Ánh sáng của thơ
(Viết cho học sinh phổ thông)

“Dịu” của Đinh Thanh Huyền
Mai
Văn Phấn
Gần
đây, một số em học sinh đã gửi thư hỏi tôi về thơ, nhất là muốn biết vì sao tôi
gọi thơ là ánh sáng khai thị. Trước đó, trong cuốn sách “Nhịp điệu vẽ lối đi”,
do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2024 (tr. 357), tôi đã viết: “Tôi nhận thức rằng, thơ là ánh sáng khai
thị cho con người bằng nghệ thuật ngôn từ, làm hiển lộ vẻ đẹp tâm hồn người
viết, kiến tạo một không gian mới, cõi sống khác. Đó thực sự là những vẻ đẹp
tinh tuyền và quyến rũ, khúc xạ tâm hồn người viết, phản chiếu nền văn hóa của
mỗi vùng đất, mỗi dân tộc.”
Ánh sáng ấy có thể được xem như một dạng năng lượng tinh thần, đóng vai trò chuyển hóa ngôn từ thành công cụ khám phá bản thể và nhận thức. Nhờ đó, nó không chỉ soi chiếu đời sống nội tâm, khơi mở những giá trị tiềm ẩn mà còn mở rộng những chân trời cảm thụ mới. Trong tiến trình ấy, ngôn từ thi ca vượt lên chức năng thẩm mỹ đơn thuần để trở thành phương tiện gợi mở chiều sâu tư tưởng và khơi dậy khả năng suy tưởng nơi người đọc. “Hàng trăm người chúng ta đi dưới
ánh mặt trời/ Mỗi người là một cánh cửa hé mở – dẫn đến căn phòng cho tất cả/
Mặt đất vô tận bên dưới chúng ta – Nước lấp lánh giữa những tán cây/ Hồ là cửa
sổ nhìn vào lòng đất” (Tomas Tranströmer – “Thiên
đường dang dở”, bản dịch của Nguyễn Man Nhiên). Trong cách nhìn của T. Tranströmer,
ánh sáng tựa dòng chảy xuyên suốt, phân mảnh mọi sự vật, khiến thế giới hiện ra
dưới nhiều góc nhìn đồng thời; mỗi cá thể mở một thiên giới, nhưng vẫn gắn kết
với toàn thể. Thế giới như kết nối hàng chuỗi căn phòng khép mở liên tục, nơi
vạn vật và con người vừa giữ bản chất riêng, vừa phản chiếu và tiếp nhận nhau.
Ánh
sáng bài thơ dẫn dắt người đọc vào hành trình nhận thức và trải nghiệm, trở
thành cầu nối giữa con người với chính mình, với tha nhân, với vũ trụ, nơi rung
cảm được chuyển hóa thành sự thức tỉnh. “Trên
cánh đồng mẹ nằm cô quạnh/ Mẹ hằng mong tôi khôn lớn một ngày/ Đâu đó bên hàng
song thụ/ Trên lớp lá thu còn một chiếc giày” (Không ai gọi tôi trở dậy vào
buổi cuối thu). Thi ảnh trong khổ thơ ấy của Dương Kiều Minh (1960–2012) như
giữ kín nội tâm nhân vật, giống như hạt gạo còn nằm yên trong lớp vỏ trấu của
ký ức. Mạch thơ vẫn âm u, ngập ngừng, tựa khoảng không còn phủ sương. Chỉ đến
khi hình ảnh “chiếc giày” xuất hiện trên lá thu rơi rụng, ánh sáng mới bất ngờ
bừng lên, tựa ngọn lửa bật sáng trong đêm tối, chiếu rọi và làm hiển lộ toàn bộ
không gian mờ tỏ trước đó.
Sự
khai thị trong thơ là khả năng soi tỏ nơi u tối trong tâm hồn, mở ra chiều sâu
cảm xúc và tư duy, đồng thời tạo sự đồng cảm và kết nối tinh thần. Ngôn từ nhờ
vậy trở thành mạch giác ngộ dẫn dắt con người đến với chiêm nghiệm và thấu
hiểu. Trong bài thơ "Màu cây trong khói" (có bản in là
"Chiều") của Hồ Dzếnh (1916–1991), sự khải minh vận hành như nhịp điệu tinh
thần, dẫn dắt người đọc từ rung cảm đến nhận thức. Câu thơ kết “Nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói huyền bay lên
cây…” đã nâng hành động đời thường thành biểu hiện của hoài cảm, trầm lắng,
nơi làn khói mỏng manh lan tỏa, kết nối tâm hồn lữ khách với thiên nhiên và nỗi
nhớ cố quận.
Thơ,
vì thế, có thể được xem như ánh sáng soi chiếu tâm hồn và kiến tạo không gian
thẩm mỹ mới. Người đọc được mời gọi bước ra khỏi đời sống thường nhật để đi tới
chân trời tinh thần mà thực tại khó chạm tới. Đó không phải thế giới của thời
gian hay quy tắc, mà là một cấu trúc thi pháp, nơi mỗi thi ảnh khơi gợi cảm
xúc, đánh thức suy tưởng và mở ra vô vàn hướng diễn giải. Ngay cả những sự vật
giản dị cũng có thể trở thành cánh cửa dẫn vào miền suy tư sâu kín, nơi người
đọc vừa nhận diện bản thân, vừa tưởng tượng và khám phá những khả thể mới của
cảm xúc lẫn suy tưởng. Như vậy, thơ chính là trải nghiệm tinh thần độc đáo, mời
gọi con người dừng lại, lắng nghe, chiêm nghiệm và hòa nhập vào một vũ trụ vừa
riêng tư vừa rộng mở. "Em đi, như
chiều đi/ Gọi chim vườn bay hết/ Em về, tựa mai về/ Rừng non xanh lộc biếc/ Em
ở, trời trưa ở/ Nắng sáng màu xanh che/ Tình em như sao khuya/ Rải hạt vàng chi
chít" (Tình ca ban mai). Ánh sáng trong khổ thơ của Chế Lan Viên
(1920–1989) hiển lộ tinh thần, nơi hữu hình hòa quyện với vô hình; vừa soi rọi cõi
lòng con người, hé lộ những rung cảm, hoài niệm và tình yêu đời sống, vừa mở ra
thế giới bên ngoài, nhấn mạnh mối liên hệ giữa cá thể với tự nhiên và vũ trụ.
Thơ
không chỉ chiếu rọi tâm hồn mà còn mở ra tiền đề cho những trải nghiệm nội quan
khác, như trong bài thơ của Tạ Anh Thư: “Rờn
rợn núi/ cái lạnh xuyên qua lưỡi/ rơi xuống lồng ngực đóng băng/ Cô gái lạ xếp
lại khăn/ bình thản như trăm năm rồi/ vẫn làm như thế/ Mùa hè đã qua từ lâu/
sao nắng vẫn vàng như nghệ/ Tôi không biết/ giữa mình và chiếc ghế/ kẻ nào đã
đợi/ lâu hơn.” (Núi). Ở đây, thời gian và ký ức được nén lại, mỗi hành động
của nhân vật trở thành dấu ấn biểu đạt sự bền bỉ và mối tương liên giữa con
người với thế giới. Hình ảnh “mình”
và “chiếc ghế” gợi nhịp điệu gấp gáp,
đồng thời mở ra chiều sâu tâm hồn, nơi ánh sáng vừa chiếu rọi hiện thực, vừa kiến
tạo một thế giới nội tại.
Trong
không gian thơ, người đọc có thể hòa nhập vào niềm vui và nỗi buồn, gợi nhớ
những ký ức xa xăm, đồng thời suy tưởng về nhân sinh hay chiêm nghiệm về vũ
trụ. Mỗi thi ảnh góp phần kiến tạo một thế giới tinh thần vừa lạ lẫm vừa thân
thuộc, nơi cảm xúc và nhận thức được mở rộng, bản ngã và trải nghiệm cá nhân
giao thoa với thế giới nghệ thuật. Không gian ấy không lệ thuộc vào hình thức
thể loại, dù là thơ truyền thống hay thơ hiện đại, mà tự nó hình thành một thế
giới riêng biệt, trong đó tâm hồn nhà thơ được hiển lộ và người đọc được mời
gọi tham dự vào trải nghiệm sáng tạo. “tôi
thèm sống như thèm chết/ giữa hơi thở giao thoa/ ngực cháy lửa/ tôi gọi khẽ/ em/
hãy mở cửa trái tim/ tâm hồn anh vừa sống lại thành trẻ thơ/ trong sạch như một
lần sự thật”. Đây là khổ thơ kết bài thơ “Phục sinh” của Thanh Tâm Tuyền,
nơi trải nghiệm hiện sinh bùng nổ dữ dội: sự sống và cái chết va đập, khơi dậy
khát vọng hiện hữu; con người vừa ý thức sự hữu hạn, vừa khao khát tái sinh
trong tình yêu và sự sống trọn vẹn. Ngôn từ trở thành hành động thách thức bản
ngã, dấn thân vào ranh giới mong manh giữa hủy diệt và hồi sinh. Chính tại lằn
ranh ấy, tính hiện sinh hiện ra trần trụi và quyết liệt: sống là đi đến tận
cùng cảm giác để chạm tới sự thật nguyên sơ. Thơ ở đây trở thành hành vi hiện
hữu, nơi thi sĩ khẳng định mình giữa bóng tối và những bùng nổ rực rỡ của đời
sống.
Trong
quá trình sáng tạo, cảm xúc, ký ức và trải nghiệm của nhà thơ không tái hiện
nguyên vẹn đời sống mà được chưng cất, biến hóa thành ngôn ngữ thơ. Những rung
động khó gọi tên hay suy tư về nhân sinh, khi đi qua lăng kính ấy, trở thành
hình ảnh lung linh, ám gợi. Thơ vừa phản chiếu thế giới tâm hồn, vừa mở ra tính
phổ quát để người đọc đồng cảm. Chính sự khúc xạ này khiến thơ có khả năng biến
trải nghiệm bình dị thành vẻ đẹp phi thường, biến những khoảnh khắc tưởng chừng
vụn vặt thành giá trị vĩnh hằng. Trong khổ thơ sau của Louise Glück: “Và rồi chúng ta chỉ đơn giản là rơi—/ Và
thế giới trôi qua,/ mọi thế giới, mỗi thế giới đều đẹp hơn trước;/ em chạm vào
má anh để bảo vệ anh—“ (Bài thơ), bản dịch Nguyễn Huy Hoàng, trạng thái
“rơi tự do” trong dòng chảy của đời sống gợi cảm giác bất lực trước sự vận động
bất tận, nhưng đồng thời được nâng đỡ bởi vẻ đẹp mong manh và cứu rỗi. Cử chỉ “em chạm vào má anh” chứa
đựng sức mạnh bảo bọc, làm bừng sáng ý niệm về tình yêu và sự gắn kết.
Hay
trong khổ thơ sau của Như Bình "Hoàng
hôn thả mặt trời xuống vớt em lên/ em đỏ ối quả cầu cháy khát/ nhưng đáy sóng
nhớ em/ san hô nhớ em/ rong biển đã ru em/ nghìn năm em chết" (Sự im
lặng biếc xanh 2), không gian mở ra đầy tính biểu tượng, nơi sự sống và cái
chết, khát vọng và lãng quên, nỗi nhớ và sự im lặng hòa quyện. Hình ảnh mặt
trời, sóng, san hô, rong biển đồng loạt cất tiếng nhớ thương, vừa bi tráng vừa
thấm đẫm nhân tình, khắc họa sức nặng vĩnh hằng của tình yêu và nỗi đau nhân
thế. Khổ thơ kiến tạo một vũ trụ cảm xúc, nơi thiên nhiên trở thành chứng nhân
cho bi kịch và vẻ đẹp con người, khiến dư âm vượt ra ngoài văn bản văn học.
Thơ
là tấm gương phản chiếu nền văn hóa của mỗi vùng đất, mỗi dân tộc. Những hình
ảnh, biểu tượng, nhịp điệu và ngôn từ trong thơ lưu giữ giá trị tinh thần,
phong tục, tín ngưỡng, nếp sống và quan niệm thẩm mỹ đặc trưng của cộng đồng,
từ thiên nhiên, cảnh vật đến sinh hoạt đời thường, lễ hội hay nghi thức tâm
linh. Khi nhà thơ phản ánh trải nghiệm cá nhân, họ đồng thời phản chiếu ký ức,
truyền thống và đời sống tinh thần của tập thể, tạo nên sự hòa quyện giữa riêng
tư và cộng đồng, giữa trải nghiệm cá nhân và giá trị văn hóa. Vì thế, thơ mang
tính biểu đạt, tính lịch sử và văn hóa, trở thành phương tiện để ghi nhận, bảo
tồn và chuyển tải tiếng nói văn hóa qua thời gian. “Tôi hát bài hát về cố hương tôi/ Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó/ Nó
không tiêu tan/ Nó thành con giun đất/ Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao/ Bò quằn
quại qua khu mồ dòng họ/ Bò qua bãi tha ma người làng chết đói/ Đất đùn lên máu
chảy dòng dòng" (Nguyễn Quang Thiều – "Bài hát về cố
hương"). Văn minh sông Hồng hiện lên trong khổ thơ với vẻ đẹp bình dị mà
sâu lắng, gắn bó mật thiết cùng đời sống cư dân nông nghiệp Bắc Bộ. Vẻ đẹp ấy
được bồi đắp qua thời gian, nơi đất đai, sông nước, tín ngưỡng và ký ức cộng
đồng giao hòa, tạo thành nền văn hóa đặc trưng: bình dị mà bền vững, thấm đẫm
cả nỗi đau và niềm hy vọng. Trong thơ Nguyễn Quang Thiều, những giá trị ấy được
khúc xạ thành lớp nghĩa biểu tượng, vừa gợi nhớ cội nguồn, vừa lay động tâm
thức.
Không
gian thơ mở ra cho người đọc cơ hội chiêm nghiệm và rung cảm, khả năng nhận
diện bản sắc văn hóa – những miền đất, những con người, những tập tục – để từ
đó cảm nhận sự liên kết sâu xa giữa con người với thiên nhiên, với cộng đồng,
với quá khứ. Mỗi câu chữ, mỗi hình ảnh tựa tấm gương phản chiếu văn hóa, góp
phần kiến tạo thế giới tinh thần đa chiều, nơi tư duy thẩm mĩ hợp thành một
chỉnh thể, mở ra vô vàn khả năng diễn giải và thấu cảm.
Thơ
luôn mở ra những lối đi bất ngờ. Mỗi đơn vị ngôn từ trở thành điểm khởi phát
cho trải nghiệm thẩm mỹ đang định hình, mời gọi người đọc tiếp cận dòng chảy
đời sống từ nhiều chiều kích. Trong tiến trình ấy, cảm xúc, trí tưởng tượng
được khơi thông, liên kết và biến đổi. Ánh sáng trong thơ như những tín hiệu
gợi mở, hàm chứa khả năng khai triển nhiều tầng nghĩa. Thơ, vì thế, mở rộng
năng lực nhận thức và cảm xúc, là hành trình thử thách, nơi mỗi trải nghiệm
tiếp nhận góp phần hoàn thiện con người. Từ góc nhìn đó, thơ xứng đáng được
nghiên cứu như một hiện tượng thẩm mỹ – văn hóa đặc thù, nơi ánh sáng văn bản
không chỉ soi rọi nội tâm mà còn phản chiếu những chuyển động của cộng đồng,
của thời đại.
Hải Phòng, 20/8/2025
M.V.P
___________________
Tomas Tranströmer (1931–2015) là nhà thơ Thụy Điển, đoạt giải Nobel Văn học năm
2011.
Louise Glück (1943–2023) là nhà thơ Hoa Kỳ, đoạt giải Nobel Văn học năm 2020.