Giữ lửa truyền thống trong ánh sáng đức tin (phê bình) - Mai Văn Phấn
Giữ lửa truyền thống trong
ánh sáng đức tin

Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế
Mai Văn Phấn
Cầm
trên tay tập tùy bút "Xuân
thì trong chén đắng" (Nxb. Hội Nhà văn, 2024) của
Nguyễn Tham Thiện Kế, tôi cảm nhận được nhịp đập của đời sống đương đại trong
ký ức văn hóa dân tộc. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh gia đình Công giáo
Việt Nam, những người luôn kiên tâm gìn giữ truyền thống ông cha dưới ánh sáng
đức tin, để mỗi phong tục, mỗi nếp sống không chỉ là dấu ấn văn hóa mà còn trở
thành lời chứng sống động cho Tin Mừng. Với lối viết giàu chất thơ, kết hợp
nhuần nhị giữa bút pháp trữ tình và tinh thần chiêm niệm, tác phẩm mở ra một
không gian giao thoa thấm đẫm ân sủng, nơi truyền thống và đức tin nâng đỡ
nhau, cùng soi rọi ý nghĩa sâu xa của kiếp nhân sinh.
Qua
những tùy bút của Nguyễn Tham Thiện Kế, ta thấy văn hóa dân tộc và đức tin
Thiên Chúa không hề đối lập mà hòa hợp một cách uyển chuyển: trong ánh sáng Tin
Mừng, những giá trị truyền thống càng được thăng hoa, phản chiếu vẻ đẹp bền
vững của lòng hiếu thảo, sự yêu thương và đức khiêm nhường. Nhà văn thể hiện sự
hòa quyện tinh tế giữa đời sống đạo và bản sắc văn hóa Việt Nam, từ các nghi lễ
quan trọng như Tết Nguyên Đán, lễ Phục Sinh, Bí tích Hôn phối trong giáo đường cho
đến những nếp sinh hoạt bình dị của một gia đình Công giáo. Tác phẩm này là lời
tri ân dành cho cội nguồn, là sự xác tín vào tình yêu Thiên Chúa – Đấng soi dẫn
và gìn giữ đoàn dân Người trong mọi nẻo đường dương thế.
Bàn
về đời sống của người Công giáo Việt Nam, có thể nói gia đình là tổ ấm mà cũng
là một "hội thánh thu nhỏ", nơi mỗi thành viên được nuôi dưỡng trong
đức tin và tình yêu thương. Điều này thể hiện rõ qua việc kết hợp bàn thờ Chúa
với bàn thờ tổ tiên trong gia đình Công giáo. Hình ảnh ấy phản ánh lòng hiếu
kính đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ – một giá trị cốt lõi trong văn hóa dân
tộc, đồng thời thể hiện sự tín thác vào Thiên Chúa, Đấng cội nguồn của mọi sự
sống. Nếu như trong nhiều gia đình truyền thống Việt Nam, bàn thờ tổ tiên được
đặt ở vị trí trang trọng nhất thì trong các gia đình Công giáo, bàn thờ Chúa
đặt nơi chính giữa, kế bên là bàn thờ tổ tiên. Đây là sự khác biệt lớn với các
nước châu Âu, nơi khởi nguồn Công giáo và là nơi không có phong tục thờ cúng tổ
tiên, nó cho thấy sự hòa nhập uyển chuyển của Công giáo với thuần phong mĩ tục
của ta, vì Chúa dạy rằng: "Hãy tôn kính cha mẹ con như tôn kính Chúa là
Thiên Chúa của con đã truyền cho con, để ngày đời con được kéo dài và con được
hạnh phúc trong xứ sở Chúa là Thiên Chúa ban cho con" (Sách Đệ Nhị
Luật, chương 5, câu 16, Cựu Ước).
Tùy
bút “Nghe trong chiều Ba Mươi" của Nguyễn Tham Thiện Kế là một thí dụ rất
hay về sự hòa nhập đó: bằng trí nhớ tỉ mỉ đến kinh ngạc và giọng kể nhấn nhả
rất sinh động, tác giả dẫn ta vào miền ký ức về cái Tết truyền thống trong gia
đình Công giáo của chính tác giả, cái cách một gia đình Công giáo tiếp nhận và
duy trì những giá trị truyền thống của dân tộc: "Nhà Tôi theo đạo Chúa,
nhưng gia luật định lễ cúng Gia Tiên chiều Ba mươi thì mọi người phải hội đủ
cùng nhau làm bữa cỗ thiêng liêng nhất một năm. Bởi nó kết tụ li ti những vui
buồn của thầy mẹ và các chị em tôi suốt 365 ngày. Nó dừng lại những rủi ro và
nhen kết cho hy vọng mới. Nếp tục từ thuở Hùng Vương theo chân thầy mẹ từ làng
Hoàng đồng bãi lên vùng núi khẩn hoang như một hành trang tinh thần hợp dung
với đạo Chúa." (tr. 374). Quan niệm của mẹ ông "Thờ kính Chúa
mà không giữ lễ với Tổ Tiên thì cũng bằng nước lã ra sông" (tr. 374)
là một triết lý sống dung hòa, tôn trọng cả hai niềm tin. Từ hình ảnh bàn thờ
tổ tiên đặt bên dưới tượng Chúa và Đức Mẹ Maria, đến những nghi thức chuẩn bị
bữa cỗ Tất niên, có thể thấy tinh thần đạo Chúa được tiếp nhận trong văn hóa
dân tộc. Đây cũng là minh chứng cho quan niệm của người Công giáo Việt Nam: tôn
thờ Thiên Chúa không đồng nghĩa với việc quên đi cội nguồn, tổ tiên. Khoảnh
khắc cả gia đình cùng đọc lời tạ ơn trước bữa ăn vừa thể hiện lòng thành kính
với Đấng-Hằng-Sống vừa giữ trọn đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Ngày
lễ lớn nhất trong năm của người Việt là tết Nguyên đán đã mang thêm ý nghĩa
không kém phần quan trọng trong đời sống đức tin. Tết vừa là dịp đoàn viên vừa
là thời điểm để con người nhìn lại một năm đã qua, tạ ơn Chúa và cầu xin phúc
lành cho năm mới. Hình ảnh người mẹ cẩn thận gói từng chiếc bánh chuẩn bị tươm
tất cho ngày Tết trong tùy bút "Mẹ ơi, gói chiếc nữa bánh chưng" in
đậm phong cách đón Tết của người Việt trong một gia đình Công giáo. "Bánh
chưng làm dấu kết vui buồn một năm mỗi phận người mỗi đận nhà. Gói bánh chưng,
nấu bánh chưng, mời bánh chưng, biếu bánh chưng, sêu Tết bánh chưng ông bà ông
vải... ơn cha Trời, mẹ Đất." (tr. 33). Điểm đặc biệt của vùng bên kia
sông Đà họ hàng nhà mẹ tác giả là việc luộc bánh chưng bằng nước mưa tinh
khiết. Đây không chỉ là một nét đẹp trong việc trân trọng những gì Chúa ban qua
thiên nhiên mà còn mang ý nghĩa thiêng liêng. “Mấy thôi mưa, mặt chum phẳng căng thứ nước u huyền, hút cái nhìn tưởng
xuống cửa âm ti. Thầy vẩy lớp dầu lạc giữ hương, niêm kín nắp gỗ. Chúng chỉ
được mở ra dùng pha trà khi ông nội ông ngoại đến thăm. Và nữa dành vào lễ Phục
sinh, Giáng sinh nấu cơm nếp, nấu rượu cẩm và dành tận Tết luộc bánh chưng...”
(tr. 34, 35). Tết trong gia đình Công giáo là thời điểm vui chơi, lễ hội, cũng
là dịp để sống đạo một cách sâu sắc hơn – từ việc kính nhớ tổ tiên đến việc tạ
ơn Thiên Chúa, từ những nghi lễ dân gian đến những giờ phút cầu nguyện trong âm
thầm.
Bên
cạnh Tết, những đại lễ như Phục Sinh và Giáng Sinh cũng hòa vào dòng chảy văn
hóa dân tộc. Trong tùy bút "Phục Sinh im tiếng chuông", Nguyễn Tham
Thiện Kế mô tả bầu không khí làng quê rộn ràng trong niềm hân hoan mừng Chúa
Phục Sinh: "Thế là đã Chủ nhật, 5 giờ sáng, bồng bó huệ sáng mát sương
tháng Tư, bõ Ngời vén vạt áo chùng thâm vốn chỉ linh mục, phó tế hoặc chủng
sinh mới được mặc." (tr. 203); “con gái cụ trùm Sạch, người lĩnh
xướng ca đoàn Mân Côi, đang lựa cắt những bông huệ chín. Cô cũng thức khuya dậy
sớm cùng giờ anh Ngời ra tháp chuông tập kèn.” (tr. 244).
Trong tùy bút "Ngôi Lời của Tháng Giêng",
Nguyễn Tham Thiện Kế diễn tả tinh thần bác ái thông qua những hình ảnh gần gũi,
chân thực về gia đình, làng xóm và những con người bình dị. Đức tin Công giáo
thấm nhuần trong đời sống thường nhật, được thể hiện qua từng chi tiết nhỏ
trong tương quan giữa con người, đặc biệt qua những cử chỉ yêu thương và sẻ
chia trong thời khắc đầu xuân. Những hành động ấy phản ánh tinh thần bác ái,
cho thấy sự gắn kết giữa niềm tin tôn giáo và sinh hoạt văn hóa, nơi đức tin
trở thành nguồn mạch nuôi dưỡng các giá trị nhân văn trong đời sống cộng đồng. Cảnh
người mẹ sắp xếp lại thức ăn – không chỉ cho gia đình mình mà còn để chia sẻ
với những người xung quanh – làm nổi bật tinh thần san sẻ theo giáo lý Kitô
giáo. Đỉnh điểm của lòng bác ái trong tùy bút là khi mẹ chuẩn bị món quà đặc
biệt cho anh Thiện – người lính trẻ trốn về thăm nhà giữa Tết: "Mẹ lật
bật mở nắp chiếc rương gỗ lim đựng thóc giống. Chiếc thẩu thủy tinh đựng món
bánh gạo nếp trộn nguyên lòng đỏ trứng gà, chao mỡ lợn ỉ, thắng đường củ cải
vốn chỉ để bày đón ông nội ông ngoại được san vội một nửa vào tờ bìa báo ảnh
Việt Nam quấn bồ kề." (tr. 9). "Ngôi Lời của Tháng Giêng" là
câu chuyện về trái tim một người mẹ Công giáo và nó chạm đến trái tim người
đọc, khiến ta chẳng khỏi rưng rưng. Nguyễn Tham Thiện Kế đã để tinh thần bác ái
len lỏi vào từng câu chữ, như một lời nhắc nhở rằng đức tin không phải điều gì
cao xa, trừu tượng, mà là những hành động yêu thương giữa người với người.
Ấn tượng nhất với tôi trong cuốn sách là tùy bút "Phục sinh im tiếng chuông",
có kết cấu như một truyện ngắn. Ngân vọng suốt chiều dài câu chuyện là tiếng
chuông của bõ Ngời, một trong hai nhân vật chính. Tiếng chuông, dĩ nhiên là
biểu trưng của một xứ đạo bất kỳ, nhưng trong tùy bút – truyện ngắn này, nó
biểu trưng cho một đời người sau rất nhiều sóng gió đã tìm thấy an vui trong
Chúa. Thế nhưng, đến một mùa lễ Phục sinh, chuông ấy im tiếng. Sự im tiếng này
báo hiệu một thay đổi lớn, khi bõ Ngời phát hiện dây chuông quen thuộc bị tháo
đi, thay vào đó là “hệ thống giật chuông tự động” – một chi tiết đầy tính biểu
tượng. Tiếng chuông từng mang tinh thần của người kéo, của niềm tin và sự sống,
nay bị thay thế bởi một cơ chế vô hồn, mất đi sự linh thiêng vốn có. Sự kiện
này phản ánh sự thay đổi trong đời sống tinh thần xứ đạo: con người dần phụ
thuộc vào máy móc, sự thành tâm bị lãng quên, những giá trị thiêng liêng bị
thay thế bởi tiện nghi và công nghiệp hóa. "Phục sinh im tiếng chuông" – một ẩn ý về
sự thiếu vắng nhịp cầu nối giữa con người và thế giới linh thiêng. Phần nổi của
câu chuyện là tình yêu của hai người trẻ tuổi trong xóm đạo yên bình bỗng bị
chia cắt bởi chiến tranh, nhưng nó mang ẩn ý tình yêu trần thế như tiếng chuông
ngân lên rồi tắt lịm, mà âm hưởng của nó vang vọng mãi. Cái kết buồn của một mùa
"Phục sinh im tiếng chuông" phản ánh rõ nét sự tàn khốc mà
chiến tranh đã để lại: chia rẽ lứa đôi này vĩnh viễn; những sang chấn về tâm lý
sau chiến tranh đã khiến họ ẩn náu vào tình yêu Thiên Chúa một cách cực đoan, "Ngày
ấy, Nội còn tại thế, nghe chuông ngân, đan ngón khô vào tóc Tôi, người hướng vu
vơ vào sắc mây hoa huệ: Thành tín quá, tự trọng quá. Vì đâu nên nỗi. Chúa có
bắt họ phải hy sinh hư huyễn theo cách ấy đâu.” (tr. 249). Khi soeur Nhẹ
trở về làng sau nhiều năm, giữa họ không còn là tình yêu của tuổi trẻ mà là sự
cảm thông, thấu hiểu – một tình yêu dâng hiến không lời, như chính những gì họ
đã hy sinh vì đức tin. "Sau khi nhắc đến vò rượu cúc, soeur bước lững
thững tiến đến taxi, nhưng bà từ từ quay lại, trong khi ông già vẫn đứng dõi
theo. ‘Này... ông... Ông có giận vì tôi đã cưới Chúa không?’” (tr. 248).
Dù mang nỗi buồn về sự lụi tàn của những giá trị xưa cũ,
tùy bút này vẫn để ngỏ niềm hy vọng. "Phục
sinh im tiếng chuông" là lời nhắc nhở về sự chuyển mình của
thời gian, về sự cần thiết của việc gìn giữ những giá trị thiêng liêng trong
dòng chảy hiện đại. Bõ Ngời dù không còn kéo chuông, nhưng đức tin luôn vững vàng.
Ông tin rằng dù tiếng chuông bị thay thế, nhưng tiếng gọi của Chúa thì không
bao giờ ngừng. "Sự sống người kéo chuông ngừng một ngày nào đó, nhưng
tiếng chuông Chúa gọi thì không bao giờ ngưng. Nếu như chỉ kéo bằng sức thì có
lẽ bõ Ngời không trụ nổi mấy ngày, nhưng khi bõ kéo chuông bằng niềm tin tâm
hồn, thì đến kiếp sau, Chúa cho trở lại thế gian, bõ vẫn sẵn lòng làm người kéo
chuông. Mỗi lần kéo chuông là một lần thử thách giữ đúng nhịp, ngắt đúng tiếng,
để người Cơ đốc dọn mình lựa việc đến với Chúa. Mỗi một tiếng chuông ngân là
một lần bõ được nâng lên, được ru rín quên những ưu phiền mệt nhọc của kiếp
người." (Phục sinh im
tiếng chuông, tr. 246).
"Phục Sinh im tiếng chuông" chứa đựng nhiều
tầng nghĩa, vừa là hoài niệm về những giá trị đã mất, vừa là tiếng vọng suy tư
về đời sống đức tin, về sự chuyển biến của xã hội và con người. Tiếng chuông
nhà thờ, từ chỗ là linh hồn của xứ đạo, nay chỉ còn là một thanh âm vô hồn. Đây
là một tùy bút buồn và đẹp, lan tỏa tinh thần Kitô giáo, cũng là một bài ca về
thân phận con người trong dòng chảy của thời gian.
Nguyễn Tham Thiện Kế là một nhà văn có kinh nghiệm trong
việc kết hợp tự sự, trữ tình và triết lý trong tùy bút. Ông không chỉ thuật lại
sự kiện mà còn dẫn dắt người đọc vào một không gian suy tưởng, nhiều gợi mở.
Ngôn ngữ của ông tinh tế, giàu hình ảnh và sức gợi. Ví dụ, khi mô tả không gian
tháng Giêng, ông vừa tái hiện sự sống động của ngày xuân, vừa nhuốm lên đó nét
mộng mị, mở ra những tầng nghĩa thiêng liêng. "Hồng điều xác pháo vùi
cát lấm bùn, giẫm đạp bước chân. Mắt người lơ ngơ vo vòng khói nến khói nhang
phơ phất hơi men. Tuy đã Xuân nhưng rét nàng Bân đón đợi chưa thôi cắn cấu cơn
hờn da thịt. Giống loài hoa dâng hương cho sắc tận hiến chưng phô thân phận tất
thảy dịp Tết giờ đang trở lùi quá vãng. Chỉ còn mấy cữ hoa của cây cho trái bắt
đầu trút bớt lá già chìa nụ... Rình rang hội làng còn đâu đó phía trước dùi
trống nửa tuần trăng." (Ngôi Lời của Tháng Giêng, tr. 5). Câu văn của
Nguyễn Tham Thiện Kế có nhịp điệu riêng, biến chuyển linh hoạt giữa các vế câu,
như dòng suy tưởng liền mạch và mang sức nén rất mạnh. Ông khai thác triệt để
sự tương phản của hình ảnh, tạo cảm giác hoài niệm về một khoảnh khắc rực rỡ đã
qua. Văn của ông là sự hòa quyện giữa chất thơ và triết lý, giữa cảm thức về sự
phai tàn và niềm mong đợi một khởi đầu.
Trong tùy bút "Nghe trong chiều Ba Mươi",
Nguyễn Tham Thiện Kế khẳng định giá trị thiêng liêng và
tính dung hợp của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, xem đó như một “đạo mở” hài hòa
với mọi tôn giáo. Tư tưởng này đề cao lòng hiếu kính – giá trị đạo đức phổ
quát, đồng thời nhấn mạnh sự giao thoa giữa tín ngưỡng truyền thống và các hệ
thống niềm tin, tạo nên sự gắn kết bền vững giữa đạo lý dân tộc và đức tin tôn
giáo: "Thờ cúng Tổ Tiên – Ấy là
mĩ tục quốc gia như một thứ "đạo mở" tiếp nhận mọi tôn giáo của nhân
loại. Bởi chẳng tôn giáo nào lại không răn dạy con cháu biết ơn, cung kính Tổ
Tiên..." (tr. 374).
Điều đặc biệt trong tập tùy bút là Nguyễn Tham Thiện Kế
không áp đặt tư tưởng tôn giáo, mà để đức tin thấm nhuần vào từng chi tiết nhỏ
của đời sống, tự nhiên như hơi thở, phản chiếu vẻ đẹp của ân sủng và sự hiện
diện của Thiên Chúa trong thực tại thường ngày. Trong một đoạn văn tràn đầy
chất thơ, ông viết về sự giao hòa giữa đức tin và văn hóa: "Người hay
cây đều phải đặt đúng thổ ngơi, vị trí mà Thượng đế đã tạo sắp dành cho riêng
mới mong được là mình phát trội phẩm tính... Dễ đâu cảm nghiệm vị ngọt sâu dày
trong đắng chát trái xanh tinh chiết từ sỏi đá và tro than. Trung châu Đất Tổ,
chừng nào Hồng Hạc còn nảy nụ, kết hoa dưới trời Xuân Xoan Ghẹo thì cá Anh Vũ
vẫn còn quẫy sóng hợp lưu và người đời chẳng thể nguôi nắc nỏm miếng ngon Phú
Thọ." (Hồng Hạc miền Bạch Hạc, tr. 373). Tư tưởng về sự sắp
đặt của Thượng đế được lồng ghép tự nhiên vào triết lý nhân sinh và quy luật
sinh trưởng của vạn vật, tạo nên một dòng chảy dung hợp, hài hòa.
Đặc biệt, câu văn của Nguyễn Tham Thiện Kế mang dáng dấp
văn biền ngẫu, với từng ý, từng âm, từng nhịp đối xứng hài hòa, gợi nhớ đến văn
chương bác học cổ điển. Chính nhịp điệu trang trọng mà giàu cảm xúc ấy tạo nên
phong cách riêng của ông - vừa cổ kính, uyên thâm, vừa gần gũi, lắng đọng: "Lớp
lá dong bọc bánh chưng phai diệp lục ngả màu trắng bạc trên bàn thờ và dưới móc
treo sào tre. Vò rượu tăm nếp cái hoa vàng còn đôi cút eo óc láng đáy sành trên
kê cạnh bộ trường kỷ gỗ gụ mộc đánh sáp ong. Cành đào lộc trổ lộc từng mắt mấu,
hình hoa bỗng mỏng tựa tàn tro hóa vàng..." (Ngôi Lời của Tháng Giêng,
tr. 5).
Đọc tùy bút của Nguyễn Tham Thiện Kế, ta nhận ra đức tin không chỉ đồng
hành mà còn nâng đỡ, soi sáng, làm phong phú đời sống tinh thần, đồng thời hòa
quyện sâu sắc với bản sắc văn hóa dân tộc. Sống đức tin trong văn hóa Việt không đơn thuần là việc thực hành đạo trong
khuôn khổ nghi lễ, mà còn là hành trình hội nhập, gìn giữ và làm thăng hoa
những giá trị truyền thống dưới ánh sáng Thiên Chúa. Sự hòa quyện giữa đức tin
và văn hóa trong tùy bút của Nguyễn Tham Thiện Kế được thể hiện qua phong tục,
nếp sống gia đình, cung cách ứng xử, và trong cả lời ăn tiếng nói. Khi được soi
chiếu bởi giáo huấn Kitô giáo, những giá trị truyền thống như lòng hiếu thảo,
tinh thần bác ái, tình nghĩa xóm giềng càng được củng cố và thánh hóa, trở nên
dấu chứng sống động của tình yêu Thiên Chúa giữa lòng dân tộc.
Giá trị của tập tùy bút "Xuân thì trong chén
đắng" của Nguyễn Tham Thiện Kế không chỉ nằm ở vẻ đẹp nghệ thuật ngôn từ
mà còn lan tỏa như một dòng chảy ký ức và suy tư về thân phận con người dưới
ánh sáng đức tin. Những trang viết của ông trầm lắng và suy tư, thấm đượm
hơi thở đời thường, chạm đến những chiều sâu tinh tế của tâm hồn, mở ra khoảng
lặng thiêng liêng để con người chiêm nghiệm chính mình trong mối tương quan với
Thiên Chúa. Được viết trong tinh thần mĩ học
Kitô giáo, tập tùy bút này thấm đượm lòng bác ái, sự hy sinh và khát vọng cứu
rỗi. Mỗi trang viết vừa tái hiện hoài niệm hay chiêm nghiệm nhân sinh vừa mang
theo lời chứng về tình yêu và ân sủng, giúp con người nhận ra ánh sáng của Chúa
giữa những thử thách. Tác phẩm là sự hòa hợp đức tin Kitô giáo và văn hóa Việt
Nam, làm chứng cho một Giáo hội hiệp hành giữa lòng dân tộc. Đây cũng là nhịp
cầu đưa độc giả đến với những tác phẩm của Nguyễn Tham Thiện Kế, nơi mỗi con
chữ tiếp tục dệt nên những lớp nghĩa sâu sắc, khơi gợi niềm tin, hy vọng và tình
yêu thương.
Nhà văn Nguyễn Tham
Thiện Kế, sinh năm 1961 tại Phú Thọ. Ông từng đoạt Giải thưởng Hùng Vương của
tỉnh Phú Thọ 2010 với tập truyện ngắn “Tiếng kêu của ngôi nhà thủng mái”. Giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2023 với tập truyện ngắn "Một mùa hè dưới
bóng cây”. Các tác phẩm chính của Nguyễn Tham Thiện Kế: “Nơi con tàu không trở
lại” (tập truyện ngắn – 1980). “Nhà của Mẹ” (tập truyện ngắn – 1985). Tiểu
thuyết “Miền đời quên lãng” (1989-1996-2003). Tiểu thuyết “Người cha ở trên
trời” (2003-2006-2010). “Khuôn mặt đẹp” (tập truyện ngắn – 2003). “Tiếng kêu
của ngôi nhà thủng mái” (tập truyện ngắn – 2007). “Dặm ngàn hương cốm Mẹ” (Tập
tùy bút – 2001). “Miền lưu dấu Văn nhân”
(Chân dung văn nghệ – 2013). “Đợi Chị về
tưới rượu bến sông” (tập du ký – 2017). “Một mùa hè dưới bóng cây” (tập truyện
ngắn – 2023. Và “Xuân thì trong chén đắng”
(tập tùy bút – 2024).
Hải
Phòng, 24/2/2025
M.V.P
