"Nhật ký đô thị hóa": Tượng trưng hóa bằng hệ thống biểu tượng (trích chuyên luận) - Nguyễn Thanh Tâm
Nguyễn Thanh Tâm
"Nhật
ký đô thị hóa": Tượng trưng hóa bằng hệ thống biểu tượng

Gửi các cháu học sinh THPT,
Vừa qua, một số cháu học sinh THPT có viết thư hỏi tôi về
bài thơ "Nhật ký đô thị hóa" của tôi (in trong sách Ngữ văn lớp 9,
tập 2 - Bộ sách "Cánh diều"). Để các cháu có thêm nguồn tư liệu tham
khảo, tôi trích đăng một phần bài viết "Sắc thái tượng trưng trong thơ
Việt Nam sau 1975", in trong cuốn sách "Thơ Việt Nam sau 1975: Diện
mạo & Bản sắc" của nhà phê bình văn học, TS. Nguyễn Thanh Tâm (NXB Văn
học, 2024). Phần bài viết này tập trung phân tích sâu sắc tượng trưng hóa bằng
hệ thống biểu tượng và bàn sâu về bài thơ "Nhật ký đô thị hóa".
Theo tác giả Nguyễn Thanh Tâm, viết trên Facebook: "Thơ Việt Nam sau 1975: Diện mạo & Bản sắc", với hi vọng cuốn sách sẽ thực sự có ích cho việc đọc và tìm hiểu những vấn đề-tác giả quan trọng của thơ Việt Nam đương đại. Không chỉ là tri thức có tính văn học sử hay những mô tả diện mạo chủ đạo, khắc hoạ bản sắc nổi bật, cuốn sách còn định hình một hệ thống phương pháp, kỹ năng tiếp cận tác giả, tác phẩm thơ, nhất là khi phải đối diện với các văn bản mới và khó, các hiện tượng phức tạp, mang nhiều thách thức đối với việc đọc - học - giảng dạy - nghiên cứu thơ ca đương đại. Rõ ràng, chúng ta không thể cứ bị động chạy theo từng tác phẩm, tác giả, vấn đề, với sự mông lung vô định, điều quan trọng là phải có công cụ, phương pháp, kỹ năng, phải biết cách để chủ động giao tiếp với 1 thi phẩm, thi sĩ, hiện tượng hay cả một giai đoạn - chặng đường thơ ca. Xét ra, đó cũng là 1 trong những mục tiêu - ý nghĩa của việc thay đổi chương trình dạy - học - thi môn Ngữ văn ở bậc phổ thông, và rộng hơn là việc đọc - thưởng thức, tìm hiểu thơ ca VN đương đại".
Các cháu học sinh có thể liên hệ trực tiếp với TS. Nguyễn
Thanh Tâm để tham khảo cuốn sách này!
Chúc các cháu học giỏi, thành công!
Mai Văn Phấn
2. Tượng trưng hóa bằng hệ thống biểu
tượng
Ý
thức sử dụng biểu tượng cho thấy trình độ, năng lực tư duy, sự chuyên nghiệp
của người làm thơ. Bởi lẽ, tượng trưng là một phẩm chất có tính đặc thù của
nghệ thuật nói chung, đặc biệt là thơ trữ tình. Mặt khác, tượng trưng bằng con
đường sử dụng biểu tượng chính là một năng lực bậc cao trong tư duy sáng tạo
thơ, vượt lên lối tư duy trực quan bằng hình ảnh phản ánh. Biểu tượng có thể
hiểu là những hình tượng mang tính tượng trưng, có dồi dào nghĩa hơn những trực
nhận từ hình thức tồn tại cảm quan. Tuy vậy, trước hết, trong cấu trúc của tư
duy, biểu tượng là một dạng ký hiệu mà nghĩa của nó được đúc kết có giá trị bền
vững trong cộng đồng (ai nhìn thấy biểu tượng ấy, cũng hiểu nghĩa ấy). Mặt
khác, khi biểu tượng lưu hoạt trong các không-thời gian khác nhau, những cá
nhân khác nhau, nó có thể tiếp nạp thêm các sắc thái mới (tính linh hoạt của
biểu tượng). Và, dĩ nhiên, với thơ, trong thế giới nghệ thuật của một thi sĩ,
biểu tượng có thể là sáng tạo riêng, cô đọng những sắc diện mang cá tính, tinh
thần - tư tưởng của chủ thể sáng tạo.
Trong
thơ Việt Nam đương đại, biểu tượng vừa là con đường của sáng tạo đồng thời là
một dấu hiệu cho thấy sự trưởng thành trong tư duy nghệ thuật. Biểu tượng mở
rộng các lớp nghĩa, làm sâu sắc nhận thức và cảm xúc, mở rộng trường thẩm mĩ,
tri thức và văn hóa. Tư duy bằng biểu tượng nằm ở cấp độ cao hơn so với tư duy
hình ảnh và hình tượng. Chính sự phát huy tác dụng của biểu tượng trong sáng
tạo nghệ thuật đã khắc phục tình trạng mô tả trực quan, đơn nhất, theo mô hình phản
ánh luận, hướng đến sự “âm u và sâu xa” như là phẩm tính của nghệ thuật, đẩy
thơ trữ tình về phía hiện đại.
Đặc
trưng của ngôn ngữ thơ là tính đa nghĩa, hàm súc. Điều này được phát huy tác dụng
rất nhiều từ việc sử dụng biểu tượng, Tuy nhiên, để có thể sử dụng biểu tượng,
rất cần người viết phải có một tư duy phức hợp, đa nhiệm:
Úp mặt vào bóng tối lùm
cây
Gió đang chạy trên lưng
mình những bước chân đô thị
Bóng tối dẫn tôi về ngôi
nhà của mẹ
Ngôi nhà như chiếc bánh
không nhân.
Nhặt được đồng xu cùn gỉ
cuối sân
Ngỡ chạm phải tay mình
ngày thơ ấu
Những dấu chân ai lún sâu
lỗ đáo
Từng kiếp người mở mắt...
thấy đôi chân cò lội nước trắng mênh mông.
Nơi chó đá đầu làng vẫn
sủa những con trăng
Có tiếng gọi nghe buồn như
củi ướt
Thương quê nghèo mẹ tôi ra
bến sông
Vớt những câu ca chưa tan
vào nước.
Mẹ ơi mẹ! Giờ con thấy
bóng râm từ bùn đất
Đất ở dưới chân mà cao hơn
những suy nghĩ của mình
Đêm thai nghén những thị
thành trứng nước
Ai ấy còn ngơ ngác trước
văn minh.
Trong bóng tối lùm cây tôi
chợt nhận ra mình
Với nỗi e dè từ cái
thời Văn Lang lúa nước
Nỗi e dè tự thắp mình
thành ngọn nến mùa thu đi rước đuốc
Và ngôi nhà của mẹ là
chiếc đèn lồng lặng lẽ sáng dần lên.
("Nhật
ký đô thị hóa" - Mai Văn Phấn)
Xúc
cảm gợi lên hình ảnh cái tôi mang tâm trạng của kẻ tha hương hoài nhớ, ăn năn.
Một liên tưởng mang dấu ấn siêu thực. Gió thổi trên lưng hay chính là những dấu
vết của thị thành, không gian thị thành vây bọc xung quanh cái tôi trữ tình.
Bóng tối như một niềm ăn năn sâu kín. Ký ức trở về với căn nhà của mẹ. Chiếc
bánh không nhân như một nỗi niềm chông chênh, nhạt nhòa. Ngôi nhà của mẹ, của
ký ức, của những mong nhớ, nuối tiếc, có lẽ giờ đây cũng như chiếc bánh không
nhân trong hương vị thị thành. Nhận ra điều đó khiến cho tâm trạng của cái tôi
trữ tình càng day dứt. Trong liên tưởng của sự đọc, một dư vị của Exenin hiện
về từ Thư gửi mẹ. Mĩ cảm trở về với không gian của ký ức. Những trò chơi
thơ trẻ tội nghiệp và kiếp người nhỏ nhoi, trôi nổi, lặn lội ngay từ khi mở mắt
sinh ra. Trong không gian của làng quê nghèo khó, tù đọng, tiếng người, tiếng
gọi, có thể là cả tiếng của sự sống cũng buồn như củi ướt. Liên tưởng thẩm mĩ
này hình thành từ vốn sống của một kẻ đi ra từ làng, từ ký ức nông thôn và
những nhen nhóm buồn bã. Đã xảy ra nơi quê nghèo những thiên di phụ bạc. Có lẽ
thế. Tiếng gọi nào kia chẳng đủ giữ chân người vội vã lìa xa. Chỉ còn mẹ tôi,
nhẫn nại vớt từ bến sông những điều gì chưa thể mất đi, chưa thể tan ra và trôi
chảy. Cứ lầm lụi, mẹ tin vào ngày trở lại của những giọt nước rời nguồn, tin
vào bước chân trở về của đứa con tha hương. Bài thơ này chứa đựng những ý tứ
khá phổ quát trong thơ Mai Văn Phấn. Đứa con của làng quê ngày nào dứt bỏ ra đi
giờ đây nhận ra sự chở che của đất, sự cao cả của đất, sự mong manh, phù phiếm
của thị thành. Có lẽ, đứa con ấy vẫn chưa nguôi những ký ức về làng; vẫn chưa
quen với nền văn minh đô thị. Ngơ ngác, ăn năn, đứa con muốn trở về. Mĩ cảm
thống nhất đến phần thơ cuối cùng. Trong bóng tối ăn năn, cái tôi nhận ra mình,
nhận ra bản mệnh một đứa con của làng, của nền văn minh lúa nước, của đất đai
bao dung và nhẫn nại: Nỗi e dè có lẽ là cách diễn đạt về đặc tính tinh thần của
con người nông nghiệp, con người Việt Nam (Văn Lang) từ truyền thống. E dè, ưa
tĩnh lặng, trọng âm, duy tình, duy linh,... con người ấy tự thắp mình lên bằng
nguồn sống nội tại, nguyên thủy. Ngôi nhà của mẹ lúc này trở thành một biểu
tượng của sức sống, tinh thần, bản sắc và ý chí con người, cư dân nông nghiệp.
Trong bài thơ này, không chỉ ngôi nhà của mẹ là biểu tượng, người đọc còn có
thể nhận ra những biểu tượng khác vốn khá phổ biến trong thi giới Mai Văn Phấn:
đất đai, thị thành, dòng sông...
Tư
duy đa nhiệm, phức hợp, với sự chuyển kênh mau lẹ và sự nối kết các khả năng
của trí tưởng, sự vật, thế giới, cảm xúc,... khiến cho biểu tượng càng giàu sức
sống. Biểu tượng vừa phát huy tất cả các lớp nghĩa đã trầm tích trong ký ức
cộng đồng, đồng thời lại có cơ hội gia tăng các nghĩa mới từ chính năng lực
tưởng tượng và cá tính sáng tạo của nhà thơ. IU. Lotman cho rằng: “bản chất của
biểu tượng được xem xét theo quan điểm này mang tính hai mặt. Một mặt xuyên qua
bề dày của văn hóa, biểu tượng được thực hiện trong bản chất bất biến của nó.
Về mặt này ta có thể quan sát thấy tính lặp lại của nó. Biểu tượng sẽ xuất hiện
như một cái gì không đồng nhất so với cái không gian văn bản bao quanh nó, như
sứ giả của các thời đại văn hóa khác (= các nền văn hóa khác), như sự nhớ về
những cơ sở văn hóa cổ xưa (= vĩnh hằng). Mặt khác, biểu tượng tự điều chỉnh
một cách tích cực trong các ngữ cảnh văn hóa, tự biến đổi dưới ảnh hưởng của nó
và cũng làm nó thay đổi*”.
(Rút từ cuốn sách "Thơ Việt Nam sau 1975: Diện mạo & Bản sắc", tr. 1967 đến 1970)
________________
* IU. Lotman, “Biểu tượng trong hệ thống văn hóa", Trần Đình Sử dịch, http://tapchisonghuong.com.vn, 24/12/2012
