Sound in Mai Văn Phấn's “hidden face flower” - Âm thanh trong "hoa giấu mặt" của Mai Văn Phấn (essay - tiểu luận) - Ramesh Chandra Mukhopadhyaya, translated by Pham Van Binh
Sound in Mai Văn Phấn's “hidden face flower"
Thủ bút của Tiến sỹ Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
By Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
(From Calcutta, India)
Mai Văn Phấn is a poet of the ear. He has an
uncanny ear for sound. And he makes strange and beautiful sense from the
earmind.
He can not see a flock of birds. But he can
hear them gathering and flap their wings. It is twilight. The flapping of the
birds only underlines the engulfing silence and reminds the poet and the
readers that it is the hour when one could withdraw from the world without and
plunge oneself into prayers and meditation and adventures within. Is it not a
call for soul searching?
When there is the recitation of Buddhist
scriptures a centipede slips away into the inner world. In the gong of a bell the poet hears the groans
of humanity. The river alight in the
moon gives the sound of sedge mat being woven. Sedge mat weaving is one of the
major occupations of the villages of Vietnam. The poet hears the music of
cottage industry in Nature.
A rustling sound at the door sill during the
final night of the year. Does it not announce
to ring out the old and ring in the new? And the fragrance of
flowers sings. A singing voice of
treepie comes from each raceme of a
flower. The Chri stmas flower - an ivy
or a mistletoe - splashes. But angst
lurks in human hearts. Hence the poet fears that someone who is not friendly
might ring the bell. The eerie absence of the sound of a bell might be as real
as the presence of its sound.
The poet breathes silently to hear a colony
of bats flying through a cage of light. Here the juxtaposition of hushed
breathing with the loud bats focuses on
how the poet controls his breath to listen to over mind rhythm. The poet
silently trots grazing step by step stooping on a book. The silence without
makes the dialogue within loud. Reading a book implies loud conversation with
the author within the heart of the reader although it cannot be heard by any
third person. The poet walks on tiptoes lest the colloquy of the sparrows is
disturbed. Just as the new born are greeted with songs and prayers and incense
offered to gods so do the twitter of birds
and fragrance greet the fresh leaves to come In other words Nature turns
into a temple in this imagery.
The sound of a b ird dropping on the water
surface only suggests how the sky meets the water. A lot of talking in a narrow
house silences the poets mind and he espies a mantis. A waterfall the sound of a gibbon and an insect create a
symphony that never ends. Because it recurs in the poets memory. This is an
instance of vipaka in Buddhist psychology. The sound of silence is pronounced
in the moon over the raging storm. In the silence of the dying night the sound
of weevils eating wood only tells us that slight thoughts of kindness and love
or of hatred and jealousy act untiringly to pull down whatever is apparently
firm in us.
While the river silently washes its face the
herons and the bitterns make booming sound. That is the call to mate. The river
at once turns into a maid facelifting. Her lovers are getting rest less. An
wooden fish makes sounds. It stands for the illusory world and its loud sound signifies nothing. But
although the heron is the role model of a meditator the heron fumbles at it.
This is because Lord Buddha never ignored the groans of the existence even
though he knew that they have no essence. Then there is a raspy and gravelly
sound of a bird. It signifies danger. Any forecast of danger is like a light
that shows the path in the encircling gloom. In short with the poet the
harshness of life shows the way out from the mesh that is life.
Thus the charmed world of Mai Văn Phấn's
poetry is loud with plethora of sounds ranging from the boom of the herons to
the droning sound of a bluebottle and to feeble whispers and silence. There are
cries of distress. There are calls to meditate. It is a world where fragrance is heard. The water
boils. It gives alarm. The pot consequently tinkles. The pots lid therefore
cries. The three sounds brought together as it were to communicate the feeling
of a person who is getting transformed. His outer shell which is the body
however puts up a resistance to his aspirations...
The poet observes that wounded animals give
out cries. But that helps the hunters to detect them and kill them. Poetry here
is in pity. The poet is all ears on a water surface in the neighbourhood of the
realm of fishes. We eavesdrop with the poet the story of a fish. The large
marsh bird of the heron family bittern gives an unwelcome harsh call. It is a
solitary bird thrice mentioned in the Bible. Out of them it is twice mentioned
in Isiah. May be the b ittern foretells the destruction of the Babylons and Ninevehs of today. But the civilization
is as deaf as a scare crow. It does not hear what the bittern says. The
civilization of today is as helpless as a scarecrow. We must not be dismayed by
its appearance.
Translated by Phạm Văn Bình
Bản dịch của Phạm Văn Bình
Tiến sỹ Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
Âm thanh trong "hoa giấu mặt" của Mai Văn Phấn
Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(Từ
Calcutta, Ấn Độ)
Mai Văn Phấn là nhà thơ của thính giác. Nhà thơ có một thính lực
huyền bí đối với âm thanh. Và nhà thơ tạo ra một tri giác kì lạ, đẹp đẽ từ khả
năng thấu thính này.
Nhà thơ không nhìn thấy đàn chim. Nhưng nhà thơ nghe thấy chúng
quần tụ và vỗ cánh. Đó là vào lúc trời chạng vạng. Tiếng vỗ cánh của đàn chim
chỉ làm tăng thêm sự tĩnh lặng ẩn chìm, nhắc nhở nhà thơ và người đọc rằng đó
là giờ phút con người rời khỏi thế giới bên ngoài mà đắm mình vào những lời cầu
nguyện, trạng thái thiền định và những cuộc phiêu lưu trong thế giới nội tâm. Nó
chẳng phải là âm thanh chiêu gọi hồn người đó sao?
Khi tiếng tụng kinh niệm Phật vang lên, có một loài rắn rết chui
luồn vào thế giới nội tâm con người ta. Trong tiếng chuông chùa buông xuống,
nhà thơ nghe thấy cả tiếng rỉ rên của nhân thế. Dòng sông ngời sáng dưới ánh
trăng ngân lên âm thanh của một tấm chiếu cói đang được dệt. Công việc dệt
chiếu là một trong những ngành nghề chính của các làng xóm ở Việt Nam. Nhà thơ
nghe thấy được tiếng nhạc ở nơi làng nghề trong cõi Thiên nhiên.
Một âm thanh xạc xào nơi ngưỡng cửa trong đêm giao thừa của một
năm. Chẳng phải nó ngân lên lời tiễn đưa năm cũ và đón chào năm mới đó sao? Hương
thơm của những bông hoa cũng ngân lên tiếng hát. Giọng hót của con chim khách
vang lên từ mỗi bông trên một cành hoa. Hoa Trạng nguyên – một loài hoa tầm gửi
– đang bừng nở. Nhưng cảm giác lo lắng ẩn sâu trong trái tim con người. Vì vậy,
nhà thơ sợ rằng một kẻ bất hảo nào đó có thể thỉnh chiếc chuông kia. Sự thiếu
vắng kì quái của âm thanh từ chiếc chuông kia giống như thực thể không khác gì
sự hiển lộ âm thanh của nó.
Nhà thơ lặng lẽ điều tức để nghe được âm thanh của đàn dơi bay qua
một chiếc lồng ánh sáng. Ở đây, hơi thở khẽ khàng được đặt bên cạnh tiếng động
lớn của đàn dơi nhấn mạnh vào cách điều tức của nhà thơ để nghe được âm giai vượt
lên trên thức hải. Nhà thơ lặng lẽ đi từng bước cúi đầu đọc một cuốn sách. Sự
tĩnh lặng bên ngoài tạo ra một cuộc đối thoại ở bên trong tâm thức. Việc đọc
một cuốn sách mang hàm ý một cuộc trò chuyện bằng âm thanh với tác giả ở bên
trong trái tim người đọc mặc dù nó không thể nghe được bởi một người thứ ba.
Nhà thơ đi rón rén vì sợ làm phiền đến bầy chim sẻ đang ríu rít chuyện trò. Chỉ
những người vừa được đản sinh mới được đón chào bằng những tiếng hát và những lời
cầu nguyện còn hương trầm thì được dâng lên các đấng thần linh và tiếng ríu rít
của đàn chim cùng hương hoa cũng chào đón những chiếc lá non vừa hé mở. Nói theo
một cách khác, trong thi ảnh này, Thiên nhiên đã trở thành một thánh đường.
Âm thanh của một con chim rơi xuống mặt nước chỉ gợi lên cái cách
thức mà theo đó trời nước giao hòa. Vô số những lời trò chuyện trong một ngôi
nhà hẹp làm cho thức hải của nhà thơ trở nên tĩnh lặng khiến cho nhà thơ nhận
biết được một chú ngựa trời. Âm thanh của một thác nước, của một con vượn hú và
của lũ côn trùng tạo nên một bản nhạc vĩnh hằng. Bởi vì nó hồi qui trong kí ức
của nhà thơ. Đây là một trường hợp vipaka
trong tâm linh nhà Phật. Âm thanh của sự tĩnh lặng được phát ra từ trong vầng
trăng đang ngự trị ở phía trên một cơn bão lớn. Trong sự tĩnh lặng của đêm đen
đang tàn lụi, âm thanh của những con mọt nghiến gỗ chỉ nói với chúng ta rằng
những tư tưởng khoáng đạt về lòng tốt và tình yêu hay lòng hận thù cùng với sự
ghen tuông đang hành động không biết mệt mỏi để đánh sập tất cả những gì mà vẻ
bề ngoài tỏ ra bền vững trong bản tâm chúng ta.
Trong khi dòng sông lặng thầm gội rửa khuôn mặt của mình thì những
con cò, con vạc cất lên những tiếng kêu trầm trầm. Đó là tiếng gọi bạn tình.
Dòng sông ngay lập tức hóa thành một cô gái đẹp. Những tình lang của nàng đang xao
xuyến bồn chồn. Một chiếc mõ điểm những âm thanh cốc cốc. Nó đại diện cho thế
giới tưởng tượng và âm thanh đang ngân vang của nó không biểu thị cho điều gì
cả. Nhưng mặc dù là mẫu hình đóng vai trò một vị thiền giả, con cò vẫn đang mò
mẫm trong thế giới hư ảo đó. Đó là vì Đức Phật không bao giờ quên tiếng thở
than của kiếp nhân sinh mặc dù Ngài biết rằng chúng không hàm chứa điều cốt
lõi. Thế rồi vang lên âm thanh gay gắt và sắc nhọn của một con chim. Nó báo
hiệu một điều nguy hiểm. Bất kì sự dự báo về mối nguy hiểm nào cũng giống như
ánh sáng chỉ ra đường đi trong sự bủa vây của bóng tối. Nói tóm lại, với nhà
thơ, hiện thực xù xì của cuộc sống chỉ ra con đường giải thoát khỏi mê võng của
cõi nhân sinh.
Vì vậy thế giới bị trớ chú trong thơ Mai Văn Phấn cất lên những âm
thanh từ tiếng trầm vang của loài cò vạc đến tiếng vo ve của một con ruồi rồi
đến tiếng thì thào yếu ớt và cuối cùng là sự tĩnh lặng. Có những tiếng kêu than
mang đầy nỗi buồn đau. Có những tiếng gọi mời đưa người ta vào tâm thái thiền
định. Đó là một thế giới mà hương thơm cũng được nghe thấy. Nước sôi. Nó mang
đến một sự cảnh báo. Vì vậy, chiếc ấm lanh canh kêu. Chiếc vung cũng cất lên tiếng
kêu của mình. Ba âm thanh cùng nhau ngân lên như thể liên hệ với linh cảm của
một con người đang trong quá trình biến đổi. Cái vỏ ngoài của con người đó mặc
dù chỉ là thể xác nhưng cũng tạo ra sự kháng cự đối với những khát vọng của bản
thân con người đó.
Nhà thơ nhận thấy rằng những con vật mang thương tích trên thân
thể sẽ kêu lên những tiếng đau thương. Nhưng điều đó chỉ giúp ích cho những kẻ
đi săn phát hiện ra và liệp sát chúng mà thôi. Thơ ca ở đây mang lòng trắc ẩn.
Nhà thơ lắng tai về phía mặt nước kề cận với vương quốc của các loài cá. Chúng
ta cùng với nhà thơ đang nghe lén câu chuyện của một chú cá. Con chim đầm lầy
lớn trong tộc đàn loài cò diệc là con vạc cất lên tiếng kêu khàn khàn của một
vị khách không mời mà đến. Đó là một loài chim cô lẻ được nhắc đến ba lần trong
Kinh thánh. Trong đó có đến hai lần nói về Isiah. Có thể loài vạc đã tiên tri
được sự hủy diệt của các thành bang Babylons và Ninevehs của ngày hôm nay. Nhưng
nền văn minh của con người vẫn mắt nhắm tai ngơ như một con quạ bị hoảng loạn. Nó
không nghe thấy những gì mà con vạc đang thông báo. Nền văn minh của ngày hôm
nay bất lực như là con quạ bị hoảng loạn kia rồi. Chúng ta không được phép đánh
mất đi dũng khí của mình bởi sự xuất hiện của nó.
Tranh cổ Ấn Độ