image advertisement

image advertisement
image advertisement





























 

Thi sĩ kết ngàn đóa hoa kính dâng Đức Mẹ Maria ​(phê bình) – Mai Văn Phấn

Thi sĩ kết ngàn đóa hoa kính dâng Đức Mẹ Maria

(Về tập thơ "Dải áo Mẹ" của Lê Quốc Hán, Nxb. Đồng Nai, 2025)

 

 

Nhà thơ Lê Quốc Hán

 

 

Mai Văn Phấn

 

"Yên lặng nấp trong dải áo Người

Con không buồn nữa Mẹ yêu ơi!

Con không lạc lõng bơ vơ bởi

Ánh sáng Đức Tin đã chói ngời"

(Dải áo Mẹ)

Đó là khổ thơ trong bài "Dải áo Mẹ", được thi sĩ Lê Quốc Hán viết năm 19 tuổi, đánh dấu thời khắc ông nhận được Ơn Gọi văn chương. Từ đó, Đức Trinh Nữ Maria trở thành điểm tựa thiêng liêng, nâng đỡ ông qua mọi nẻo đường, thử thách. Nhan đề bài thơ ấy cũng trở thành nhan đề của tập thơ "Dải áo Mẹ" (Nxb. Đồng Nai, 2025) của ông vừa được ấn hành.

Nhà thơ Lê Quốc Hán là một trong những cây bút tiêu biểu của Văn học Công giáo Việt Nam đương đại. Sinh trưởng trong gia đình Công giáo, rửa tội tại giáo xứ Kỳ Anh, thuộc Giáo phận Vinh, Nghệ Anh, nhà thơ sớm thấm nhuần đức tin Thiên Chúa, và chính niềm tin ấy trở thành nguồn cảm hứng xuyên suốt sự nghiệp thi ca của ông. Thơ Lê Quốc Hán phong phú về đề tài, trải rộng từ đời sống nhân sinh, những trăn trở về kiếp người, đến vẻ đẹp thiên nhiên và những suy niệm thiêng liêng về Ơn Gọi. Thơ ông là lời ngợi ca Thiên Chúa và Đức Trinh Nữ Maria, cũng là những trang nhật ký tâm linh về hành trình trưởng thành của một tín hữu.

Tập thơ "Dải áo Mẹ" kết tinh cuộc đời đức tin của tác giả, phản chiếu hành trình thiêng liêng từ tuổi trẻ đến khi vào buổi hoàng hôn cuộc đời. "Dải áo Mẹ" gồm ba phần, tượng trưng cho ba chặng đường tâm linh mà Lê Quốc Hán đã trải qua. Phần đầu, Tràng hoa dâng Mẹ, chất chứa những rung cảm hồn nhiên, tha thiết của người con kính dâng Đức Mẹ Maria. Phần hai, Hạt bụi, khắc họa thử thách, trăn trở và niềm xác tín giữa những biến động đời sống. Phần cuối, Khải hoàn ca, biểu đạt sự vững vàng, bình an của một tâm hồn đã tìm thấy ánh sáng cứu rỗi nơi Thiên Chúa.

Trong hành trình sáng tạo của Lê Quốc Hán, hình ảnh Đức Mẹ Maria luôn hiện lên với vẻ đẹp thiêng liêng, che chở và dẫn dắt. Mẹ là mẫu gương của tình yêu thương, niềm hy vọng, sợi dây kết nối con người với Thiên Chúa. Khi đối diện thử thách, Đức Mẹ luôn là nơi nương náu, soi đường, đưa những tâm hồn lạc lối trở về ánh sáng.

Phần đầu thi tập, Tràng hoa dâng Mẹ, được sáng tác chủ yếu vào năm 1968, khi tác giả vừa tốt nghiệp trung học phổ thông. Những bài thơ đầu tiên của Lê Quốc Hán mang hơi thở hồn nhiên, thể hiện đức tin trong sáng, tràn đầy lòng kính mến và phó thác vào Thiên Chúa, kết những bông hoa đầu mùa dâng lên Đức Mẹ.

"Khi bóng chiều buông xám mặt đường

Chuông ngân sang sảng nhạc du dương

Lòng con yếu đuối kêu xin Mẹ

Tưới mọi ơn lành khắp bốn phương"

(Khi bóng chiều buông)

Bầu khí thiêng của buổi chiều tà, với tiếng chuông ngân, tạo không gian trầm lắng, nơi con người đối diện với chính mình, với những yếu đuối, khắc khoải và niềm mong mỏi được che chở. Tâm thế phó thác vào Mẹ Maria trở thành điểm tựa tinh thần quan trọng, giúp tác giả vượt qua những thử thách. Lời thơ bày tỏ lòng yêu mến Thiên Chúa và khát khao đón nhận ân sủng. Với giọng điệu thành kính và trang nghiêm, nhà thơ dâng lời ngợi ca Đức Mẹ:

"Tràng Mân Côi là hoa lòng trong trắng

ngạt ngào thơm con xin kính dâng Người

để hồn thơ bay bổng chín tầng trời

chúc tụng Mẹ muôn vần thơ êm ái"

(Tràng Mân Côi)

Tứ thơ trong trẻo, hồn nhiên, như tiếng lòng thánh thiện của một tâm hồn thơ vừa chạm ngõ đức tin. Người đọc cảm nhận được niềm hân hoan, vỡ òa trong xúc cảm khi tìm thấy điểm tựa thiêng liêng nơi Đức Mẹ. Đức tin là sự phó thác trọn vẹn, bình an và chan chứa yêu thương. Chính sự chân thành và giản dị ấy làm nên vẻ đẹp của thơ Lê Quốc Hán ngay từ thuở ban đầu.

Thơ Lê Quốc Hán trong giai đoạn này ngân vang muôn cung bậc cảm xúc. Đoạn thơ sau khắc họa một trong những khoảnh khắc thương đau trong hành trình cứu độ – Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá, lặng nhìn Con Chí Ái chịu khổ hình. Từng câu thơ dâng trào niềm thống khổ của tình mẫu tử, hòa cùng mầu nhiệm cao vời của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại.

"Dưới Thánh Giá Mẹ nhìn lên vời vợi

trái tim hiền rực cháy lửa yêu thương

nhìn con mình chết gục giữa chiều sương

người mẹ nào chẳng đau buồn thảm thiết

Cả vạn vật khóc thương Người thảm thiết

vọng ngàn năm tiếng Mẹ khóc từ bi

bạn nhìn xem phút Chúa sinh thì

để cứu bạn đang lao vào Địa ngục"

(Mau về thống hối)

Giọng thơ bi thương nhưng không tuyệt vọng, thấm đẫm lòng từ bi và lời mời gọi ăn năn, hoán cải. Hình ảnh Đức Mẹ hiện lên thức tỉnh lương tri, nhắc nhở con người về ơn cứu chuộc. Đó là tiếng khóc thấm đẫm yêu thương, kéo dài qua thời gian, vọng đến tâm hồn mỗi người, thôi thúc họ trở về trong thống hối và lòng tin.

"Giật mình chợt tỉnh giấc mơ

Hương bay Mẹ, vẫn thơm tho trên đầu

Lòng con dịu bớt u sầu

Mỗi khi mơ được lên chầu Nữ Vương

Mẹ ơi! Xin Mẹ đoái thương

Cứu bao nhiêu kẻ lạc đường như con!"

(Mơ gặp Mẹ)

Tâm hồn tác giả tựa đứa con bé nhỏ, tìm về vòng tay từ mẫu, mong được chở che và an ủi. Giọng thơ hồn nhiên, chan chứa lòng thành kính, diễn tả niềm hạnh phúc khi được gần Đức Mẹ, khát khao ân sủng thiêng liêng của Ngài.

"Mưa rơi sớm sớm, chiều chiều

Mưa bao nhiêu hạt bấy nhiêu ân tình

Cúi đầu lạy Mẹ đồng trinh

Mở lòng mưa xuống suối tình cho con"

(Mưa rơi);

"Hồn con là một cung đàn

Du dương tụng Mẹ muôn vàn bài ca

Hồn con là dải Ngân Hà

Dưới bàn chân Mẹ, sao sa sáng ngời"

(Hồn con)

Những hình ảnh giàu tính biểu tượng, bay bổng, hòa quyện giữa con người và thế giới tâm linh. Vần thơ ấy là tiếng vọng từ tâm hồn tha thiết tìm về yêu thương và bình an, để trong mỗi bước đi, con người luôn có Đức Mẹ đồng hành, che chở.

"Con lại hái ngàn hoa dâng kính Mẹ

như ngày xưa từng bước chạy lon ton

Trong ngàn vạn hoa thơm nơi trần thế

sánh đâu bằng hoa trinh bạch hồn con"

(Hoa lòng dâng Mẹ)

Đó là sự hòa quyện giữa tâm hồn thơ ngây thuở ban đầu và đức tin trưởng thành nơi người con của Mẹ. Tứ thơ gợi nhớ quá khứ hồn nhiên, phản chiếu tâm tình dâng hiến, khi đức tin trở thành suối nguồn nuôi dưỡng tinh thần. Tâm linh hòa quyện cùng thiên nhiên, mở ra không gian thơ thanh thoát, nơi con người tìm thấy sự bình yên trong niềm tin.

Trong phần Tràng hoa dâng Mẹ, bài thơ "Chuỗi tràng hạt diễn ca" thể hiện cách riêng của Lê Quốc Hán trong diễn giải ý nghĩa Kinh Mân Côi qua bốn mầu nhiệm: Năm sự Vui, Năm sự Sáng, Năm sự Thương, và Năm sự Mừng. Tác phẩm tái hiện những sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria, qua đó truyền tải giá trị thiêng liêng và chiều sâu đức tin.

"Thứ nhất: Thiên sứ Truyền Tin:

Này Bà cao trọng sẽ sinh con Trời"

(Chuỗi Tràng Hạt Diễn Ca)

Bài thơ mở đầu với Năm sự Vui, tôn vinh những khoảnh khắc ân sủng trong kế hoạch cứu độ: từ Truyền tin, thăm viếng, Giáng Sinh, dâng Chúa trong đền thánh đến việc Chúa ở giữa các thầy thông luật. Nổi bật là lời "xin vâng!" của Đức Mẹ – biểu trưng của vâng phục và tín thác. Năm sự Sáng tiếp nối, soi tỏ hành trình công khai của Chúa: chịu phép rửa, hóa nước thành rượu, rao giảng Nước Trời, biến hình và lập Bí tích Thánh Thể. Ánh sáng mạc khải đạt đỉnh khi Chúa hiến mình qua Thánh Thể, dấu chứng tình yêu vĩnh cửu: "Giờ cứu chuộc cuối cùng đã điểm/ trái tim còn lưu luyến thế gian.". Năm sự Thương tái hiện cuộc khổ nạn qua năm chặng: hấp hối, đánh đòn, đội mão gai, vác Thập Giá, chịu đóng đinh. Trong tận cùng đau khổ, Chúa vẫn tỏ bày tình yêu thương và lòng bao dung: "Bị treo lên mười hai chính Ngọ/ phút sinh thì vẫn tỏ tình nhân/ Máu tươi cạn dưới lưỡi đòng: xin Cha tha tội vì lòng chúng si!". Năm sự Mừng mở ra niềm hy vọng: Chúa Phục Sinh, Thăng thiên, Chúa Thánh Thần hiện xuống, Đức Mẹ lên trời và đội triều thiên. Đức Mẹ tỏa sáng như nguồn cậy trông: "Nữ Vương quyền phép trên trời/ xin Người phù hộ bao đời khổ đau!". Bài thơ biểu đạt hành trình thiêng liêng từ niềm vui, ánh sáng, đau khổ đến vinh quang. Lời thơ trang trọng, giàu hình ảnh, khơi dậy khát vọng chiêm ngắm và sống trọn vẹn trong ánh sáng Tin Mừng.

Sau những năm tháng sống đức tin hồn nhiên, tác giả bước vào một giai đoạn nhiều thử thách, với những biến cố và trăn trở của cuộc sống (1991–2018). Ở phần hai, Hạt bụi, giọng thơ Lê Quốc Hán trầm lắng hơn, phản ánh cuộc đấu tranh nội tâm khi con người đối diện với khó khăn, mất mát. Đây là giai đoạn đức tin của ông được tôi luyện. Hình ảnh Đức Mẹ trong thơ lúc này là nguồn an ủi trong những ngày thử thách. Nhà thơ tâm sự: "Mẹ tôi thì kể để răn tôi: Một lần, thánh Augustin đi dọc biển khơi. Nhìn thấy một em bé vừa khóc vừa dùng một chiếc vỏ ốc mong tát cạn nước biển khơi. Hỏi: “Sao cháu dại thế?”. Trả lời: “Chẳng dại hơn việc ông đang làm”. Nói xong, biến thành thiên sứ bay về trời Thánh Augustin tỉnh ngộ. Nhưng các nhà thơ suốt đời không thích “tỉnh ngộ”. Họ muốn dùng trí tuệ có hạn của mình để bắc một chiếc cầu nối hai bờ xa thẳm kia. Họ muốn dùng đôi cánh yếu ớt là trái tim mình để bay từ chân trời này đến chân trời nọ. Đến đích hay không, nào có hề chi. Điều vui nhất là mỗi người trong bọn họ đã tạo cho mình một thế giới riêng, một vũ trụ riêng, một tâm linh riêng." (Vũ trụ và tâm linh, tr. 47)

"Số phận mỗi con người

thất bại nhiều hơn cát

mong một hạt nhỏ nhoi

trai ngậm thành hạt ngọc."

(Mạc khải);

"Ngôi sao sáng Đức Tin

không đêm nào lửa tắt

giữa trái tim chúng mình"

(Sao Đức Tin)

Đời sống trần thế như cát bụi, nhỏ bé, chông chênh trước dòng chảy vô tận của thời gian. Thất bại và thử thách là điều không thể tránh khỏi, nhưng chính trong những gian truân ấy, con người càng dễ dàng nhận ra sự mầu nhiệm của đức tin. Chỉ khi đón nhận ánh sáng Thiên Chúa, đời sống hữu hạn này mới tìm được ý nghĩa. Tựa viên ngọc trai được hình thành giữa muôn trùng thử thách, tâm hồn con người cũng chỉ đạt đến sự viên mãn khi được tôi luyện trong đức tin bền vững.

"Cát trắng và sao xanh

rải đều trong trời đất.

Hoa hồng và gai sắc

mọc chung trên một cành."

(Công bằng);

"Làm sao cắt nghĩa cõi người

khi vui ứa lệ, khi cười đớn đau;

kiếp này mơ tưởng kiếp sau

hoài công gom nhặt điệu sầu ngàn xưa."

(Cõi người)

Lê Quốc Hán đặt ra một nghịch lý muôn thuở của đời sống: niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau, hy vọng và tuyệt vọng luôn đan xen. Sự tồn tại của con người luôn là sự giằng co giữa những đối cực, giữa hữu hạn và khát vọng vĩnh hằng. Trong thế giới đầy bất trắc này, con người mãi loay hoay đi tìm ý nghĩa cho sự hiện hữu. Nhưng càng truy vấn, càng cố gắng nắm bắt, mọi thứ càng trở nên mơ hồ, mong manh. Đời người tựa một vòng luẩn quẩn giữa những hoài niệm và khao khát, giữa giấc mơ về một miền hạnh phúc xa xăm và thực tại đầy khổ đau. Những chính trong sự giằng xé ấy, con người lại ý thức rõ hơn về mình, về hành trình tìm kiếm chân lý và niềm tin giữa cõi đời bất định.

"Buồm căng lên rồi

Mẹ ơi! Thổi gió

kính Chúa, yêu Người

cho thuyền con vượt trùng khơi

mau về nước Chúa đời đời hiển vinh"

(Thuyền con);

"Một ngày làm việc thiện

Lá vàng không nỡ rơi

Mặt trời không nỡ lặn

Người không nỡ xa người"

(Một ngày);

"Rồi bỏ Em lặn lội

Anh đi tìm công danh

Mỗi lần về xưng tội

Em là Chúa lòng lành

Nếu một lần phản bội

đem tình ta đóng đinh

Xin nguyện ngày Phán xét

Em, quan tòa công minh"

(Lời khấn nguyện)

Con đường thế gian là những nỗ lực mưu sinh, cuộc hành trình tâm linh tìm về bến bờ của tình yêu và ơn cứu rỗi. Đức tin được Lê Quốc Hán khắc họa như nguồn sức mạnh giúp con người kiên vững trước sóng gió, nhấn mạnh giá trị của lòng nhân ái, sự thủy chung và trách nhiệm. Trong vòng xoáy của thời gian và biến động, những hành động thiện lương có thể giữ lại hơi ấm giữa người với người, khiến đời sống bớt mong manh, xa cách. Và hơn hết, tình yêu thương chân thành, khi được đặt trên nền tảng của niềm tin, sẽ trở thành điểm tựa vững chắc, hướng con người đến sự công chính và bao dung.

Trong phần hai, Hạt bụi, một số bài thơ được viết dưới hình thức thơ văn xuôi đầy ấn tượng, phản ánh triết lý về kiếp người, tình yêu, đức tin và sự hòa hợp. Những sáng tác này mở ra những góc nhìn về ý nghĩa của sự tồn tại và mối liên kết sâu xa giữa con người với chính mình, với tha nhân và với Đấng Tạo Hóa:

"Mỗi chúng ta một nửa thiên thần giấu đôi cánh làm người trần thế để tắm nỗi đau rộng dài hơn sông bể biết giá bình yên đổi bằng giá máu mình/ Yêu đắm say bằng đầu suy nghĩ bằng tim mắt ngước nhìn trời chân không rời mặt đất giữa mưa nắng bão dông cần cù gieo hạt cho những mùa vàng tiếp nối sinh sôi" (Sinh ra từ ánh sáng và nước);

"Rồi mai đây từ giã cõi trần đôi cánh mọc lên bay về miền ánh sáng lòng thấu hiểu trời cao vô hạn và mặt đất dù hữu hạn đơn côi đủ giao hòa nhau sinh ra nuôi lớn những kiếp người" (Sinh ra từ ánh sáng và nước);

"Dẫu cát bụi sẽ trở về cát bụi, có hề chi khi ta đã gặp nhau. Để biết yêu, biết ca hát nguyện cầu, biết nuôi dưỡng đôi linh hồn bất tử." (Hạt bụi);

"Mỗi khi buồn tôi thường hỏi mẹ ai là người mẹ yêu nhất trên đời mẹ ôm tôi vào lòng âu yếm vương quốc tình yêu không biên giới rạch ròi" (Bốn khúc ca ngắn về Mẹ).

Con người, trong bản thể mong manh, mang trong mình những dấu ấn của thiên thần, vừa trải nghiệm niềm vui, nỗi đau trần thế, vừa hướng đến ánh sáng thiêng liêng. Đời sống tuy hữu hạn nhưng có ý nghĩa khi con người biết yêu thương, sống trọn vẹn, biết nhận ra sự giao hòa giữa trời cao vô tận và mặt đất hữu hạn. Chính tình yêu, sự hy sinh và đức tin đã làm cho kiếp nhân sinh trở nên ý nghĩa, giúp con người vượt qua giới hạn của cái hữu hình để chạm đến cõi bất tử. Bên cạnh đó, tình mẫu tử được khắc họa như hiện thân của tình yêu thương. Mẹ là Đấng sinh thành, chính là điểm tựa tinh thần, nơi con người luôn tìm thấy sự che chở, an ủi và cảm nhận tình yêu thương vô hạn.

Sau năm 2019, khi đã trải qua nhiều thăng trầm, tác giả bước vào giai đoạn chiêm nghiệm sâu sắc về đức tin và cõi nhân sinh. Nếu như phần đầu thi tập là sự hồn nhiên của một tâm hồn non trẻ, phần hai là những thử thách, thì phần cuối Khải hoàn ca chính là sự kiên vững của một đức tin trưởng thành, không còn nghi nan hay chao đảo, nhưng tràn đầy ân sủng và xác tín nơi Thiên Chúa.

Nhà thơ thể hiện niềm hân hoan và khát vọng cứu rỗi gắn liền với sự kiện Giáng Sinh – thời khắc Đức Kitô đến trần gian, mang theo ánh sáng và hy vọng cho nhân loại.

"Ca lên em! Bài ca hy vọng

Đức Kitô sắp Giáng trần rồi

Người sinh hạ trong đêm đông lạnh cóng

sống khổ đau cần mẫn kiếp con người"

(Khải hoàn ca);

Bên cạnh niềm vui đón mừng, nhà thơ nhấn mạnh đến lời mời gọi sám hối và chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ân sủng:

"Phạt gai góc, san đất đá làm đàng

và gửi đến lời vang trong hoang địa:

hãy sám hối, đợi giờ Người cứu thế

Đức Giê Su Con Thượng Đế giáng trần!"

(Tiếng kêu trong hoang địa)

Hình ảnh hoang địa, gai góc gợi lên những thử thách mà con người cần vượt qua trên hành trình hướng về ơn cứu độ. Tinh thần này là lời kêu gọi hành động – thanh luyện tâm hồn, sửa đường ngay lối để đón nhận ánh sáng của Thiên Chúa.

Hai khổ thơ sau đây cho thấy đức tin của con người trong sự kết hiệp với Đức Kitô. Con người dù vất vả, dù phải đối diện với đau khổ, vẫn không thể sánh với sự hy sinh mà Chúa đã chịu để cứu chuộc nhân loại:

"Con về đây dẫu vất vả gian nan

so sao được bước đường Người đã trải

Máu nhỏ xuống cho đời sau kết trái

Trái Đức Tin nuôi nhân loại ngày ngày"

(Lên đỉnh Can-vê);

"Mừng các Thánh hồng ân rực rỡ

xin ca rao danh Chúa rạng ngời

Mai sau con giã cõi người

được về Quê thật muôn đời hiển vinh"

(Hát mừng các Thánh hiển linh)

Đức tin luôn được gìn giữ, nuôi dưỡng và lan tỏa như hoa trái của ơn thiêng. Hình ảnh ngọn đồi Can-vê khắc họa sự tự nguyện hiến dâng của Chúa Giêsu, trong khi niềm hân hoan trong bài ca mừng các Thánh mở ra viễn cảnh vinh quang nơi Quê trời. Từ hy tế cứu chuộc đến niềm hoan lạc trong vinh phúc, hành trình đức tin luôn gắn liền với khiêm nhường, sám hối và khát khao ơn cứu độ. Những đoạn thơ sau diễn tả tâm tình ấy qua hình ảnh Đức Trinh Nữ Maria, lời khẩn cầu tha thiết và niềm tín thác vào Bí Tích Thánh Thể. Giữa kiếp người hữu hạn, đức tin trở thành điểm tựa vững chắc, nâng đỡ tâm hồn vượt qua cám dỗ, hướng về ánh sáng ân sủng và sự sống đời đời.

"Kính mầng Đức Mẹ đồng trinh

Đã cưu mang Đấng cứu tinh Giáng trần

Chúng con tội lỗi muôn phần

Ơn trên tha hết lỗi lầm đã qua

Từ nay nguyện sống nết na

Tránh xa cám dỗ quỷ ma dẫn đường"

(Kinh Lòng thương xót Chúa);

"Con đáng phạt nhãn tiền lắm đó

Nhưng Chúa ơi! Xin rủ lòng thương

Thiết tha lạy Nữ Trinh Vương

Khẩn cầu cùng Chúa mở đường giúp con"

(Kinh đọc khi xem lễ Mi-sa);

"Con hằng tin thật vững vàng

Của lễ là của ăn đàng sớm hôm

Không còn bánh miến rượu thơm

Chính Mình Thánh Chúa, xác hồn ngự trong"

(Dọn mình trước khi rước lễ)

Ở phần cuối của thi tập, bài thơ "Ngắm mười bốn đàng Thánh Giá" thể hiện ý nghĩa về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Nhà thơ tái hiện mười bốn chặng đàng Thánh Giá, từ lúc Chúa bị Philatô kết án đến khi chịu đóng đinh, chịu chết và được táng trong hang đá. Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh Chúa Giêsu tự nguyện chấp nhận đau khổ, như một mẫu gương của tình yêu thương vô điều kiện và lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha, một hy tế cao cả để cứu chuộc nhân loại: "Thêm vì ý nguyện của Người quyên sinh." Đây là chân lý cốt lõi của đức tin Kitô giáo: qua cái chết trên Thập Giá, Chúa Giêsu đã hoàn tất công trình cứu độ, đem lại ơn giải thoát cho con người. Hy tế của Người vừa là sự chịu đựng khổ đau, vừa là dấu chứng cao cả của tình yêu và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.

"Một lòng dâng trọn yêu tin

Người mang Thánh Giá trên mình thương đau

Làm gương nhân thế mai sau

Gắng mang Thánh Giá khổ đau theo Người"

Hình ảnh Đức Giêsu ba lần ngã xuống đường Thập Giá phản ánh nỗi thống khổ tột cùng của Người, là lời khích lệ con người kiên trì vượt qua mọi thử thách. Ở chặng cuối, khi Chúa trút hơi thở trên Thánh Giá, vũ trụ cũng rung chuyển, đất trời phủ kín màn tang, và nhân loại lặng đi trong mầu nhiệm cứu chuộc vĩ đại.

"Trời xanh rụng ánh sao băng

Biển khơi nổi sóng, đất bằng nứt đôi."

Những hình ảnh này nhấn mạnh sự mất mát to lớn, báo hiệu một biến cố trọng đại sẽ đến: sự Phục Sinh. Lời ngợi khen cuối bài không phải là tiếng khóc tuyệt vọng mà là niềm hân hoan trong đức tin: "Người dùng Thánh Giá cứu dân của Người!". Bài thơ là bản suy niệm về cuộc khổ nạn, mang ý nghĩa hy vọng, giúp tín hữu ý thức rằng Thánh Giá chính là con đường dẫn đến ơn cứu độ.

Qua ba phần của tập thơ "Dải áo Mẹ", cho thấy sự trưởng thành trong đức tin của nhà thơ Lê Quốc Hán. Từ đức tin tinh khôi, hồn nhiên, tác giả đã bước qua thử thách để được tôi luyện và đạt đến sự xác tín vững vàng trong ân sủng. Hình ảnh Đức Mẹ tỏa sáng suốt tập thơ là điểm tựa tinh thần, dẫn dắt, che chở và đồng hành cùng tác giả trong suốt cuộc đời và hành trình sáng tạo.

Tập thơ của Lê Quốc Hán mang giá trị nội dung sâu sắc, gây ấn tượng bởi nghệ thuật thơ giàu hình ảnh, kết hợp với lối viết dung dị mà sâu lắng, làm nổi bật hành trình tâm linh của tác giả. "Dải áo Mẹ" là hình ảnh sáng láng xuyên suốt, tượng trưng cho vòng tay bao dung, chở che của Đức Mẹ Maria. "Tràng Mân Côi" là sợi dây kết nối tâm hồn với Đức Mẹ. "Ánh sáng đức tin" soi rọi con đường tác giả đi qua, từ những ngày thơ trẻ đến lúc tâm hồn an nhiên. Tác giả có lối viết dung dị mà sâu lắng, không cầu kỳ hoa mỹ nhưng chạm đến trái tim độc giả bằng sự chân thành. Ngôn ngữ thơ giản dị, giàu suy tưởng, giúp người đọc cảm nhận được niềm kính yêu Đức Mẹ. Đặc biệt, thơ của ông có sự hòa quyện giữa chất trữ tình và lời kinh nguyện, khiến mỗi bài thơ mang dáng dấp của một bản thánh ca nhẹ nhàng mà trang trọng.

Đọc tập thơ của Lê Quốc Hán, độc giả vừa cảm nhận được tình yêu tha thiết của tác giả dành cho Đức Mẹ, vừa thấy thấp thoáng chính hành trình đức tin của mình trong đó. Những vần thơ khơi dậy lòng yêu mến Mẹ Maria, đưa con người đến gần hơn với Thiên Chúa qua ánh sáng và sự che chở của Mẹ. Tập thơ là lời mời gọi hướng về đức tin, về sự an bình trong tâm hồn, để mỗi người có thể tìm thấy chỗ dựa thiêng liêng trong đời sống.

Nhà thơ Lê Quốc Hán đồng thời là một nhà toán học với những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực đại số và toán học ứng dụng. Xuất phát từ một học trò xuất sắc nhưng gặp nhiều trắc trở, ông đã nỗ lực không ngừng để trở thành tiến sĩ toán học, minh chứng cho nghị lực và khát vọng tri thức bền bỉ. Không chỉ chuyên sâu trong nghiên cứu toán học, ông còn tìm cách kết nối lĩnh vực này với đời sống thực tiễn, lan tỏa tinh thần yêu chuộng cái đẹp qua thơ ca.

Thi sĩ Lê Quốc Hán đã kết ngàn đóa hoa thiêng kính dâng Đức Trinh Nữ Maria. Mỗi bài thơ của ông tựa bông hoa thanh khiết, được hái từ khu vườn đức tin, dệt nên tràng chuỗi Mân Côi sốt mến dâng lên Mẹ. Thơ ông ngợi ca Đức Maria như Đấng che chở, dẫn lối trên hành trình tâm linh, phản chiếu chính cuộc lữ hành đức tin của mình. "Dải áo Mẹ" là lời kinh dâng hiến, thấm đẫm tình yêu và sự tín thác. Với tập thơ này, Lê Quốc Hán đã góp thêm một viên ngọc quý vào kho tàng thi ca Công giáo, làm rạng rỡ hơn ánh sáng của Đức Mẹ trong đời sống Đức tin của các tín hữu.

 

Tháng 3/2025

M.V.P

 

(Rút từ cuốn sách “Trong Ơn Gọi” của Vincent Mai Văn Phấn, Nxb Đồng Nai, 2025)

 

 

 

 

 

 

Sách bán tại Nhà sách Đức Bà Hoà Bình

Địa chỉ: Số 1 Công Xã Paris, P.Bến Nghé, Quận 1, Tp.HCM

• Điện thoại: 0938.037.175 – (028)3.8250.745

• Email: nsachducbahoabinh@gmail.com

 

Sách bán tại Nhà sách Nước Mặn

Địa chỉ: 116 Trần Hưng Đạo, Quy Nhơn, Bình Định

• Youtube: Tủ sách Nước Mặn 

• Facebook: Tủ sách Nước Mặn

 

 

 

 

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 5  ... 

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị