image advertisement

image advertisement
image advertisement





























 

Mai Văn Phấn - “Không ưa bước lên dấu chân mình” (nghiên cứu) - Đỗ Thị Thu Huyền

Mai Văn Phấn - “Không ưa bước lên dấu chân mình”

 

 

TS. Đỗ Thị Thu Huyền

 

 

Đỗ Thị Thu Huyền[1]

 

Thử giải mã những yếu tố thành công

 

Mai Văn Phấn là nhà thơ thu hút được sự quan tâm của đông đảo bạn đọc, các nhà nghiên cứu. Hành trình tính từ tập thơ đầu tay (1992) đến nay đã tròn ba mươi năm, Mai Văn Phấn sớm xác định cho mình một quan niệm: “Sáng tác là tạo ra một thế giới riêng biệt, một cõi thơ mang đậm dấu ấn tâm hồn mình. Sự khác biệt phong cách, thi pháp giữa các tác giả hay giữa các thế hệ nhà thơ, theo tôi, chính là cách thiết lập không gian. Có thể ví đó là một ngôi nhà với nhiều cánh cửa và mỗi bạn đọc được tự do lựa chọn chìa khóa thích hợp để bước vào ngôi nhà thi ca. Đó chính là “những hạt mầm cảm xúc” có sẵn trong mỗi người đọc. Khi thích hợp được với không-thời-gian đa chiều, hạt mầm kia mới đủ sức vươn tới những vùng không gian lạ lẫm và bí ẩn của thơ”[2]. Ông không chỉ vươn tới những không gian lạ lẫm của thơ, ông còn có một ý thức vươn tới những không gian đọc khác nhau, mà nói như cách dùng của nhà thơ Bình Nguyên Trang, hiện tượng Mai Văn Phấn là một gương mặt không thể không nhắc tới khi bàn về câu chuyện xuất khẩu văn hóa.

 

Thứ nhất có thể thấy, sự chủ động, chuyên nghiệp cộng hưởng vào hành trình thơ nhiều tìm tòi đã tạo nên sự khác biệt của Mai Văn Phấn trong diện mạo thơ Việt Nam đương đại. Hiện tượng Mai Văn Phấn với lịch sử nghiên cứu – dịch thuật phong phú, website cá nhân chuyên nghiệp… đã chứng tỏ được ưu thế của một nhà văn trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0.

 

Trang cá nhân của nhà thơ Mai Văn Phấn có thể truy cập theo 3 địa chỉ: http://maivanphan.vn, http://maivanphan.com, http://maivanphan.net. Ở đó cung cấp cho bạn đọc nhiều thông tin với sự thiết kế đơn giản, chuyên nghiệp. Ngoài tiểu sử chi tiết của Mai Văn Phấn cùng hành trình sáng tác đủ đầy, các tập thơ được cung cấp toàn văn giúp độc giả tiếp cận thơ ông một cách nhanh chóng, dễ dàng nhất. Từ tập thơ đầu tiên Giọt nắng (1992) đến những tập trường ca, tập thơ xuất bản sau này đều có toàn văn, trong đó mới cập nhật phải kể đến thở (cập nhật đến 1/9/2019, chưa xuất bản sách); Nước đang chảy qua trái đất (cập nhật đến 13/2/2022, chưa xuất bản sách). Một chuyên mục đáng chú ý, chiếm phần lớn lượng thông tin liên tục được bổ sung là Các tiểu luận phê bình về thơ Mai Văn Phấn, các luận văn, luận án, đề tài khoa học, lời bình một số bài thơ… Phần này cung cấp một cái nhìn đầy đủ, đa góc độ cho những ai quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu về hành trình sáng tác của Mai Văn Phấn. Gây chú ý trên giao diện website không chỉ là giải thưởng ông được nhận mà còn bởi 46 ngôn ngữ hiện diện. Việc thơ ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, thậm chí có những thứ tiếng ít người sử dụng cho thấy chiến lược “xuất khẩu” thành công của những tác phẩm. Mục Thơ Mai Văn Phấn trong sách giáo khoa cộng hưởng với việc dịch, cho thấy tính chất vươn tới nhiều chân trời của thơ ông – không chỉ tiếp cận bạn bè quốc tế mà đi vào một môi trường với tính chọn lọc bởi nhiều tiêu chí riêng.

 

Sức hấp dẫn của hiện tượng Mai Văn Phấn với bạn đọc, các nhà nghiên cứu, một phần thể hiện qua số lượng và vấn đề mà những công trình nghiên cứu, phê bình đề cập. Nghiên cứu về Mai Văn Phấn được thực hiện đa dạng và trải rộng trên nhiều phương diện. Như trên website cá nhân của ông cho thấy một sự bề bộn khó lòng bao quát hết, mà ý kiến của Văn Giá phần nào cho thấy điều đó: “thế giới thơ Mai Văn Phấn khá bề bộn”: số lượng, ý tưởng, thi ảnh, cả về thể điệu: lục bát, đường luật, tự do, thơ văn xuôi, trường ca…  do đó để gọi ra được “khuôn mặt” nhà thơ Mai Văn Phấn với tất cả những nét đặc sắc riêng quả là một thử thách đối với bất cứ ai”[3]. Ngoài sự hấp dẫn của những yếu tố xung quanh, chính bản thân sáng tác luôn đổi mới của ông cho thấy nhiều gợi mở các hướng nghiên cứu. Nhà thơ Nguyễn Việt Chiến khẳng định rằng: “Nếu có nhà thơ nào đó đang lặng lẽ luôn tự đổi mới thơ mình và phá vỡ các nhịp điệu mòn cũ trong các thể nghiệm thơ hôm nay, theo tôi, người đó phải là Mai Văn Phấn. Từ trữ - tình - cổ - điển, anh “bay” thẳng một mạch vào hậu - hiện - đại, rồi từ đó “lao” vào vòng xoáy đầy ấn tượng của thơ - cách - tân”[4].

 

Một yếu tố quan trọng để thơ Mai Văn Phấn đến với đông đảo bạn đọc và thu hút sự chú ý trong thời kỳ “lạm phát”, “bão hòa” thơ là việc ông có những chiến lược quảng bá hết sức chủ động. Năm 2011, Mai Văn Phấn gặp dịch giả Trần Nghi Hoàng - nhà thơ, dịch giả định cư ở Hoa Kỳ. Khi thấy dịch giả Trần Nghi Hoàng đọc và thích tập thơ Bầu trời không mái che, Mai Văn Phấn đã trân trọng mời nhà thơ Trần Nghi Hoàng dịch cuốn này sang Tiếng Anh. Sau đó ông nhận được thư của nhà thơ người Anh Susan Blanshard, đại diện cho Nhà xuất bản Page Addie Press vì đã đọc tập thơ qua bản tiếng Anh và rất thích nên ngỏ ý muốn kinh doanh tập sách này, bằng cách ấn hành bản tiếng Anh ở Nhà xuất bản nơi bà ấy làm việc… Như vậy, từ việc chủ động tìm dịch giả dịch sách của mình ra Tiếng Anh, chủ động in sách song ngữ, thơ của Mai Văn Phấn đã có một cuộc “vượt qua biên giới” ngoạn mục. Nhờ bản in bằng Tiếng Anh mà ông được nhiều độc giả, nhiều nhà phê bình quốc tế chú ý. Và rồi các đơn vị kinh doanh sách quốc tế đã tìm đến ông, hợp tác cùng ông[5].

 

Bắt đầu với giải thưởng tại Hải Phòng (1991), liên tiếp các năm sau đó là Giải thưởng Cuộc thi thơ tuần báo Người Hà Nội năm 1994; Cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) năm 1995; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2010 (cho tập thơ Bầu trời không mái che); Giải thưởng Văn học Cikada Thụy Điển năm 2017; Giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoàng gia Cộng hòa Serbia, 2019; Giải thưởng của Hiệp hội Dịch giả Văn học Cộng hòa Montenegro, 2020. Có thể thấy từ giải địa phương tới Trung ương, nhưng để vươn tầm quốc tế lại là một lộ trình vừa nhiều cơ duyên vừa bởi những chủ động. “Cho đến nay, tác phẩm của Mai Văn Phấn đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ, trong đó có những ngôn ngữ mà chính ông cũng không biết vì số lượng người sử dụng ít như tiếng tiếng hindi, tiếng Ne-pan, tiếng Montenegro… Tất cả là do hiệu ứng ban đầu từ những bản dịch Tiếng Anh, Tiếng Pháp. Khi sách được in bằng những ngôn ngữ thông dụng nhất, lại trở thành sách best seller nằm trong các bảng xếp hạng, thì việc nó tiếp tục được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau là điều dễ hiểu”[6]. Có thể thấy, sự thành công của Mai Văn Phấn đến từ nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến sự chủ động tiếp cận công chúng của bản thân người viết.

 

Sự khác biệt của hai giai đoạn sáng tác

 

Những chặng đường sáng tạo thơ

 

Mỗi thời kì sáng tác, Mai Văn Phấn có những cách tân theo sự thể nghiệm cá nhân, từ năm 1999 với trường ca Người cùng thời sang đến năm 2003 với tập thơ Vách nước, thời gian dù không dài nhưng cho thấy một hành trình đổi thay trong sáng tạo, khi ông quyết liệt khước từ cái cũ để dấn thân vào hành trình nhiều thử thách. Và liên tục những giai đoạn sau đó, sự đổi khác luôn là một đặc trưng dễ nhận thấy với hầu hết các tập thơ của Mai Văn Phấn.

 

Mai Văn Phấn bộc lộ một thái độ rõ ràng với thơ, với câu chữ qua từng thể nghiệm. Tuy ông bước vào con đường văn chương bằng những dấu mốc sớm, năm 21 tuổi với bài thơ Hoa xoan đăng báo Phụ nữ Việt Nam nhưng phải rất lâu sau đó, năm 1990 Mai Văn Phấn mới xuất hiện lại với chùm thơ ba bài: Thuốc đắng, Thu về, Em gái đi lấy chồng, in trên Tạp chí Cửa biển (Hội Liên hiệp VHNT Hải Phòng). Năm sau đó, Thuốc đắng giành giải Nhất văn nghệ thành phố, liên tiếp hai năm, Mai Văn Phấn đạt giải Nhì không có giải Nhất của hai cuộc thi thơ ở hai tờ báo của uy tín văn chương: bài Nghi Tàm (giải báo Người Hà Nội năm 1994), hai bài Mười nén nhang ở ngã ba Đồng Lộc, Nhật ký đô thị hóa (giải báo Văn nghệ năm 1995)[7].

Có thể thấy, mốc 1995 với Mai Văn Phấn mang nhiều ý nghĩa. Nó đánh dấu không chỉ là giải thưởng, không chỉ là việc xuất bản (tập Gọi xanh (Nxb. Hội Nhà văn) mà nó còn cho thấy một sự ghi dấu bước đầu những thành công trên “hành trình khai phóng luôn ngập tràn hân hoan”. Bước chuyển từ 1999 sang 2003 là một cuộc “lột xác” mà ý thơ của Nhịp 6 trong bài thơ dài Hình đám cỏ có thể dùng để khái quát một cách hình ảnh về hành trình của thơ Mai Văn Phấn:

 

Hôn em hút hết bóng đêm

Vừa nứt trái cây chín rục

Cây trúc cây tre thêm đốt

Đống lửa bùng lên bởi những que cời

Một con còng trước bình minh lột xác.

 

Rời bỏ mọi tính duy lý, Mai Văn Phấn đặt cạnh hành động “hút hết bóng đêm” một hình ảnh thực: “trái cây chín rục”. Chính sự kết hợp của một loạt các yếu tố rất khác nhau làm cho hai câu thơ thấm đẫm tinh thần siêu thực mà Breton từng thổi lên đầu thế kỷ XX: Hôn em/ hút hết bóng đêm/ Vừa nứt/ trái cây chín rục. Sự đứt đoạn logic mở rộng trường liên tưởng cho phép tác giả như một người đọc mời gọi mọi người cùng bước vào không gian mênh mông của thế giới phi thực. Đó là một cuộc trở về:

 

Giọng nói rất gần

Dưới bình minh con hãy lột xác

Hoa quả

Lửa đèn

Âm dương chén nước

Như trườn qua cơn chạng vạng

Rút dần cơ thể khỏi lớp vỏ bọc

Con hớp những giọt sương

(Cửa Mẫu).

 

Sang những năm đầu thế kỷ XXI, sự đổi mới thi pháp thơ Mai Văn Phấn được thể hiện trên nhiều phương diện với nhiều sự thể nghiệm, nhiều thành công mang dấu ấn riêng. Bắt đầu và ghi dấu ấn với những sáng tác mang phong vị truyền thống, nhưng sự thành công của Mai Văn Phấn được xác lập bằng những sáng tác sự cách tân mới mẻ. Hai tập và đột nhiên gió thổi (2009) cùng Bầu trời không mái che (2010) khẳng định một độ chín và xác lập một vị thế của thơ ông trong nền thơ Việt đương đại. PGS.TS. Văn Giá nhận định về sự đổi khác này trong thơ Mai Văn Phấn: “Chặng thứ 2 là cả một nỗ lực bứt phá: giờ đây không trọng tự tình nữa, mà trọng xác lập ý; hình ảnh hóa, cảm xúc hóa ý. Ở chặng này cũng đã xuất hiện chất ảo như là sự manh nha, để rồi phát huy rõ rệt ở chặng 3”[8].

 

Thơ Mai Văn Phấn song hành “giữa gió và nước/Tôm cá và mặt trời/ rong rêu và mây trắng/ ký ức và mộng tưởng”. Nhà thơ Dương Kiều Minh nhận định “Trong tập thơ Bầu trời không mái che là sự dâng đặt cái hứng khởi trở về cuộc tái sinh đầu tiên của sự sống. Một cuộc tái sinh được nhà thơ thể nhập trong cảm nhận trực giác của cái toàn thể và cái nhất thể, một cái cá thể không phân chia, không tách rời. Đó có lẽ là cuộc giải phóng và từ quy của nhà thơ”[9]. Mỗi tập thơ của sau này, từ 2003, như một dấu mốc của cuộc “vong thân”. Ông bền bỉ đổi mới bằng cái tĩnh lặng của “nước chảy” để “vẫy tay chào mọi khác biệt hôm qua” (Đá trong lòng suối). Điều đáng nói là những đổi mới mà ông dấn thân đem đến sự hứng khởi không chỉ cho bản thân người sáng tác:

 

Từ tưởng tượng

Và những niềm khát vọng

Tôi rút những mũi tên

Ra đi tìm đích cho ngày

...

Từng mũi tên vạch đường bay vun vút

(Mũi tên bóng tối).

 

Trong nhiều bài thơ của Mai Văn Phấn, độc giả phải mở hết mọi năng lực đón nhận để bước vào thế giới của những thi ảnh, ngôn từ như được viết “tự động”, như được cắt dán ngẫu nhiên kia. Khi thoát khỏi sự ràng buộc của logic lý trí, những tuyên ngôn, chân lý sẽ được tìm ở vô thức, tiềm thức. Từ những hình ảnh xa lạ, những thực tại cách xa nhau, một thế giới khác hiện lên bằng những liên tưởng, bằng chiều sâu các lớp tầng nghĩa của biểu tượng. Tĩnh lặng – 20 cho thấy một trực giác mạnh, cần một sự đọc sâu mới có thể khai mở một đời sống cho những con chữ:

 

Ly nước

Đặt trước ngọn nến

Ánh sáng không màu

Buông trên cao

Soi cho nước lắng xuống

Tôi dần trong lại

Bàn chông đen

Những mũi tên đen

Thoát ra

Từ gan bàn chân, bàn tay.

 

Cũng như rất nhiều bài thơ đầy tính ám gợi của Mai Văn Phấn, bài thơ bắt đầu bằng ly nước đặt trước ngọn nến. Đọc một lần thì tưởng như sự liên kết không có, nhưng “tĩnh lặng” cùng những con chữ lại thấy được một mạch ngầm logic. Ánh sáng không màu soi từ trên cao cho nước lắng xuống. Vậy ánh sáng là gì, nước là gì? Nước vốn nguyên thủy là trong, là không màu, là khởi nguồn của sự sống, sự thanh tẩy. Nhưng ở đây, tại sao cần “lắng xuống” và hình ảnh nước trong chiếc ly phải chăng là đã bị giới hạn, cầm tù. Liệu đấy có phải là những sân si chế ngự con người. Đến đây, dường như đã tìm ra một lời giải cho những thi ảnh kia. Ánh sáng ngọn nến có lẽ là tượng trưng cho một sức mạnh của sự tỏa chiếu để ly nước kia đã thoát khỏi sự chấp mê bất ngộ: bàn chông đen, mũi tên đen thoát ra…

 

Sự đổi khác của hai giai đoạn sáng tác biểu hiện rõ ở cả tư tưởng ẩn sâu lẫn bề mặt chất liệu. Dù phải thừa nhận một sự “choáng ngợp” cho độc giả là những giải thưởng Mai Văn Phấn được nhận, nhưng chính bởi sự thu hút của thứ thơ gây nhạc nhiên từ những ngày đầu xuất hiện mới làm nên một Mai Văn Phấn: Thời kỳ của Gọi xanh (1995), đậm phong vị truyền thống với tứ thơ, ngôn từ tươi mới, gợi hình:

 

Cánh chim vừa liệng dao cao

Dòng sông đã ngậm bã trầu phù sa

(Du ca)

 

Cái ác đã ngủ yên trong nhụy đắng

Cho đất lành thơm mát đến rưng rưng

(Hồn nhiên)

 

Có thể thấy, những sáng tác của trước Người cùng thời, Mai Văn Phấn với Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995), Cầu nguyện ban mai (1997) thể hiện một tư duy thơ độc đáo, nhưng cách cấu tứ, ngôn ngữ chưa hẳn khác biệt so với sự quen thuộc của thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ XX. Cái đáng kể nhất của thơ ông chính là thi ảnh. Điều này cũng trở thành một đặc điểm ổn định đáng kể trong việc định vị sự mới lạ của hành trình thơ Mai Văn Phấn so với nhiều nhà thơ cùng thế hệ. Sau này trong hành trình dài nhiều thử nghiệm, sự tối giản được ông theo đuổi một cách say mê và hứng khởi. Với ông, những thông điệp mạch lạc, tối giản có sức gợi rất lớn. Đó là lý do vì sao độc giả tìm thấy ở thơ ba câu của Mai Văn Phấn hơi hướng thơ Haiku với những thông điệp không nhỏ. Hầu hết những bài thơ, dù dài, nhưng sự lập tứ vẫn luôn được dụng công:

 

Cánh chim tựa que diêm quẹt vào ngây dại (Cánh chim bay qua);

 

Trái đất – Căn nhà hộ sinh/ Tiếng trẻ con chào đời truyền trong không gian xanh/ những dòng/ mật mã... (Màu xanh);

 

Dấu chân không nhận ra nhau vô cảm trơn lỳ/ Cả dòng sông trúng độc từng dìm ta xuống đôi bờ cỏ nát/ Giờ thành đuôi sao chổi quét ngang trời/ Kết thúc cơn mơ cuối cùng thế kỷ” (Khúc dạo đầu)….

 

Đến trường ca Người cùng thời với 10 chương như gói ghém được tất cả thể nghiệm của thơ ông thời kỳ trước. Tuyên ngôn thơ của ông thời điểm đó mở ra những suy tư đầy tính triết lý giai đoạn sau này với tinh thần tôn vinh con người – “những phận khóc cười” đi tới tương lai.

 

“Không ưa bước lên dấu chân mình”

 

Trong công trình Thơ đến từ đâu (Nguyễn Đức Tùng, Nxb. Lao động, 2009), ở bài phỏng vấn nhà thơ Ngô Tự Lập, khi bình luận về bài thơ Đường miền Flandres, tác giả Nguyễn Đức Tùng nhận thấy ngoài chất “thơ mộng u uẩn”, tác phẩm “có những xao xuyến bồi hồi giữa các hàng chữ lãnh đạm”, và cho rằng, đó có phải là đặc tính thơ Việt Nam hiện nay. Ngô Tự Lập cho rằng, “không phải toàn bộ thơ Việt Nam hiện nay đều như vậy. Nhưng có lẽ đó là đặc điểm của những nhà thơ thế hệ giao thời như tôi”[10]. Dường như lối viết của Mai Văn Phấn cho thấy không chỉ là sự lãnh đạm gây xao xuyến bồi hồi mà thơ ông cho thấy một lối kiến tạo vừa tỉnh táo vừa nhiều mê say. Mai Văn Phấn cũng tự ý thức về một sự đổi khác trong các giai đoạn sáng tác: “Tôi đã qua giai đoạn viết ngẫu hứng. Mỗi giai đoạn sáng tác của tôi đều có chủ đích, hướng tới một phong cách thơ hiện đại, mang đậm căn tính Việt… Tôi không ưa bước lên dấu chân mình. Kết thúc một chặng đường, một giai đoạn sáng tác, tôi thấy mình đã hái hết “lộc” hoa trái bên đường và bàn chân tôi lúc ấy đã chạm vào vách ngăn, bờ vực. Muốn vượt qua ranh giới ấy, tác giả phải vong thân, tự lột xác để bước vào một không gian mới, một thế giới khác. Cuộc khai phóng luôn tràn ngập hân hoan[11].

Tính thiền là một trong những đặc trưng nổi bật trong toàn bộ sáng tác của Mai Văn Phấn. Giai đoạn trước, thiền trong thơ Mai Văn Phấn chính là những từ tâm, những tỉnh thức và thấm thía: Biết ơn sợi tóc trên đầu/ Buộc ta vào những nhiệm màu khói sương (Bâng quơ). Tính thiền của thơ ông không chỉ ở sự tĩnh lặng, sự tận hiến để sinh sôi: Tôi chếch choáng rỗng không chiếc hũ/ Đợi những mùa vàng tạo rực hiến dâng (Tự thú trước cánh đồng) mà càng về giai đoạn sau này, đó còn là thái độ rũ bỏ những phù hoa, trở về với thiên nhiên cây cỏ, về với cái chân cái mộc, một tuyên ngôn giản dị đứng tách xa với cái hỉ nộ ái ố của cuộc đời:

 

Nỗi niềm đem thả trong cây

Qua sương giá đến rạng ngày trổ hoa.

 

Lỡ vin vào bóng mây qua

Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò.

 

Đầu kim tựa có ai chờ

Khâu ta vào với ỡm ờ xửa xưa.

 

Hoa ngâu vừa lịm cuối mùa

Nhẩn nha tiếng mõ bỏ bùa tiếng chuông.

(Gom nhặt cuối mùa)

 

 Bởi thế, thả[12] luôn ăm ắp những tươi non nguyên sơ của cuộc sống, sự giao hòa gắn kết giữa con người với trời đất - nơi cội nguồn thế giới. Không gian thơ Mai Văn Phấn cứ rộng mở và vẫy gọi một chốn linh thiêng, thiền định. Nó vừa là sự gắn kết đầy tính hiện sinh, vừa là sự hoài niệm về một chốn xưa. Nhưng điều kỳ lạ là những đối cực ấy mang đến một khoảng trời thanh tĩnh đầy chiêm nghiệm.

 Thiền trong thơ ông hướng người đọc cùng suy tư về trạng thái an yên, tĩnh lặng, buông xả mà vẫn nhập thế, vẫn thiết tha với cõi đời:

 

Từ hốc đen tra hạt

Đọt mầm bật dậy

Chim bay

 

Ngọn rễ non biết được

Đất ôm trời đã lâu

 

Căng tràn nhựa mật

Vỏ hạt vừa buông

Thả ngắt xanh về tít tắp

 

Ngày lên thăm thẳm

Lá mầm che mặt đất sum suê.

 (Tỉnh dậy trong mưa).

     

Ở thơ Mai Văn Phấn, đâu đâu cũng hữu duyên, cũng ràng buộc và cũng tạo nên một chỉnh thể. Tất thảy rồi đều tìm được sự hài hòa: Hạt mầm/ Tôi/ Chung giấc mơ tách vỏ (Nhờ trận mưa - 29). Từ những biểu đạt mang tính khái quát, giàu liên tưởng ấy, thơ Mai Văn Phấn dẫn lối về những suy tư: Khi mỗi chúng ta là chiếc lá/ Thì rừng hoang bỗng hóa nhà mình (Màu xanh). Cỏ cây, hoa lá, tiếng chim, gió trời, nước chảy, ban mai… đều mở ra thế giới của con người trần thế. Thậm chí là lời của một con côn trùng:

 

Gió ra đi

Giam tôi ở đây

Bằng chiếc lá

 

Nhìn khung cửa và chắn song

Tôi biết không thể bẻ gãy

Những đường gân lá

 

Chỉ mong những đốm vàng

Trên đó lan nhanh

Nhưng hơi ẩm đang phà hơi

Vào khoảng xanh diệp lục

 

Mình không manh động

Vào mùa xuân.

(Tĩnh lặng, 35)

 

Lời con côn trùng khiến ta bừng ngộ. Hóa ra, sức mạnh hay sự hủy diệt không nhất thiết phải ở những gì dữ dội. Và cách đối mặt là gì, là chờ đợi, là vô chiêu.

 

Từ bài thơ giành giải thưởng Hải Phòng năm 1991: Cơn sốt thiêu con trên giàn lửa/ Cha cũng có thể thành tro nữa/... Khi lớn bằng cha bây giờ/ Đáy chén chắc còn bão tố (Thuốc đắng) đến những câu thơ gửi gắm mơ ước, khát vọng cho con: “Cha muốn con thức dậy trước bình minh. Khi bàn chân đêm lướt qua dàn hoa leo trước cửa. Những bông hoa cuống quýt sắc màu, mở từng cánh khẽ khàng, khuôn mặt đêm dần sáng. Mặt trời còn run rẩy trong vạt áo nồng nàn của đất, sau những tấm rèm cửa, trong hốc cây hay trong tiếng nước xuýt xoa ong óng mặt ao nhà// Con là nơi dòng sông từ giã những ngôi sao, nơi con thú hoang gọi rừng thay lá, nơi khoảng trống hóa thành thời gian. Khoảnh khắc ấy là minh mẫn và ngái ngủ, là bột nhão sắp đông thành bánh, là những gì cha làm chưa kịp phía cha mơ...” (Lúc mặt trời mọc).

 

 Cũng vẫn trong mạch giàu suy tư triết lý ấy, thơ đề tài tình yêu của Mai Văn Phấn tạo nên một góc nhìn giao hòa giữa tình cảm đôi lứa với sự phì nhiêu của cuộc sinh tồn:

 

Anh mơ được em gieo trồng trên ngực

Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt

Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào

Anh cựa mình nồng nàn tơi xốp.

 

...

 

Từng giọt mát lành thấm vào trong đất

Tươi từ môi anh đến gót chân em

Anh ngỡ mình được phép lành thánh thể

Đêm vừa qua hay đã mấy nghìn năm.

(Bài ca buổi sớm).

 

Con người luôn được đặt ở vị thế sánh ngang vũ trụ. Sau tình yêu là những cuộc hoài thai vĩ đại:

 

Mặt đất vừa qua phút lâm bồn

Anh về hụt bước trước hoàng hôn

Chân trời phía ấy vừa se lại

Chiều rỗng mặc kim chỉ gió luồn

(Nghe tin em sinh con).

 

Với tinh thần ấy, điểm thú vị trong thơ Mai Văn Phấn còn ở việc dường như đề tài nào cũng ngầm ẩn một cuộc tái sinh: 

 

Mẫu nâng niu con ánh trăng

Tiếng chuyền cành, tiếng hú

Da thịt con yêu trải sâu đêm tối

Dựng tầng mây mưa nguồn

Con sơ sinh trên đất

Bơi qua sông con nòng nọc đứt đuôi

Tập vỗ cánh, quạt gió vào lòng tổ

Bật lá mầm bay đi thênh thang

(Cửa Mẫu).

 

Trong thế giới thơ giàu tính thiền, giàu yếu tố triết học, biểu tượng cỏ đóng vai trò quan trọng để giải mã. Cỏ xuất hiện dày đặc, xuyên suốt hành trình sáng tác, từ những bài thơ của giai đoạn đầu tiên: Thôi đừng dỗ cỏ lên trời/ Khi tan mộng mị biết ngồi với ai/ Dấu chân đừng hoá chông gai/ Nép vào bóng xế dũa mài hoàng hôn/ Ta về đổ bóng xuống vườn/ Cho xanh tươi lại từng cơn úa vàng/ Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non (Tản mạn về cỏ, tập Cầu nguyện ban mai, 1997) đến những lạ hóa của các chặng sau này. Nếu Vừa sinh ra ở đó là những xúc cảm đẹp, thanh thoát, buông lơi như đón đợi suy tư về cuộc sống, về tình yêu; không gian thơ tĩnh mà gợi nhiều chuyển động, vừa bình yên vừa rạng rỡ… thì Khai bút cùng cỏ cho thấy một thế giới bao la khoáng đạt mà đầy ma lực: Cỏ xanh lan vào chân sóng/ Nước rút xa dần/ Lại lên tiếng nói/ Non tơ... / Bàn chân em đặt lên/ Cho phân minh lời cỏ/ Anh lặng yên nghe ngực mình/ Rộng mở.../ Thành quả chuông run lên trong mưa/ Gặp đèn trời, khói bay, gió lạnh/ Hay vô ý chạm vào một lá cỏ/ Bất kỳ... Theo Đào Duy Hiệp, cỏ trong tác phẩm Mai Văn Phấn có chức năng: a, làm xúc tác cho mộng mị, mơ màng trong sáng tạo thơ; b, cái muôn đời, bất diệt, trong đó có vấn đề tính dục, tình yêu, sự sống; c, triết lý về con người, cuộc đời, cội rễ[13].

 

Nhưng những lớp nghĩa đó còn được rộng mở hơn ở những chặng sau. Những năm gần đây, trong thơ Mai Văn Phấn, cỏ vẫn là hiện thân của cây đời, của sự sống, nhưng đã trở thành một biểu tượng của sự sinh sôi, tô đậm tính chất “phồn sinh” với những “vũ điệu” tươi mới: Mặt cỏ phun nhuệ khí trùm lấp/ Phấn khích giờ tạo thiên lập địa/ Mùa mới đợi chờ cỏ xanh cắt sát gốc/ Những móng vuốt tì chân cỏ bật căng/ Cỏ non kinh động/ Càng chồi lên mở lại những chân trời (Hình Đám Cỏ - Nhịp IX); Đây trời cỏ/ Đại dương cỏ/ Phơi phới sông hồ (Hình Đám Cỏ - Nhịp IX). Bên cạnh đó, những biểu tượng song hành thường thấy với cỏ trong thơ ông là đất đai, ban mai cũng trong một trường nghĩa khi nói tới vòng quay tái sinh, trân quý thực tại: Ấy là dấu hiệu tái sinh/ Hay bắt đầu những điều trọng đại/ Chưa kịp xúc động/ Mới mơ hồ nhận ra/ Ban mai đã cuốn lấy ta những vòng tã lót (Khúc dạo đầu).

 

Cái đích của thơ Mai Văn Phấn không phải những câu thơ hay, bởi thế, dù đa dạng chủ đề nhưng dường như có những vùng mờ như chiến tranh, thời sự… thì hành trình thơ đồ sộ ấy lúc nào cũng sáng lên những vấn đề về nhân sinh, thế sự, tâm linh. Từ điểm nhìn của ký hiệu học, hệ thống về cỏ, về thiền… mang đến nhiều tầng nghĩa, nó tạo ra được một sự ôm trùm. Ví như Giai điệu xuân, tất cả như đang có một khởi đầu mới, một sự sống mới:

 

Hạt nắng chảy vào cơ thể em

Trong hơi ẩm nồng nàn

Mùa nước về rạng rỡ.

 

Đàn ong rạch đường bay

Gió lên thẳng đứng

Cây cao vươn bóng anh.

 

Con chim non ra ràng

Đàn côn trùng

Lũ nấm rơm mở mắt

Trùm lên non nớt xanh.

 

Định vị Mai Văn Phấn trong dòng chảy thơ Việt đương đại 

 

Hành trình thơ Mai Văn Phấn cho thấy được nhiều “kinh nghiệm thành công”, theo chúng tôi, có thể tóm lược ở hai đặc điểm, đó là sự chuyên nghiệp của một tài năng và thái độ không ngần ngại với những cách tân, thể nghiệm. Trong đặc điểm thứ hai, độc giả thấy một Mai Văn Phấn đa giọng điệu, nhiều biến ảo. Giai đoạn trước là lục bát, thì sau này thử thách quyết liệt với việc khước từ mọi vần điệu, chỉ còn tập trung vào những trạng thái, hoạt động để giễu nhại với một điển hình thú vị là "Chuyện còn dài": 

 

Tôi và con gián cùng hội thảo khoa học

cùng đeo khẩu trang, cùng ngắm hoa

Con gián và tôi từ giờ sòng phẳng

Nó chui ra. Tôi vô cảm

Nó gặm nhấm. Tôi ngập chìm

Nó leo tường. Tôi thù vặt

Nó bài tiết. Tôi ăn gian

Nó hôi xì. Tôi lì lợm

Nó dò xét. Tôi mở đường

Nó nghênh ngang. Tôi u muội.

 

Không chỉ là sự độc đáo về hình ảnh thơ: Con nhái bén/ Thè lưỡi/ Liếm trăng (Ngồi giữa lá sen) mà là một cuộc chơi siêu thực.  Ghi ở Vạn lý Trường Thành mang đến sự phi logic của thực tại:

 

Mây xếp lên vai từng tảng đá nặng

nhòe mắt cát

thở đầy ngực cát

 

Vạn lý Trường Thành còn xây dở?

Trên không tiếng hoạn quan truyền chỉ

Bắt được kẻ nào vừa vác đá vừa làm thơ

đánh hộc máu mồm

Khâm thử!

 

Ngước lên gặp một khuôn mặt bì bì

tay lạnh, mắt chì, giọng mỡ

Mái Phong hỏa đài màu huyết dụ

hình thanh long đao dính máu đang kề cổ

 

Còng lưng đẩy nắng đi

Chồn chân đẩy gió đi

Miễn sao gần được bông hoa

đang mởn mơ trong gió lớn.

 

Tâu Hoàng thượng/ thưa ngài/ báo cáo đồng chí....

Bỉ chức/ thảo dân/ em…

sẽ làm trọn bổn phận

  

Đây là đỉnh trời

hay đáy vực sâu

chỉ thấy trên lưng lằn roi bỏng rát

 

Mồ hôi du khách trên đá xám

nở thành hoa phù dung.

 

Bài thơ với sự “hỗn loạn” về ngôn ngữ (Tâu Hoàng thượng/ báo cáo đồng chí), về không - thời gian (Vạn lý Trường Thành còn xây dở, tiếng hoạn quan truyền chỉ/ Mồ hôi du khách trên đá xám), và một loạt những thi ảnh cho thấy một tổng thể nhiều lớp nghĩa được gợi ra: những con người khổ nhọc xây Vạn Lý Trường Thành, những tâm hồn thi sĩ mộng mơ, những khát vọng về cái đẹp, hay phải chăng là cả sự lụi tàn, vô thường của cõi thực… Còn có rất nhiều những ngầm ẩn phía sau một loạt hình ảnh được xếp cạnh nhau, qua đó là một thông điệp về cuộc sống: sự hư vô của kiếp người hay cái ảo ảnh của cuộc sinh tồn (Tuổi hão huyền trong nắng sớm/ Bóng mình che vạt cỏ non/ Ban trưa ngồi trong hư thực/ Bóng về dưới chân vo tròn/ Trăng rằm chẳng sáng được hơn/ Thân xác vẫn dừng bên cửa/ Bóng cứ muốn hòa với gió/ Mặc ảnh trên tường mốc meo - Bóng mình); sự nhiệm màu của tạo hóa (Bó gối những gốc cây/ Nhắm mắt ngọn gió đồi/ Hạt giống rơi trong bùn ngấu thảnh thơi/ Ngày mai mặt đất này/ Và thế giới sẽ đổi khác - Mùa trăng); sự sống và cái đẹp luôn bất diệt (Phía khác xù xì/ Nhựa hai bên cũng khác/ Trắng Và đen/ Nhắm mắt thở nhẹ/ Cây đang lớn/ Hai nửa cây cùng một màu hoa/ Nở chi chít dọc lưỡi rìu ánh sáng - Vừa sinh ra ở đó - 38)… Tất cả những điều ấy chỉ có thể được gọi tên ra từ những linh giác “đến trong ý nghĩ”:

 

Đôi mắt tấm liếp khoét thủng, cánh tay buồm chão, những bàn chân lá khô cong vênh lê trên mặt đất. Và miệng hắn, sâu hoắm, mở rộng, vỡ ra từng mảng để nung vôi.

Hắn thường đến với tôi trong ý nghĩ (…)

Tôi đi xe hết ga hết số. Răng nghiến chặt. Tay bóp cổ hắn. Kéo hắn lướt trên mặt đất. Những hàng cây, bức tường mới cũ, cùng những bóng người trôi vụt lại sau. Đích đến là buổi lấy phiếu tín nhiệm đề bạt, trả lời phỏng vấn, chuẩn bị phong bao một đám hiếu, cuộc gặp gỡ một nhân vật quan trọng... Hắn kéo căng mọi giác quan tôi, ninh nhừ ý nghĩ, đóng đinh dây thần kinh giữa hai đầu phố (…)

Tôi bị sụt cân, mất ngủ triền miên. Hắn đem đến mấy bài thuốc. Không bao giờ tôi sử dụng. Như, bất ngờ đập chết một con vật nuôi trong nhà lúc nó mải chơi với những con vật khác. Và đêm đêm lại chuyện trò với bộ lông ấy đã nhồi rơm. Hoặc, hối lộ nhân viên phòng mổ chui vào đội lốt. Lúc bác sỹ hô kéo thì đưa kim chỉ, hô Thuốc mê thì tiêm doping. 

 

Bài thơ Đến trong ý nghĩ là một sự làm mới hình thức văn xuôi dựa trên một cách tân sâu hơn của tan vỡ chủ thể. Ở đây, “hắn” như một sự phân thân của “tôi” trên hành trình tìm lẽ sống. Những mâu thuẫn chỉ khơi lên cái khát khao qua thử thách. Cuối cùng, “tôi” chiếm ưu thế và làm chủ cuộc chơi, đạt được những mong muốn. Sự phân thân này đồng nghĩa với sự tan vỡ chủ thể trữ tình, điều này sẽ quyết định trở lại việc nhận thức thực tại như là những sự đứt đoạn. Người đọc, người viết tự do tìm kiếm để mở rộng những đường biên sáng tạo.

 

Thơ Hải Phòng những năm đầu thế kỷ XXI có sự hiện diện của những “tượng đài thơ” như Đồng Đức Bốn, Mai Văn Phấn. Ở đó cũng minh chứng về một sự thành công đến từ việc đa sắc thái, và hiện tượng Mai Văn Phấn đem đến bài học thú vị cho hướng đi của thơ Việt khi muốn tiếp cận công chúng không chỉ bó hẹp ở phạm vi trong nước. Trong một phỏng vấn, khi nhà văn Kiều Bích Hậu đặt vấn đề rằng, “vì sao thơ văn Việt Nam không nghèo lắm mà trong mắt thế giới thì hạn hẹp”, ông góp một tiếng nói lý giải: “Phải thẳng thắn nhìn nhận rằng chúng ta chưa có một kế hoạch mang tính chiến lược cấp quốc gia cho vấn đề quảng bá văn học. Xin đưa ra con số thống kê để làm sáng tỏ vấn đề này. Theo TS. Nguyễn Thị Thu Vân (khoa ngôn ngữ và văn hóa Hàn Quốc), từ năm 2010 - 2019 có 86 tác phẩm văn học của Hàn Quốc được dịch và phát hành tại Việt Nam bằng các nguồn tài trợ từ phía bạn. Cũng trong thời gian đó, chỉ có hơn 10 tác phẩm của các nhà văn Việt Nam được dịch và ấn hành tại Hàn Quốc bằng uy tín cá nhân nhà văn, hoặc cũng từ nguồn vốn phía Hàn Quốc” và “mơ ước đến lúc nào đó bạn đọc phương Tây nhìn các nhà thơ Việt như chúng ta từng nhìn họ”[14].

 

Mai Văn Phấn từng bộc bạch: “Sau khi băng qua những “sa mạc” như Siêu thực, tượng trưng, thơ Ngôn ngữ, Tân hình thức, Hậu hiện đại, Tân cổ điển,… tôi thấy sao chúng ta không tự tìm lấy một khuynh hướng mà phải lệ thuộc vào thằng Tây? Khuynh hướng ấy bên ngoài họ đã xếp vào viện bảo tàng từ thế kỉ trước, trong khi chúng ta vẫn lúng túng tranh cãi… Vậy “thong dong” là cách tôi tìm về với cội nguồn thi ca, để cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn nhiên, tối giản, trong trẻo nhất”[15]. Bởi thế, hành trình sáng tạo không lặp lại mình vừa luôn thôi thúc vừa luôn đầy cẩn trọng để không rơi vào cái bẫy của đổi mới, cách tân. Nhờ đó, cái điềm tĩnh neo vào sự trinh nguyên bản thể nhất mang lại cho thơ ông sắc thái riêng biệt, góp phần định vị thơ ông trong nền thơ Việt đương đại như ông từng “tạ ơn”: "Bông hồng sớm nay mình anh thấy/ Tiếng chim hót tỉnh giấc/ Tạ ơn con đường dẫn anh đi/ Mây trên cao/ Lá cây rơi/ Cả những gì chưa hiện hữu (…) Xua đi cho lòng yên lặng/ Sao về được tâm không" ("Hình đám cỏ" - Nhịp I). Đó là một quá trình vận động có ý thức để làm mới quan niệm và sáng tạo thơ. Tuy hành trình còn dang dở, và dĩ nhiên là những thể nghiệm chưa thể đến hồi kết nhưng sự chủ động ấy đã góp phần tạo nên một hiện tượng độc sáng trong diện mạo thơ Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI.

 

Đ.T.T.H

 

 

______________

[1] Tiến sĩ Đỗ Thị Thu Huyền, sinh năm 1983. Hiện công tác tại Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương.

[2] Báo Phụ nữ TP. Hồ Chí Minh (2018), “Mai Văn Phấn – phong cách thơ đậm căn tính Việt”, http://www.phunuonline.com.vn/mai-van-phan-phong-cach-tho-dam-can-tinh-viet-a118574.html, đăng tải ngày 24/6, truy cập ngày 20/4/2022.

[3] Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Kỷ yếu Hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.528.

[4] Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Sđd, tr.420.

[5] Bình Nguyên Trang (2020), “Xuất khẩu văn hóa: nhìn từ hiện tượng Mai Văn Phấn”, http://doanhnghiephoinhap.vn/xuat-khau-van-hoa-nhin-tu-hien-tuong-mai-van-phan.html#:~:text=Cho%20đến%20nay%2C%20tác, đăng tải ngày 12/10, truy cập ngày 20/4/2022.

[6] Thực tế, hiện thơ ông đã được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ khác nhau. Bình Nguyên Trang (2020), “Xuất khẩu văn hóa: nhìn từ hiện tượng Mai Văn Phấn”, http://doanhnghiephoinhap.vn/xuat-khau-van-hoa-nhin-tu-hien-tuong-mai-van-phan.html#:~:text=Cho%20đến%20nay%2C%20tác, đăng tải ngày 12/10, truy cập ngày 20/4/2022.

[7] Theo Cao Năm, “Nhà thơ Mai Văn Phấn: hiện thân của sự sáng tạo”, in trong: Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Kỷ yếu Hội thảo thơ tại Hải Phòng, 15/5/2011, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.

[8] Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Sđd, tr.539.

[9] Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Sđd, tr.37.

[10] Nguyễn Đức Tùng, Thơ đến từ đâu, Nxb. Lao động, 2009, tr.220.

[11] Báo Phụ nữ TP. Hồ Chí Minh (2018), “Mai Văn Phấn – phong cách thơ đậm căn tính Việt”, http://www.phunuonline.com.vn/mai-van-phan-phong-cach-tho-dam-can-tinh-viet-a118574.html, đăng tải ngày 24/6, truy cập ngày 20/4/2022.

[12] Tác giả không viết hoa nhan đề 3 tập thơ: "và đột nhiên gió thổi", "hoa giấu mặt", "thả".

[13] Đình Kính (tuyển chọn, 2011), Thơ Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn, khác biệt và thành công, Sđd, tr.66.

[14] Kiều Bích Hậu (2020), “Mai Văn Phấn – nhìn đời bằng đôi mắt trẻ thơ”, Báo Tuổi trẻ, số 21/2020 (9630), thứ Sáu, ngày 31/1.

[15] Mai Văn Phấn (2011), Thơ tuyển Mai Văn Phấn cùng tiểu luận và trả lời phỏng vấn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.451.

 

 

 

 

 

 

BÀI KHÁC
1 2 3 4 

image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement




























Thiết kế bởi VNPT | Quản trị