, nhưng có thể thấy rất rõ, anh luôn dõi theo hành trình thơ Việt, những
bước thăng, trầm, các thành tựu, những gương mặt trẻ… Tập tiểu luận phê bình
văn học “Không gian khác” của anh cách đây hai năm đã gây được tiếng vang với
lối phê bình độc lập, mới mẻ, với những mĩ cảm khác biệt trong đánh giá, thẩm
định về thơ Việt đương đại. Anh có thể có một lời tâm huyết nào với các nhà thơ
trẻ hôm nay?
- MVP: Cảm ơn
chị đã đồng điệu, thiện cảm với “Không gian khác”. Qua cuốn sách này, tôi muốn khẳng
định một khuynh hướng mới, dù vẫn còn dư luận trái chiều. Tôi đã nghiên cứu, lý
giải một số gương mặt thơ cách tân hiện nay, cả những tác giả mới đổi mới một phần
thi pháp. Tôi cũng lựa chọn khảo sát, phân tích thêm bốn nhà thơ nước ngoài,
gồm: Gjekë Marinaj (Hoa Kỳ gốc Albani), Rati Saxena (Ấn Độ), Metin Cengiz và
Müesser Yeniay (Thổ Nhĩ Kỳ). Họ là những tác giả tiêu biểu cho các khuynh hướng
thơ hiện đại trên thế giới hiện nay. Chúng ta nên kiên nhẫn xem lại các khuynh
hướng văn học các nước từ trước đến nay, không phải để làm theo họ, mà thấy
được cách họ bật lên giữa bối cảnh thời đại họ thế nào. Đọc để làm giàu có bản
thân và cũng tránh những con đường mà họ đã đi.
- Xin cảm ơn nhà
thơ đã dành cho chúng tôi cuộc trò chuyện này!
(Báo Nhân Dân, 23/5/2017)
Även vietnamesiska konstnärer kan skapa en varaktig konstnärlig
tendens
(Ett
samtal med Giáng Vân)
Dịch giả Tobias Theander
Maivanphan.com: Dịch giả Mimmi Diệu Hường Bergstrom vừa gửi cho Maivanphan.com bản dịch tiếng Thụy Điển cuộc trả lời phỏng vấn của tôi, do Tuệ An (bút danh của Nhà thơ Giáng Vân) thực hiện, 5/2017. Bản dịch do Nhà giáo - Dịch giả Tobias Theander dịch từ bản tiếng Việt, đã đăng trên Báo Nhân Dân, 23/5/2017. Nhà thơ - Dịch giả Erik Bergqvist tham gia biên tập, có tham khảo bản tiếng Anh của Báo Nhân Dân điện tử, 30/6/2017. Xin trân trọng cảm ơn các dịch giả cùng các bạn Thụy Điển quý mến!
Mai Văn Phấn har i sitt
hemland publicerat 14 diktsamlingar, och många av dem har översatts till andra
språk. Cikadapriset, med vilket poeten Ý Nhi nyligen belönades, ges nu för
andra gången till en vietnamesisk poet. Mai Văn Phấn har utbytt tankar om de
vietnamesiska skaldernas intåg i världen.
– Mai Văn Phấn, efter Ý Nhi har du
fått Cikadapriset, instiftat med anledning 100-årsfirandet av den svenske
nobelpristagaren Harry Martinsons födelse (1914–1978) och avsett att
uppmärksamma östasiatiska poeter, vilket på sätt och vis betyder att vietnamesisk
lyrik kan få en mer självklar plats i världslyriken än tidigare. Hur tänker du
kring detta?
– Vårt litterära liv,
särskilt poesin, håller på att differentieras mycket starkt. Det är ett gott
tecken som visar att litteraturen i Vietnam blir mer och mer mångfaldig, rik,
och är mer grundad i en strävan efter frihet och demokrati. Särskilt efter
reformerna som inleddes 1986 har poesin förnyats, och därmed kommit mer i takt
med andra, öppnare länders diktkonst.
För
att vår lyrik ska nå internationella läsare tror jag personligen att en
förutsättning är att det finns kvalitetsöversättningar, tolkningar som på ett
korrekt sätt kommunicerar källtextens anda. Närmare bestämt betyder det de mest
ordagranna eller snarare väsenstrogna översättningarna, oavsett vilken språklig
form de förverkligas i. Poeterna acceptera att det finns svävningar i ords
betydelse, och att formen omarbetas i överföringen till ett annat språk. Som
när en del vietnamesiska översättare översatt Pusjkin och Pablo Neruda till
versmåttet lúc bát(!). Poeten Agata
Tuszynska har sagt: ”Jag respekterar verkligen det mödosamma, ensamma och föga
uppmuntrade arbete som översättaren bär på sina axlar.”
Själva
närmandet till en lyrisk text är redan hos poeten en sorts översättningsprocess.
Därför menar många att författaren och översättaren måste vara i samklang, i
sympati, och tala med samma röst för att källverket ska kunna överföras troget.
Därför är det också mycket svårt för en poet att träffa på en översättare som
fullt ut förstår, och känner detsamma som han själv – det händer sällan.
Översättaren närmar sig poetens källtext inte bara på verkets språkliga och
innehållsliga yta, utan han måste också förstå kulturen, historien, psykologin
och samhället på den plats där poeten levt och gjort sina erfarenheter för att
kunna skriva verket ifråga. Översättaren måste kunna översätta diktens anda och
grundtanke innan han översätter den stilistiskt. Den brittiske författaren
Anthony Burgess har skrivit: ”Att översätta är inte bara en fråga om språk,
utan en fråga om att skapa insikt i en kultur.”
– Om man följer din skapanderesa slås man av
att etapperna sinsemellan är påfallande olika när det kommer till sådant som framställningsform,
estetiska ideal, vokabulär … Kan du säga något om dessa radikala förändringar?
– Jag begav mig ut på
vägen med startpunkt i starkt traditionella värden. Mina första dikter vilar
huvudsakligen på instinkt och ett slags direkt och ganska okomplicerat
förhållande till tillvaron. Men jag insåg snart att om jag bara skulle stampa
på samma fläck och klamra mig fast vid saker som redan finns och är som gamla
vänner, då skulle det bli svårt att skapa mig en egen stil, ett eget lyriskt
magnetfält. Och vad som är ännu viktigare är att det skulle bli svårt att
utvidga skapandet till nästa trappsteg. När jag insett det hade jag lärt mig
att tröttna på mig själv varje gång jag avslutat en skapandefas. Att tröttna på
mig själv ger mig den inre styrka jag behöver för att slinka ur
självbelåtenheten. Jag måste så att säga göra motstånd mot mig själv, lämna det
jag etablerat, för att komma vidare. På så sätt är blir varje ny etapp i
skapandet ett slags återfödelse.
– Har du överhuvudtaget något konkret mål? Vad
är det ultimata målet för en poet?
– Jag längtar efter att
skapa en egen stil, men också att tillsammans med andra poeter bygga upp en
modern vietnamesisk poesi, antyda en riktning bort från gårdagen men också från
nuet. Jag anser att en poet har samma mål som konstnärer inom andra områden,
nämligen att skapa autentiska och till och med olika värden som speglar
ansiktet hos den epok vi lever i och som kan härbärgera föraningar, både goda
och onda, om framtiden.
En
gång sade jag till en fransk poet att jag länge beundrat de modernistiska strömningar
som sprungit upp i Frankrike under det nyligen avslutade nittonhundratalet. Där
finns konstriktningar, låt mig ta surrealismen som exempel, som avslutades i
mitten av det föregående århundradet men som ännu påverkar det litterära livet
på flera håll runtom i världen. Vi vietnamesiska konstnärer kan väl också skapa
sådana varaktiga konstriktningar? Varför inte? Vi är i vår fulla rätt att
längta efter en strömning, en konstriktning som de internationella läsarna
uppmärksammar och lägger ner tid på att intressera sig för och försöker förstå.
Om vi klarar det har vi bidragit till att tydligare markera den vietnamesiska
poesins plats på den gemensamma globala poesikartan.
– Vilka egenskaper eller attityder skulle du
säga är det viktigaste för en poet?
– Sinne för att lära
sig, att öva, att våga och orka se in i sig själv och ständigt bevara och nära
sina rena, starka känslor.
– Översättningar är oerhört viktigt för att poesin
ska nå ut i världen. Såvitt jag vet finns dina dikter nu på 24 olika språk. Det
måste verkligen vara en stor lycka för dig som poet, men är också svindlande
för den som älskar vietnamesisk poesi. Har du några funderingar kring detta?
– Som jag redan sagt
finns det i min poesi många faser som motsvarar faser i mitt liv och min syn på
vad dikten kan vara. Ur var och en av dessa har många översättarna valt ut
typiska dikter, för att få fram ett spektrum av mitt författarskap. Jag har
förstått av återkopplingar att läsare i olika länder särskilt tycker om de
dikter jag skrivit nyligen. De tycker kanske att dessa är i takt med en eller
annan strömning internationellt, både vad gäller form, ordval och sättet att
skapa ett lyriskt rum. Men framför allt vill de upptäcka vietnamesiska särdrag
i alla mina dikter, från språket, livsstilen, sedvänjor till symboler, trosföreställningar,
kollektiva institutioner, samhället i stort.
Den
brittiska poeten Susan Blanshard menar att mitt språk, jag citerar, ”uttrycker det
vietnamesiska folkets kulturella och andliga värden, dess traditioner och
sedvänjor.” Och att dikterna ”ger han luft åt de glädjeämnen och sorger hans
folk genomgått.”
Eftersom
jag fått äran att ha blivit översatt till så många språk, känns det – än en
gång – särskilt viktigt att framhäva vikten av kvalificerade översättningar,
det vill säga att tolkningen inte innebär en reduktion av originalet.
Egentligen
borde varje poet få finnas i översättning till engelska, franska och spanska,
eftersom de språken används av många i världen. Nyligen har två svenska poeter
och översättare, Erik Bergqvist och Maja Thrane, valt ut några av mina dikter
och översatt dem från vietnamesiska till svenska via engelska och franska
versioner. Boken utges på Bokförlaget Tranan senare i höst.
– Du är poet, men det märks tydligt att du också
noga följer med i kritiska diskussioner kring vietnamesisk poesi, dess med- och
motgångar, dess framgångar, dess unga ansikten ... Din samling av
litteraturkritiska essäer ”Ett annat rum” för två år sedan väckte visst väsen
kring sig genom sitt självständiga och nya kritiksätt, genom avvikande smak i
värderingen av samtida vietnamesisk poesi. Du kanske har något du brinner för
att säga till dagens unga poeter?
– Jag är glad att höra
att du nämner ”Ett annat rum”. Genom den boken bekräftar jag en ny och förnyad
poetisk tendens som bildats i vårt litterära liv, fast den fortfarande är mycket
ifrågasatt. Innan jag skrev essäerna hade jag ställt följande frågor: Var
befinner sig vår samtida poesi på världslyrikens karta? Vad behöver
vietnamesiska poeter göra, och hur? I essäerna undersöker jag och tolkar en del
av vår nyaste poesi. Dessutom har jag valt ut fyra utländska poeter för undersökning
och analys, nämligen: Gjekë Marinaj (albanskättad amerikan), Rati Saxena
(Indien), Metin Cengiz och Müesser Yeniay (Turkiet). Dessa författare är
typiska för tendenser i modern poesi i dagens värld. De författare jag diskuterar
i boken skriver så att säga på olika våglängder, så förhoppningsvis uppfattar läsaren
en sorts sjudande, mångfaldig havsyta.
För att återknyta till
din fråga om önskvärda egenskaper och attityder: De unga författarna är säkert
eniga med mig om att vi tålmodigt bör läsa verk både av poeter från i går och
av i dag. Vi läser dessa inte för att härma dem, utan för att kunna se på
vilket sätt de sticker ut mot bakgrund av sin epok. Vi läser dem för att berika
oss själva samt för att undvika den väg de redan gått.
*
Övers av Tobias
Theander
Redigerad av Erik
Bergqvist
Dịch
giả Erik Bergqvist (phải) và Dịch giả Maja Thrane
Vietnamese artists can also create permanent art trends
(Interviewed by poetess Giáng Vân)
Poet Mai Văn Phấn is
the author of 14 volumes of poetry, many of which have been translated into different
foreign languages. He became the second Vietnamese poet to be honored with the Cikada
Prize - a prestigious award for outstanding East Asian poets. He had a talk with Nhân Dân Online about the integration of
Vietnamese poets on the international arena.
Q: You were the second poet in Vietnam, after Ý Nhi, won the Cikada award
for Southeast Asian which was founded in 2004 in connection with the 100th
anniversary of the birth of the Swedish Nobel Prize laureate in literature
1974, Harry Martinson (1914-1978). The award showed that Vietnamese poetry has
a certain place in world literature. What are your thoughts on this?
A: Vietnamese
literature, particularly poetry, is sharply differentiated, showing that it has
become more diversified, liberal, democratic and creative. Notably, since the
reform in 1986, Vietnamese poetry has been renewed, hence has become more in
line with other opener countries' art of poetry.
In my opinion, in order
to promote Vietnamese poetry to international readers, it is essential to
create high quality translations and correct interpretation which faithfully communicates
with the spirit of the original text. However, the poets should accept the gliding
of literal meaning and even the linguistic form of the texts. For example,
several Vietnamese translators transformed A. S. Pushkin and P. Neruda’s poems to
'luc bat', a Vietnamese verse form of
alternating six and eight syllables. The Polish poet Agata Tuszynska said “I
really respect the translators’ laborious and little encouraging work that they
wear on their shoulders.
The translators need to
have the right approach to the poets’ spirit and intention as a sort of
translation process. Therefore, it is said that the authors and translators
should have sympathy and have the same voice to get the faithful translation to
the original work. Apart from language and content comprehension, the
translators need to have a deep understanding of the culture, history,
psychology and social context where the poets lived and worked. The British
writer Anthony Burgess wrote, “translation is not a matter of language, without
an insight of the culture”.
Q: You have gone from different forms of expression, aesthetic ideal and
poetry vocabulary during your work, why did you make these radical changes?
A: I
created my first poems mainly based on my instincts and life experience. Then I
soon realised that they are rather familiar and of direct connection to each
other, if I’ve stamped on the same spot I’d not create my own style and lyrical
magnet. I have learnt to get tired of myself when I’m ending a creation phase, which
thus gives me inner strength to not become complacent. Each new creation stage
becomes a kind of rebirth.
Q: Do you have a specific target? What is the ultimate goal of a poet?
A: I
aspire to create my own style, but also, work together with other poets to
build up a modern Vietnamese poetry which is different from the past and the present.
In my opinion, a poet has the same goal as other artists in other creative
fields, i.e. to create authentic values, to reflect the epoch we live in, and
to bring forth, both the good and the bad things about the future.
I once said to a French
poet that I admired the ‘modernist’ trends that were initiated in France during
the 20th century. Many art trends, for example surrealism, ended in the middle
of the last century yet still have an influence on the literary life around the
world. Vietnamese artists could absolutely create similar trends that draw attention
from international readers and make it interesting to understand; all of which
could place Vietnamese poetry on the poetry map of the world.
Q: In your opinion, which values and attitudes are most important for a
poet?
A: I
think the sense of self-learning and exercising as well as nourishing, and maintaining
pure and strong feelings.
Q: Translations are vital for the poet to reach the world. As far as I
know, your poems now exist in 24 different languages. It must be a great
achievement to you as a poet, but it's also staggering for anyone who loves
Vietnamese poetry. Do you have any thought about this?
A: As
I have said, my poems were divided into different phases corresponding to different
phases of my life and my perception of poetry. During each period, translators
selected different types of poems to reflect
a spectrum of my authorship. The
feedback showed that foreign readers loved my poems that I wrote recently. They
consider that they are in line with one or another international trend, either
in form or expression, a way to create e new lyrical room. Especially, the readers want to discover the
Vietnamese features, including language, lifestyle, customs, beliefs, collective
institutions, society as whole through my poems.
The British poet, Susan
Blanshard, remarked my poetry expression, I would like to quote “He expresses
the cultural and spiritual values of Vietnamese people, their traditions and
customs”. And “The poems give a space for the pleasures and sorrows that his
people has experienced”.
Because I have received
the honor of being translated into so many languages, it feels particularly
important to emphasise the importance of qualified translations, that is, the interpretation
does not mean a reduction of the original.
Actually, every poet
should be in translation into English, French and Spanish, as they are used
universally in the world. Recently, two Swedish poets and translators, Erik
Bergqvist and Maja Thrane, have selected some of my poems and translated them
from Vietnamese to Swedish via English and French versions. The book will be
published at Publishing House Tranan later this fall.
Q: You always follow carefully the critical discussions about Vietnamese
poetry, including success and failures and young faces. Your literary critical essays
“Another space”, which was published two years ago awake a certain reaction to
your independent and critical way, as different aesthetics valuation of
contemporary Vietnamese poetry. What is your passionate wish to say to today’s young
poets?
A: I'm
glad to hear you mention "Another space”, I want to affirm that a renewed
poetry trend has been formed in our literary life although it is still highly
questioned. Before I wrote these essays, I had asked the following questions:
Where is our contemporary poetry on the world map? What do Vietnamese poets
need to do, and how? I studied and analysed four foreign poets who represent
current modern poetry trends in the world, including Gjekë Marinaj (the US),
Rati Saxena (India), and Metin Cengiz and Müesser Yeniay (Turkey). The authors
I'm discussing in the book write at different wavelengths, so hopefully the
reader perceives a kind of simmering, multifaceted sea surface.
To get back to your
question on desirable qualities and attitudes: The young authors certainly
agree with me that we should patiently read the works of the poets from
yesterday and today. We read them not to imitate them but to see how they compare
to the background of their epoch. We read them to enrich ourselves and to avoid
the path they already passed.
Thank so very much for your time!