Tạo thế giới riêng mang lý tưởng thẩm mỹ của kẻ sáng tạo - Valentina Novkovic thực hiện phỏng vấn
Tạo thế giới riêng mang lý tưởng thẩm mỹ của kẻ
sáng tạo
(Valentina Novkovic thực hiện phỏng
vấn. Đăng trên tạp chí Fokus Vesti, Serbia)
Nhà thơ Valentina Novkovic
1 - 1. I.
A. Brodsky đã viết
“Hai điều biện minh cho sự tồn tại của con người trên trái
đất: đó là tình yêu và
sự sáng tạo”.
Aristotle tin rằng mục tiêu mọi hành
động của con người là
hạnh phúc,
bao gồm việc nhận thức bản chất của con người.
Vậy theo nhà thơ,
ý nghĩa của cuộc sống là gì?
- Mai
Văn
Phấn (MVP): I.A. Brodsky và Aristotle đã đưa
ra nhận
định khái quát khá đầy
đủ về ý nghĩa cuộc sống con
người. Dĩ
nhiên, mỗi chúng ta đều có nhận thức
riêng
về ý nghĩa ấy và
cũng
chọn cho mình lối đi thích hợp. Tôi được sinh
ra trong gia đình theo đạo Thiên Chúa,
được giáo dục
từ nhỏ tinh
thần bác ái,
vị tha trong
tình
yêu
thương
của chúa
Ki-tô. Do
vậy, hướng đi đời sống tâm linh của tôi là vươn tới ánh sáng của Thiên Chúa, lánh xa
tội lỗi trên thế
gian. Khi
gặp được
người
con gái
mà tôi yêu và trở thành vợ
tôi
bây
giờ, cảm
quan tôn
giáo
của tôi đã thay
đổi. Vợ
tôi
là một
Phật tử nên tôi
đã nghiên
cứu sâu
triết lý
Phật giáo. Đức Phật
cũng
giống Chúa
Jesu là
khuyên
răn
con người ăn ngay
ở lành, có
tinh thần bác
ái, vị
tha và
tình
yêu
thương
vạn hữu,
nhưng
Ngài đã chỉ cho
con người
thấy rằng,
Niết Bàn
không
ở đâu
xa lạ mà tồn tại
ngay trong từng
giấy phút
chúng
ta đang
sống. Tôi
đã kết hợp
hài
hòa
tinh thần của
hai tôn
giáo
này, đó là
sự vươn
tới và
tận hưởng
từng phút
giây
của đời
sống hiện hữu. Nhận thức
này
là nền
tảng, cảm
quan thẩm mỹ
trong suốt quá trình
sáng
tạo của tôi.
2. Nhà thơ có nhớ những
cuốn sách đầu tiên đã đọc không, chúng nói về những
tác giả nào? Những cuộc
gặp gỡ đầu tiên với chữ
viết này đã ảnh hưởng đến sự
sáng tạo của Ông ở
mức độ nào?
- MVP: Một trong những
cuốn sách
đầu tiên
tôi đã đọc và
yêu thích là
"Thép
đã tôi
thế
đấy!"
của
nhà
văn
Nga
N.A.
Ostrovsky.
Tôi
lớn
lên
trong
lúc
chiến
tranh,
miền
Bắc
Việt
Nam
ngày
đêm
bị
máy
bay
Mỹ
oanh
tạc.
Đời
sống khó
khăn của chúng tôi khi ấy rất cần một cuốn sách như "Thép
đã tôi
thế
đấy!"
và
một
nhân
vật
điển
hình
yêu
lý
tưởng
của
mình
như
Pavel
Korchagin.
Nghệ thuật của cuốn sách không
ảnh hưởng
đến khả năng sáng tạo của tôi
sau này, nhưng
tình
yêu
và niềm
tin vào
lý tưởng của
nhà
văn
N.A.
Ostrovsky
luôn thôi thúc tôi. Với tôi, cuốn sách đã trôi qua hơn nửa thế kỷ. Lý tưởng mà
nhân vật Pavel Korchagin tôn thờ đã đổ vỡ ở Nga và các nước xã hội chủ trước
đây. Thế hệ trẻ ở VN cũng không còn say mê và tìm đọc cuốn sách này nữa. Nhưng
nhân vật Pavel Korchagin đã gợi mở cho tôi nhiều câu hỏi trái chiều về
nhân sinh quan và thế giới quan, về lý tưởng và hệ hình thẩm mỹ, v.v... Trong
tâm trạng tôi xuất hiện nhiều cung bậc tình cảm với nhân vật này và đã bùng nổ
một "Cuộc cách mạng". Với một kẻ sáng tạo cần có những "Cuộc
cách mạng" để vươn tới những chủ đích mới.
3. Điều gì
đã ảnh
hưởng
đến
Ông
nhiều
nhất
từ
các
nhà
thơ
Nga,
và
tại
sao?
- MVP: Thơ
Nga được du
nhập vào
Việt Nam khá
muộn, có lẽ
được tính mốc
từ năm 1947 khi bài
thơ "Đợi anh về"
của C. Simônov được nhà thơ Tố Hữu dịch từ bản tiếng Pháp sang tiếng Việt. Trước
đó ở Việt Nam, thơ Trung Hoa đã ảnh
hưởng suốt thời kỳ trung đại và cận đại, và thơ Pháp ảnh hưởng từ cuối thế kỷ
19 đến đầu thế kỷ 20. Từ giữa thế kỷ 20, có lẽ do Việt Nam và Nga có cùng ý thức
hệ, đồng thời rất nhiều trí thức của Việt Nam được đào tạo tại Liên bang Xô Viết
(cũ) nên thơ Nga có sức lan toả rộng rãi tại Việt Nam. Qua nghiên cứu các tác
phẩm của các nhà thơ thuộc "Kỷ nguyên Pushkin", "Hậu kỷ nguyên Pushkin"
và thơ Nga đương đại, tôi nhận thấy thơ Nga rất phong phú, đa dạng khuynh hướng
và phong cách. Nhưng có một điểm chung nhất, là dù các nhà thơ Nga viết bằng bất
kỳ thi pháp nào, thì người đọc vẫn dễ dàng nhận ra vẻ đẹp tâm hồn Nga cởi mở, ấm
áp và nhân hậu, tỏa ra ánh sáng tuyệt đẹp mang đặc trưng văn hóa Nga vạm vỡ và
thẳm sâu.
4. "Mục
đích của nghệ thuật là
để chuẩn bị cho một người
đến với cái chết,
cày xới tâm hồn anh ta,
làm cho tâm hồn có
khả năng tìm
đến cái thiện."
(Andrei Tarkovsky
"Dấu ấn thời gian").
Ông nghĩ
mục đích của nghệ thuật,
thơ ca, văn học nói chung là
gì?
- MVP: Với tôi, mục đích của
nghệ thuật, thơ ca, văn học nói chung là tạo ra một thế giới riêng mang lý tưởng
thẩm mỹ của kẻ sáng tạo. Thế giới ấy quyến rũ, vẫy gọi con người tới cái đẹp
hoàn mỹ, sự thiện lương, công bằng và bác ái đến mức tuyệt đối.
5. Những khả năng hoặc tri thức nào cần thiết
để một người có thể trở thành người sáng tạo thực sự?
- MVP: Người sáng tạo thực sự
chắc chắn phải là người được Thượng Đế chọn. Nói theo Thiên Chúa giáo, đó phải
là người được "ơn gọi" của Chúa. Lòng say mê, sự yêu thích nghệ thuật
của ai đó chỉ có thể giúp anh ta trở thành một nghệ sĩ nghiệp dư. Tuy vậy, người
được "ơn gọi" phải biết trau dồi kiến thức, có trải nghiệm phong phú,
biết sống đẹp để giữ được cảm xúc thì mới có thể đi xa, trở thành nghệ sĩ có tầm
vóc.
6. Howard Phillips Lovecraft tin rằng “người
không hạnh phúc là người mà những ký ức về tuổi thơ chỉ mang đến nỗi sợ hãi và
sự buồn bã”. Tuổi thơ của Ông diễn ra như thế nào, và có phải quan trọng là
không quên đi đứa trẻ luôn sống bên trong mỗi con người trong suốt cuộc đời
chúng ta hay không?
- MVP: Tôi được sinh ra trong ngôi làng nhỏ ven biển, thuộc châu thổ Sông Hồng, miền Bắc Việt Nam. Nhà tôi ở xóm đạo nhỏ, sáng chiều vang lên tiếng chuông nhà
thờ. Âm thanh vang vọng của những bài thánh ca đã tràn ngập tuổi thơ tôi ngày ấy
và vang vọng đến tận bây giờ. Tôi lớn lên trong thời gian chiến tranh, chứng kiến
những trận oanh tạc của máy bay Mỹ trên miền Bắc Việt Nam. Sau những phút kinh
hoàng sợ hãi khi phải nhìn những hố bom sâu phá hủy nhà cửa, đường xá, cầu cống
cùng những người chết và bị thương, thì sự mát lành của sông nước, sự ấm áp nơi
đất mẹ lại phủ ngập tâm hồn trẻ thơ của tôi hồi ấy. Tôi vẫn nhớ những chiều
cùng mấy đứa bạn nhỏ bơi lặn trên con sông quê chảy qua làng. Nhớ mãi mỗi lần lặn
xuống đáy sông ngoi lên mặt nước, mặt trời vàng óng như phủ một lớp sơn óng ánh
lên da thịt chúng tôi. Rồi tôi đã ra đi từ đó... Càng ngày tôi càng đi xa khỏi
tuổi thơ hồn nhiên và lấm láp ấy của mình. Và tôi biết rằng, mình đang đi về
phía khôn ngoan, cũng đồng nghĩa với sự khô cứng, già nua của tuổi tác. Nhưng
thơ ca đã đánh thức tôi và gọi tôi về tuổi ấu thơ tuyệt đẹp ngày nào. Một người
đàn ông đã luống tuổi đi ngược lại thời gian để thành đứa trẻ thực sự là một
hành trình không mấy dễ dàng. Nhưng tôi đã vịn vào từng câu thơ của mình để trở
về tuổi thơ. Và càng đi tôi thấy mình càng trẻ lại, cảm xúc sáng tạo lại ào đến
bất tận... Người nghệ sĩ có được nhãn quan của một đứa trẻ thì anh ta sẽ thấy
được thế giới quen thuộc quanh mình trở nên mới lạ, hấp dẫn. Một nhà thơ có thể
viết về một loài hoa, một con vật bằng rất nhiều tác phẩm. Bởi với mỗi tác phẩm,
anh ta đều có cái nhìn mới mẻ, ngỡ ngàng, thậm chí bàng hoàng như nhìn thấy
loài hoa, con vật ấy lần đầu. Và người nghệ sĩ ấy đã khám phá nó trong nguồn cảm
xúc tươi ròng, mãnh liệt và đa dạng như chính sự sống vậy.
7. Họ nói rằng con đường duy nhất có thể
làm được là con đường dẫn đến thế giới tâm linh của chúng ta. Ông có dễ dàng
tìm thấy nó ở thế giới hiện đại không? Làm thế nào để Ông tìm thấy con đường,
và tìm ở đâu?
- MVP: Kiến
tạo thế giới
tâm linh
là một trong
những thủ pháp quan
trọng trong thi
pháp của
tôi. Tôi kiến
tạo thế giới
này không mấy
khó khăn,
bởi nó như
tồn tại sẵn
trong tâm
thức của tôi. Như
đã trả lời trong
câu hỏi
trước, tôi được
ảnh hưởng
bởi hai tôn giáo lớn
là Thiên
Chúa Giáo và
Phật giáo.
Còn một
tôn giáo nữa
đã thấm sâu
vào tâm thức
tôi từ
nhỏ, đó là Hồn linh
giáo (Thuyết
vật
linh).
Ba
tôn
giáo
này
chính
là
ba
trụ
lớn
trong
thế
giới
tâm
linh
của
tôi.
Thuyết
vật
linh
là
thế
giới
quan
đầu
tiên,
phổ
quát
của
nhân
loại,
giúp
con
người
giao
cảm
với
nhau
và
hòa
đồng
với
vũ
trụ.
Thuyết
này
quan
niệm,
con
người
và
vạn
vật
khác
nhau
về
thực
thể,
nhưng
chúng
đều
có
linh
hồn.
Thuyết
vật
linh
xuất
hiện
ngay
từ
buổi
bình
minh
của
nhân
loại,
nhưng
sau
đó nó
bị
các
tôn
giáo
khác
làm
cho
biến
mất
ở
nhiều
quốc
gia.
Riêng
ở
Việt
Nam,
một
nước
thuần
nông,
thuyết
vật
linh
vẫn
tồn
tại
và kết hợp với tôn giáo bản địa, đó là Đạo Mẫu, làm nên một văn hóa tâm linh
giàu bản sắc Việt Nam. Tôi
đã kết
hợp
ba
tôn
giáo
này
để xây dựng
nền tảng thẩm mĩ và kiến tạo các tầng không gian nghệ thuật, tạo nên một
khuynh hướng thơ hiện đại thuần Việt
8. Một số
nhà thơ nổi tiếng
nhất nước Việt
Nam, như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Cao Bá
Quát, Trương Hán Siêu, Chu Mạnh
Trinh,
Phan Huy Chú, Nguyễn Khuyến... và nhiều tác giả khác. Nguyễn Du
được cho là đại thi
hào của Việt
Nam, vị trí trong nền
văn học Việt
Nam của ông được so
sánh với vị
trí của Alexander Sergeevich
Pushkin trong nền văn học Nga. Ông sẽ
chọn ai trong số
rất nhiều nhà thơ Việt Nam, và tại sao? Thơ Việt Nam đương đại có
những khuynh hướng nào? Giới trẻ
có hứng thú với thơ
không, có những buổi
chiều thơ mà họ đọc thơ
của chính
họ sáng
tác
hay không?
- MVP: Cảm
ơn bà đã nhắc tới
Nguyễn Du,
người được cho
là đại
thi hào
của Việt Nam, được Unesco
công
nhận là
danh nhân
văn
hóa
thế giới từ
năm 2013. Riêng
tôi
chọn Hồ Xuân Hương là nhà
thơ VN
yêu
thích
nhất từ trước tới
nay. Tư tưởng và thi pháp thơ của
bà đã tạo ra một hệ hình thẩm mĩ khác biệt và đầy thách thức trong thời đại của bà và cả bây giờ. Thơ Hồ Xuân Hương vừa đáp ứng được thói quen thẩm
mĩ của người đọc, vừa như chống lại để kích thích họ tìm hiểu và tiếp tục khám
phá. Thơ Hồ
Xuân
Hương
từ khi xuất
hiện đến
nay đã hơn hai
thế kỷ,
luôn tác động trực tiếp vào dòng chảy thơ Việt, hối
thúc nảy sinh những thi pháp mới, khuynh hướng mới.
Thơ
Việt Nam đương
đại có đa dạng
những khuynh hướng. Bên cạnh
những khuynh hướng truyền
thống ổn
định từ
trước
tới nay
đã xuất hiện
những trào
lưu
hiện đại, có
khuynh hướng
tự phát
và có cả những
khuynh hướng
du nhập từ
phương
Tây. Giới
trẻ có lẽ
ít hứng thú
với thơ hơn thế hệ trước đây.
Nhưng
tại mỗi
địa phương,
thành
phố vẫn có các
câu
lạc bộ thơ. Họ cũng thường xuyên tổ
chức các
buổi ra mắt
sách, đọc thơ cho nhau nghe trong
phạm vi hẹp.
9. Nhà thơ đã giành được nhiều
giải thưởng văn học quan
trọng ở Việt Nam
và trên thế
giới. Đã cho xuất bản 16 tuyển tập
thơ và một tập
phê bình bằng
tiếng mẹ đẻ. Điều gì
cần thiết để duy trì
cảm hứng, có khi nào Ông chỉ
quan sát thế
giới xung quanh và
nghĩ xem sẽ mang
những gì vào trong
trang giấy không?
- MVP: Cảm
ơn sự
quan tâm
của bà!
Kinh nghiệm sáng tác cho
tôi
thấy, không nên
đợi cảm
hứng đến
mà nên truy
tìm
nó. Vậy
cảm hứng ở đâu?
Vâng, nó
ở trong quy
hoạch của kẻ
sáng
tạo. Tôi dùng từ "quy hoạch" ngỡ như công
việc chuẩn bị để xây dựng
một thành
phố, hay ít nhất
một ngôi
biệt thự.
Nhưng
thực tế nó gần như vậy.
Nếu bà
đọc hết 16 tập thơ của tôi sẽ
dễ dàng
nhận ra một ý tưởng "quy hoạch" một công trình lớn
qua các
giai đoạn. Chính
cái áp lực
của công
trình đã sinh ra
cảm hứng mạnh
mẽ cho tôi có thể liên tục
sáng
tạo. Tôi thường không bị động với
thế giới xung
quanh. Nó xuất hiện
cũng
chỉ để
bổ sung cho
những ý tưởng mà tôi đã hoạch
định sẵn.
10. Ngoài vai trò
là một nhà
thơ và một nhà
phê bình,
Ông còn là
một dịch giả.
I. A Bunin cho rằng
“Không phải từ ngữ cần
được dịch,
mà đó là
sức mạnh và
tinh thần”.
Còn Gogol lại tin rằng
“một dịch giả phải giống như
thủy tinh,
trong suốt
đến mức không thể nhìn thấy anh ta.”
Đối với
Ông một bản dịch là
như thế nào,
có cần phải
đi sâu tìm hiểu bản chất của những gì
đã được viết ra
để có thể
đưa ra một bản dịch chính xác hay không?
- MVP: Vâng, đúng là người
dịch cần nhận
ra "sức
mạnh và
tinh thần”
của nguyên
tác
như I.A.
Bunin đã nói.
Người
phương Đông chúng tôi thường nói,
mỗi bài
thơ đều
có thần
thái
riêng, hay nói khác
đi đó là ánh sáng
đặc biệt
của một văn bản
văn
học. Người dịch
phải nhận ra "thần thái",
"ánh sáng"
ấy từ bài thơ mới nên tiến
hành
công
việc dịch thuật. Công
việc quan trọng
tiếp theo là phải tìm ra
ngôn
ngữ đặc
trưng
và phong
cách
thơ của
mỗi tác
giả. Nếu để
nhiều bài
thơ của nhiều tác
giả bên
cạnh nhau mà bạn
đọc vẫn
ngỡ của
một nhà thơ thì
đó là thất
bại của người dịch.
11. Cuốn sách "Bay đi lúc bình minh" của Ông gần đây đã được xuất
bản bằng tiếng Nga
bởi nhà xuất bản "Четыре". Ông có thể cho
chúng tôi biết
thêm một chút về nội
dung của cuốn sách không?
- MVP: Nội
dung tập thơ "Bay
đi lúc bình minh"
gồm 7 phần, với các tiêu đề sau: Bầu trời không mái che,
Và đột nhiên gió thổi, Hôm sau, Con thiên nga bay đi, Thời tái chế, Tiểu luận,
Trả lời phỏng vấn. Cuốn sách tập hợp những bài thơ của tôi được dịch sang tiếng Nga, đã được xuất bản trong 2 cuốn sách: “Два крыла” ("Đôi cánh". Nhà xuất bản “Нонпарелъ”, Мax-cơ-va, 2016) và «Время утиля» ("Thời tái chế". Nhà xuất bản Центр духовного возрождения Черноземного края, Vô-rô-nhét, 2020. Ngoài ra, cuốn sách
"Bay đi lúc bình minh"
in chùm thơ
tôi mới viết về Uzbekistan và
Belarus. Bên cạnh phần thơ, sách còn in một số bài tiểu luận của các nhà
phê bình,
nhà thơ Nga viết về thơ
của tôi.
Phần cuối sách là
3 cuộc trò chuyện giữ tôi và
nhà văn Alexander Karlyukevich - Nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin Belarus về tình hình văn học và
xuất bản của hai nước.
12.
Bài thơ nào của Ông khắc họa giống nhất về bản thân nhà thơ?
- MVP: Lúc này tôi tạm
thời chọn bài thơ "Thuốc đắng"
cho câu
hỏi của bà,
lúc khác có
thể sẽ là
bài thơ
khác. Đây là bài
thơ tôi viết
cho con gái Ngọc
Trâm
của tôi
lúc
ấy mới
3 tuổi vào năm
1990. Tôi
hiển hiện trong
bài
thơ là người
cha thô
ráp
bên
ngoài
nhưng
sâu
lắng và
có phần
mềm yếu ở
bên
trong. Câu chuyện
nói
với con nhưng gợi
mở cho bạn đọc những
liên
tưởng
về đời
sống thế nhân,
thiên
nhiên, vũ
trụ...
- Cảm ơn Mai Văn Phấn!
TIỂU SỬ VALENTINA NOVKOVICH
Valentina Novkovich là nhà thơ, nhà văn, dịch giả văn
học, nhà báo của Cộng hòa Serbia. Chị tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn học Nga
(ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh). Đã công bố thơ và văn xuôi trên nhiều tạp chí ở
Serbia, như Književne novine, Trag, Književni pregled, Brankovina, Buktinja,
Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale; và trên các tạp chí điện tử
Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolod ở Nga, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Ba Lan,
Romania, Macedonia, Kazakhstan. Valentina đã xuất bản ba tập thơ, gồm "Безвременно"
(tạm địch: Vượt thời gian - Draslar, 2014), "Капель на засуху" (tạm dịch:
Giọt nước vì hạn hán - Parthenon, 2018), "Отгадки нежности" (tạm dịch:
Lời giải
của
sự dịu dàng - Liberland, 2021), một tập truyện ngắn "Два часа од реаль ности " (tạm dịch: Hai giờ thực tại
- APS, 2020). Tuyển tập thơ của Valentina Novkovich, do nhà thơ và dịch giả Leo
Butnara biên soạn và dịch sang tiếng Romania, được Hiệp hội Nhà văn Moldova đề
cử cho giải Nobel. Các bài thơ của chị đã được dịch sang tiếng Nga, Anh, Macedonian,
Romania, Uzbek, Azerbaijan, Bengali và tiếng Hàn. Chị từng đoạt nhiều giải thưởng
thơ và văn xuôi. Valentina Novkovic đã dịch nhiều tác phẩm của các nhà thơ Nga
sang tiếng Serbia và phần lớn các nhà thơ Serbia sang tiếng Nga. Chị đồng thời
là phóng viên của báo Focus News, được phỏng vấn bởi nhiều nhà sáng tạo từ Nga
và Liên Xô cũ. Chị đã nhận được nhiều giải thưởng cho các bản dịch văn học,
trong đó có giải thưởng của Hiệp hội Dịch giả Montenegro cho tập văn xuôi được dịch
hay nhất năm 2019 "Книга
рассказов для молодежи" (tạm
dịch: Sách truyện dành cho giới trẻ) của tác giả xuất sắc đến từ Uzbekistan.
Ngoài ra, chị còn phụ trách chương trình Thư viện thường
ngày
"Milutin Boyich", Trò chuyện với một nhà thơ của Đài truyền hình
Serbia. Chị là thành viên của Hiệp hội tác giả Serbia, Hiệp hội Văn học
Serbia và thành viên của Viện Văn học Thiếu nhi. Hiện chị sống cùng gia đình ở
Belgrade (Serbia).
Bản tiếng Serbia:
MAI
VAN FAN, vijetnamski pesnik, esejista i prevodilac : Svrha umetnosti je
stvaranje posebnog sveta sa estetskim idealom stvaraoca
FokusVesti: „Dve stvari opravdavaju postojanje čoveka na
zemlji: ljubav i kreativnost, pisao je I. A. Brodski, Aristotel je verovao da
je cilj svih ljudskih akcija sreća (eudaimonia), koja se sastoji u spoznaji
suštine čoveka“. Šta je, po Vašem mišljenju, smisao života?
MVF: I. A. Brodski i Aristotel dali su prilično
potpun prikaz smisla ljudskog života. Naravno, svako od nas ima svoju
percepciju smisla i takođe bira pravi put za sebe. Rođen sam u hrišćanskoj
porodici i od malih nogu vaspitavan sam u duhu milosrđa i predanosti u ljubavi
Hristovoj. Stoga je pravac mog duhovnog života stremljenje ka svetlosti
Božijoj, daleko od grehova sveta. Kada sam upoznao devojku koju volim i kada je
postala moja žena, moja verska osećanja su se promenila. Ona je budista i zbog
toga sam duboko proučavao budističku filosofiju. Buda je, poput Isusa Hrista, učio ljude da
budu dobri, da pokazuju duh milosrđa, altruizma i univerzalne ljubavi, ali je
ljudima pokazao da nirvana nije čudno mesto koje postoji u svakom trenutku
našeg života. Skladno sam spojio duh ove dve religije, koji prodire u svaki
trenutak postojanja i uživa u njemu. Ova percepcija je osnova estetskog
značenja čitavog mog stvaralačkog procesa.
FokusVesti: Da li pamtite prve pročitane knjige, o kojim
autorima je reč? U kom stepenu su ti prvi susreti sa pisanom rečju uticali na
Vaše stvaralašatvo?
MVF:
Jedna od prvih knjiga koje sam pročitao i u koju sam se zaljubio bila je „Kako
je kalio čelik“, ruskog pisca Nikolaja A. Ostrovskog. Odrastao sam tokom rata,
severni deo Vijetnama su danonoćno bombardovali američki avioni. U to vreme,
naš težak život zahtevao je knjigu poput “Kako se kalio čelik” i tipičnog
junaka koji voli svoje ideale, poput Pavla Korčagina. Ona nije uticala na moj
dalji rad, ali ljubav i vera u ideale pisca N. A. Ostrovskog me uvek podstiču.
Za mene je knjiga prešla više od pola veka. Ideali koje je obožavao Pavle
Korčagin srušeni su i u Rusiji i drugim bivšim socijalističkim zemljama. Mlađe
generacije u Vijetnamu više se ne oduševljavaju
ovom knjigom, niti je čitaju. No, lik
Pavla Korčagina mi je postavio mnoga oprečna pitanja o mom životu i pogledu na
svet, o idealima i estetskim modelima itd. Moje raspoloženje je pokazalo mnogo
nivoa privrženosti liku, što je dovelo do „revolucije“. Stvaraocu su potrebne
„revolucije“ da bi postigao nove ciljeve.
FokusVesti: Koji ruski pesnici su na Vas ostavili najveći
uticaj, zašto?
MVF:
Ruska poezija je u Vijetnam stigla dosta kasno, verovatno od 1947. godine, kada
je pesnik To Huu preveo pesmu K.
Simonova „Čekaj me i ja ću sigurno doći” sa francuske verzije na vijetnamski.
Ranije je u Vijetnamu, kineska poezija tokom srednjovekovnog i ranog modernog
perioda bila pod uticajima, a francuska poezija od kasnog 19. do početka 20.
veka. Od sredine 20. veka moguće je da su Vijetnam i Rusija imali istu
ideologiju, a da su u isto vreme mnogi vijetnamski intelektualci studirali u
Sovjetskom Savezu, zbog čega je ruska poezija postala rasprostranjena u
Vijetnamu. Izučavajući dela pesnika iz „Puškinоve ere“, „Postpuškinove ere“ i
savremene ruske poezije, otkrio sam da je ruska poezija veoma bogata i
raznovrsna po stilovima. Ali, postoji jedna zajednička stvar: bez obzira šta
ruski pesnici pišu u bilo kom poetskom stilu, čitaoci će i dalje lako
prepoznati otvorenu, toplu i ljubaznu lepotu ruske duše, koja zrači divnom
svetlošću sa dubokim i snažnim karakteristikama ruske kulture.
FokusVesti: „Svrha umetnosti je da pripremi čoveka za smrt,
da preore i izbrazda njegovu učinivši ga sposobnim za okretanje dobru. (Andrej
Tarkovski „Zapečaćeno vreme“), šta je svrha umetnosti, poezije, književnosti
uopšte?
MVF:
Za mene je cilj umetnosti, poezije i književnosti uopšte stvaranje posebnog
sveta sa estetskim idealom stvaraoca. Ovaj svet opčinjava, poziva ljude na
savršenu lepotu, poštenje, pravdu i bezuslovnu filantropiju.
FokusVesti: Koje sposobnosti ili znanja su potrebna da bi
neko postao istinski stvaralac?
MVF:
Pravi tvorac mora biti izabran od Boga. Prema hrišćanstvu, ova osoba treba da
bude „pozvana“ od Boga. Samo nečija strast, ljubav prema umetnosti može mu
pomoći da postane umetnik amater. Međutim, ljudi sa „pozivom“ treba da umeju da
akumuliraju znanje, da imaju bogato iskustvo, da umeju da žive lepo da bi
sačuvali svoje emocije, onda mogu da odu daleko i postanu veliki umetnici.
FokusVesti: Hauard Filips Lavkraft je verovao da je
„nesrećan onaj kome sećanja na detinjstvo nose samo strah i tugu.“ Kakvo je
bilo Vaše detinjstvo, koliko je važno ne zaboraviti unutrašnje dete koje tokom
života živi u svakom čoveku?
MVF:
Rođen sam u malom primorskom selu u delti Crvene reke u severnom Vijetnamu. Moj
dom je u malom religioznom selu, a crkveno zvono zvoni ujutru i popodne. Odjek
zvukova hrišćanskih himni ispunio je moje detinjstvo tada i do danas nailazi na
odjek. Odrastao sam tokom rata, gledajući kako američki avioni bombarduju
severni deo Vijetnama. Posle trenutaka užasa i straha gledajući duboke kratere
od bombi koje uništavaju kuće, puteve, mostove, mrtve i ranjene, prohladna reka
i toplina domovine ispunili su moje srce, moju detinju dušu u to vreme. Još se
sećam dana kada su moji mali drugari plivali u seoskoj reci koja protiče kroz
selo… Sećam se, svaki put kada bismo zaronili na dno reke i izašli na površinu,
zlatno sunce kao da je farbalo našu kožu sjajnom bojom. Onda sam otišao odatle…
Sve više sam ostavljao svoje nevino i izmazano detinjstvo. I znam da idem u
pravcu mudrosti, koja je takođe sinonim za čvrstinu i starenje. Ali, poezija me je probudila i vratila u divno
detinjstvo. Starijem čoveku koji se vraća u prošlost da bi postao dete, nije
lako. No, držao sam se za svaki svoj
stih da bih se vratio u detinjstvo. I što više hodam, osećam se mlađim,
stvaralačke emocije jure beskrajno… Umetnik vidi perspektivu deteta, videće
kako poznati svet oko njega postaje nov, zanimljiv. Pesnik može da piše o
cvetu, o životinji u mnogim delima. Jer, svakim radom on izgleda nov, iznenađen
je, čak i šokiran, kao da prvi put vidi ovaj cvet ili životinju. A ovaj umetnik
ga je otkrio u izvoru emocija toliko svežih, intenzivnih i raznolikih kao i sam
život.
FokusVesti: Kažu da je jedini mogući put onaj koji vodi u
naš duhovni svet, da li ga je lako naći u savremenom svetu, kako, u čemu ga Vi
pronalazite?
MVF:
Stvaranje duhovnog sveta – jedna od važnih tehnika u mojoj poetici. Nije mi
bilo teško da stvorim taj svet, jer mi se činilo da postoji u mom umu. Kao što
je rečeno u prethodnom pitanju, na mene su uticale dve velike religije:
hrišćanstvo i budizam. Postoji još jedna religija koja je duboko ukorenjena u
mojoj glavi od detinjstva, a to je animizam. Ove tri religije su tri stuba mog
duhovnog sveta. Animizam je prvi, univerzalni pogled na svet čovečanstva, koji
pomaže ljudima da komuniciraju jedni sa drugima i da se usklade sa Univerzumom.
Ova religija pretpostavlja da su ljudi i stvari različiti u smislu entiteta,
ali svako ima dušu. Animizam se pojavio u zoru čovečanstva, ali su ga potom
druge religije u mnogim zemljama primorale da nestane. Naročito u Vijetnamu,
čisto poljoprivrednoj zemlji, animizam i dalje postoji i u kombinaciji sa
lokalnom religijom, odnosno Tao Mau (Obožavanje Boginje Majke), stvara duhovnu
kulturu bogatu vijetnamskim koloritom. Objedinio sam ove tri religije da bih
stvorio slojeve prostora koji su istovremeno usklađeni i inkluzivni kako bih
formirao multisistemski Univerzum. U tom duhu vraćam svoju poeziju duhu
„iskonske harmonije“, brišući granice između mene i ne-mene, između mene i
sveta, kako bih stvorio trend čiste vijetnamske savremene poezije.
FokusVesti: Neki od najpoznatijih pesnika vaše zemlje: Chan
Nhan Tong, Nguien Trai, Ho Ksuan Huong, Cao Ba Kuat, Truong Han Sieu, Chu Man
Trinh, Phan Hui Chu, Nguien Huien i mnogi drugi. Ngujen Du se smatra velikim
vijetnamskim pesnikom, čija se uloga u vijetnamskoj književnosti poredi sa onom
Aleksandra Sergejeviča Puškina u ruskoj književnosti. Koga biste izdvojili među
brojnim vijetnamskim pesnicima, zašto? Koji su trendovi u savremenoj
vijetnamskoj poeziji? Da li postoji interesovanje mladih za poeziju, da li
postoje večeri poezije na kojima autori čitaju svoje stihove?
MVF:
Hvala vam što ste spomenuli Ngujen Dhua, kojeg nazivaju velikim pesnikom
Vijetnama, kojeg je UNESCO priznao kao svetsku kulturnu ličnost od 2013.
godine. Lično biram Ho Ksuan Huonga za svog omiljenog vijetnamskog pesnika do
sada. Njena misao i poetika stvorile su drugačiji i složeni estetski model u
njenom vremenu i sada. Poezija Ho Ksuan Huonga odgovara estetskim navikama
čitalaca i deluje kao otpor, podstičući ih da uče i nastave da uče. Njena
poezija, koja se pojavila pre više od dva veka, uvek je direktno uticala na tok
vijetnamske poezije, izazivajući nastanak nove poetike i novih trendova.
Savremena vijetnamska poezija ima različite stilove. Pored stabilnih
tradicionalnih trendova, postoje moderni trendovi koji imaju tendenciju da budu
spontani, pa čak i uvezeni sa Zapada. Mladi su verovatno manje zainteresovani
za poeziju nego prethodne generacije. Ali na svakom mestu još uvek postoje
pesnički klubovi. Takođe redovno organizuju prezentacije knjiga, u uskom krugu
čitaju poeziju jedni drugima.
FokusVesti: Dobitnik ste mnogih značajnih književnih
nagrada u Vijetnamu i širom sveta. Objavio 16 zbirki poezije i jednu knjigu
kritika na svom maternjem jeziku. Šta je potrebno za održavanje inspiracije, da
li postoji vreme kada samo posmatrate svet oko sebe i razmišljate o onom što
biste kasnije preneli na papir?
MVF:
Hvala Vam na interesovanju! Iskustvo pisanja mi pokazuje da inspiracija ne
treba dolazi, već je treba tražiti. Gde je inspiracija? Da, to je u planiranu
stvaraoca. Reč planiranje koristim kao da je reč o pripremnim radovima za
izgradnju grada, ili bar vile. Ali, u stvarnosti je skoro isto. Ako pročitate
svih 16 mojih zbirki poezije, lako možete realizovati ideju faznog „planiranja“
velikog projekta. Pritisak rada mi daje snažnu inspiraciju da mogu da stvaram
kontinuirano. Obično nisam pasivan u odnosu na svet oko sebe. Ovo se takođe
pojavilo samo da dopuni mnogobrojne ideje koje sam već planirao.
FokusVesti: Osim što ste pesnik i kritičar, i ste i
prevodilac. „Ne treba prevoditi reči, već snagu i duh“, verovao je IA Bunin, a
Gogolj je verovao da „prevodilac treba da bude kao staklo, tako providan da ga
ne možete videti“. Šta je za vas prevod, koliko je potrebno duboko ući u
suštinu napisanog da biste mogli da napravite ispravan prevod?
MVF:
Da, tačno je da prevodilac mora da prepozna „snagu i duh” originala, kako je
rekao I. A. Bunin. Mi, stanovnici Istoka, često kažemo da svaka pesma ima svoj
duh, ili, drugim rečima, posebna je svetlost književnog teksta. Prevodilac mora
da prepozna ovaj „duh” i „svetlost” u pesmi, pa mora da obavi i prevodilački
posao. Sledeći važan zadatak je spoznati specifičnost jezika i pesničkog stila
svakog autora. Ako stavite jednu pored druge mnoge pesme mnogih autora, a
čitaoci i dalje razmišljaju o jednom pesniku, to je neuspeh prevodioca.
FokusVesti: U izdanju izdavačke kuće „Četiri“ nedavno je na
ruskom jeziku izašla vaša knjiga „Odleteo u zoru“. Možete li nam reći nešto
više o sadržaju knjige?
MVF:
Sadržaj knjige „Odleteo je u zoru“ čini 7 delova, koji nose naslove: Bez svoda,
Iznenada vetar duva, Sutradan, Labud je odleteo, Vreme za povlačenje, Radovi,
Intervju. Knjiga je zbirka mojih pesama, prevedenih na ruski, objavljenih u 2
knjige: „Dva krila” (Izdavačka kuća „Nonparel”, Moskva, 2016) i „Vreme za
povlačenje” (Izdavačka kuća Centar za duhovno oživljavanje Crne zemlje, region,
Voronjež, 2020) … Pored toga, knjiga „Odleteo u zoru“ sadrži niz pesama koje
sam nedavno napisao o Uzbekistanu i Belorusiji. Pored poetskog dela, knjiga
sadrži i niz radova ruskih pesnika i kritičara o mojim pesmama. Na kraju knjige
– tri razgovora između mene i pisca Aleksandra Karljukeviča – bivšeg ministra
informisanja Belorusije o književno – izdavačkoj situaciji u dve zemlje.
FokusVesti: Koja Vaša pesma Vas najbolje opisuje?
MVF:
U ovom trenutku za Vaše pitanje privremeno biram pesmu „Gorka medicina“, drugi
put može biti neka druga pesma. Ovo je pesma koju sam napisao za svoju ćerku
Ngok Čam, koja je 1990 imala 3 godine. U
pesmi figuriram kao otac, grub spolja, ali dubok i mek iznutra. Priča govori
detetu, ali otkriva čitaocima razmišljanja o ljudskom životu, prirodi,
Univerzumu…
Razgovor vodila i sa ruskog prevela: Valentina Novković
Mai
Van Fan. Rođen 1955. u Gimšonu (provincija Ninh Bình), u delti Crvene reke, u
severnom delu Vijetnama. Od 1974. do 1981. služio je vojsku, pešadiju. Nakon
službe, upisao je Koledž stranih jezika u Hanoju na Fakultetu za lingvistiku i
rusku kulturu. Godine 1983. nastavio je studije u gradu Minsku (glavnom gradu
Beloruske SSR), na Pedagoškom institutu po imenu A.M. Gorkog (danas – Beloruski
pedagoški univerzitet po imenu M. Tanka). Trenutno živi i radi u gradu Haifong.
U Vijetnamu je objavio šesnaest zbirki poezije i knjigu kritičkih eseja. U
inostranstvu je objavljeno dvadeset sedam njegovih pesničkih knjiga. Decembar
2012 kompilacija Firmament Vithout Roof Cover je postao jedna od Amazonovih 100
najprodavanijih knjiga poezije. U junu 2014. već postoje tri kolekcije Mai Van
Fana: dve dvojezične (na vijetnamskom i engleskom) Košenje trave u vrtu hrama,
Seme noći i dana) i jedna kolekcija na vijetnamskom i francuskom A Ciel Ouvert
(„Nebesa bez krov”) – ušao u prvih deset stotina najprodavanijih knjiga
poezije. Stihovi Mai Van Fana su prevedeni na 40 jezika: engleski, francuski,
ruski, beloruski, ukrajinski, španski, nemački, italijanski, švedski,
makedonski, albanski, črnogorski, slovački i druge.
Создать
отдельный мир с эстетическим идеалом творца
(Беседовала Валентина Новкович)
1. „Две
вещи оправдывают существование человека на земле: любовь и творчество, написал
И. А. Бродский, Аристотел полагал что
целью всех человеческих поступков является счастье (eudaimonia), которое
состоит в осуществлении сущности человека. В чем, на Ваш взгляд, смысл жизни?
- Май
Ван Фан (МВФ): И. А. Бродский и Аристотел дали довольно
полный обзор смысла жизни человека. Конечно, каждый из нас имеет собственное
восприятие этого смысла и также выбирает для себя подходящий путь. Я родился в
христианской семье и с юных лет воспитывался в духе милосердия и
самоотверженности в любви Христовой. Поэтому направление моей духовной жизни -
стремление к свету Бога, прочь от грехов мира. Когда я встретил девушку,
которую люблю, и теперь стала моей женой, мои религиозные чувства изменились.
Моя жена буддистка, поэтому я глубоко изучил буддийскую философию. Будда, как и
Иисус Христос, наставлял людей быть хорошими, проявлять дух милосердия,
альтруизма и всеобщей любви, но он показал людям, что Нирвана - это не странное
место, которое существует прямо в каждую минуту нашей жизни. Я гармонично
соединил дух этих двух религий, который проникает в каждый момент существования
и наслаждается им. Это восприятие является основой эстетического смысла всего
моего творческого процесса.
2. Помните ли первые прочитанные книги, о каких
авторах идет речь? В какой степени эти первые встречи с письменным словом
повлияли на Ваше творчество?
- МВФ: Одной из первых книг, который я прочитал и в которую
я влюбился, была «Как закалялась сталь!» русского писателя Н.А.
Островского. Я вырос во время войны, северную часть Вьетнама днем и ночью
бомбардировали американские самолеты. В то время нашей непростой жизни
требовалась книга типа «Как закалялась сталь!»
и типичный персонаж, любящий свои идеалы, как Павел Корчагин. Искусство
книги не повлияло на мое дальнейшее творчество, но любовь и вера в идеалы
писателя Н.А. Островского
всегда меня пoбуждaeт. Для меня книга прошла больше полувека. Идеалы, которым
поклонялся Павел Корчагин, были сломаны в России и других бывших
социалистических странах. Молодое поколение Вьетнама больше не увлекается и не
читает эту книгу. Но персонаж Павел Корчагин задал мне множество противоречивых
вопросов о моей жизни и мировоззрении, об идеалах и эстетических моделях и т.д.
В моем настроении проявилось много уровней привязанности к персонажу, что и
привело к «революции». Творцу нужны «революции» для достижения новых целей.
3. Какие русские поэты оказали на Вас наибольшее
влияние, почему?
- МВФ: Русская поэзия пришла во Вьетнам довольно
поздно, возможно, с 1947 года, когда стихотворение К. Симонова
«Жди меня, и я вернусь» было переведено с французского варианта
на
вьетнамский язык поэтом То Хыу. Раньше во Вьетнаме
китайская поэзия находилась под влиянием на протяжении всего средневекового и
раннего нового периода, а французская поэзия - с конца 19-го до начала 20-го
века. С середины 20-го века, возможно, Вьетнам и Россия имели одну и ту же
идеологию, и в то же время многие вьетнамские интеллектуалы обучались в
Советском Союзе, поэтому русская поэзия получила широкое распространение во
Вьетнаме. Изучая произведения поэтов «Пушкинской эпохи», «Постпушкинской эпохи» и современной русской
поэзии, я обнаружил, что русская поэзия очень богата и разнообразна по
направлениям и стилям. Но есть одно общее: что бы ни писали русские поэты в любом поэтическом стиле, читатели все равно легко узнают открытую,
теплую и добрую красоту русской души, излучающую прекрасный свет с глубокими и
мускулистыми характеристиками русской культуры.
4. „Цель
искусства заключается в том, чтобы подготовить человека к смерти, вспахать и
взрыхлить его душу, сделать ее способной обратиться к добру“. (Андрей
Тарковский „Запечатленное время“), как Вы думаете, в чём заключаетса цель искусства,
поэзии, литературы вообще?
- МВФ: Для меня цель искусства, поэзии и литературы в целом - создать отдельный
мир с эстетическим идеалом творца. Этот мир завораживает, манит людей к
совершенной красоте, честности, справедливости и безусловной филантропии.
5. Какие способности или знания необходимы для
того, чтобы кто-то стал настоящим творцом?
- МВФ: Настоящий творец должен быть избран Богом. Согласно христианству, этот
человек должен быть «призванием» Бога. Только чья-то страсть, любовь к
искусству могут помочь ему стать художником-любителем. Однако люди с
«призванием» должны уметь накапливать знания, иметь богатый опыт, уметь красиво
жить, чтобы сохранить свои эмоции, тогда они смогут пойти далеко и стать
великим художником.
6. Говард Филлипс Лавкрафт считал что „несчастен
тот, кому воспоминания о детстве приносят только страх и грусть.“ Каким было
Ваше детство, насколько важно не забыть внутреннего ребенка который живет в
каждом человеке в течение нашей жизни?
- МВФ: Я родился в небольшой
прибрежной деревне в дельте Красной реки на севере Вьетнама. Мой дом находится
в небольшой религиозной деревушке, церковный колокол звонит утром и днем. Эхом
звучание христианскмх
гимнов наполняло мое детство тогда и находит отклик до сих пор. Я вырос во
время войны, будучи свидетелем бомбардировок американских самолетов над северной частью Вьетнама. После
моментов ужаса и страха при просмотре глубоких воронок от бомб, разрушающих дома,
дороги, мосты, погибших и раненых, прохлада реки и тепло Родины наполнило мое
сердце, мою детскую душу в то время. Я до сих пор помню дни, когда мои
маленькие друзья плавали на деревенской реке, протекающей через деревню. Всегда
помню, что
каждый раз, когда мы ныряли
на дно реки и поднимались
на поверхность, золотое солнце словно окрасило нашу кожу блестящей краской.
Потом я ушел оттуда ... Я все больше и больше уходил из своего невинного и
мазаного детства. И я знаю, что
я иду в направлении мудрости, которая также является синонимом твердости и
старения возраста. Но стихи разбудили и вернули меня в прекрасное детство.
Пожилой мужчина, возвращающийся в прошлое, чтобы стать ребенком, -
действительно нелегкое путешествие. Но я цеплялся за каждый свой стих, чтобы
вернуться в детство. И чем больше я хожу, тем моложе чувствую, творческие
эмоции несутся без конца ... Художник видит перспективу ребенка, он увидит, как
знакомый мир вокруг него становится новым, интересным. Поэт может написать о
цветке, о животном множеством произведений. Потому что с каждой работой он
выглядит по-новому, удивлен, даже шокирован, как будто впервые увидел этот
цветок или животное. И этот художник открыл это в источнике эмоций, столь же
свежих, ярких и разнообразных, как сама жизнь.
7. Говорят, что единственно возможный путь - это
тот, который ведет к нашему духовному миру, легко ли найти его в современном
мире, как Вы его находите, в чем?
- МВФ:
Создание духовного мира - одна из важных техник в моей поэтике. Мне было
несложно создать этот мир, потому что он как будто существовал в моем сознании.
Как было сказано в предыдущем вопросе, на меня повлияли две великие религии:
Христианство и Буддизм. Есть еще одна религия, которая глубоко укоренилась в
моей голове с детства, это анимизм. Эти три религии - три столпа моего
духовного мира. Анимизм - первое, универсальное мировоззрение человечества,
помогающее людям общаться друг с другом и гармонировать со Вселенной. Эта
религия предполагает, что люди и вещи различны с точки зрения сущностей, но у
всех есть душа. Анимизм появился на заре человечества, но затем его заставили
исчезнуть другие религии во многих странах. В частности, во Вьетнаме, чисто
сельскохозяйственной стране, анимизм все еще существует и в сочетании с местной
религией, то есть Дао Мау (Поклонение Богине-Матери), создает духовную
культуру, богатую вьетнамским колоритом. Я объединил эти три религии, чтобы
создать слои пространства, которые одновременно сложены и инклюзивны, чтобы
сформировать мультисистемную вселенную. В этом духе я возвращаю свою поэзию к
духу «изначальной гармонии», стирая границы между мной и не-мной, между мной и
миром, чтобы создать тенденцию чистой вьетнамской современной поэзии.
8. Одни из самых известных поэтов вашей страны:
Чан Нхан Тонг, Нгуен Трай, Хо Суан Хыонг, Цао Ба Куат, Чыонг Хан Сьеу, Чу Ман
Тринх, Фан Хуй Чу, Нгуен Хуен и многие другие. Нгуен Зу считаетс великим вьетнамским поэтом, роль которого во
вьетнамской литературе сравнивают с ролью Александра Сергеевича Пушкина в
русской литературе. Кого бы Вы выделили среди множества вьетнамских поэтов,
почему? Каковы тенденции современной вьетнамской поэзии? Есть ли интерес
молодежи к поэзии, существуют ли поэтические вечера, на которых авторы читают
свои стихи?
- МВФ: Спасибо за упоминание
Нгуен Зу, которого называют великим поэтом Вьетнама, признанным ЮНЕСКО мировой
культурной знаменитостью с 2013 года. Лично я выбираю Хо Суан Хыонг моим
любимым вьетнамским поэтом до сих пор. Ее мысль и поэтика создали иную и
сложную эстетическую модель в ее время и сейчас. Поэзия Хо Суан Хыонг отвечает
эстетическим привычкам читателей и действует как сопротивление, побуждая их
учиться и продолжать изучать. Ее поэзия, появившаяся более двух веков назад,
всегда напрямую влияла на течение вьетнамской поэзии, вызывая появление новой
поэтики и новых тенденций.
Современная вьетнамская поэзия
имеет разнообразные направления. Помимо устойчивых традиционных тенденций, есть
современные тенденции, которые имеют тенденцию быть спонтанными и даже
импортированными с Запада. Молодые люди, вероятно, меньше интересуются поэзией,
чем предыдущие поколения. Но в каждом населенном пункте до сих пор есть клубы
поэзии. Также они регулярно устраивают презентации книг, читают друг другу
стихи в узком кругу.
9. Вы выиграли множество значительных
литературных наград во Вьетнаме и во многих странах мира. Опубликовали 16 сборников стихов и одну книгу критики на
родном языке. Что нужно для сохранения вдохновения, бывает ли
время, когда просто наблюдаете за
окружающим миром и думаете о том, чтобы потом перенести на бумагу?
- MВФ: Спасибо за Вашу заботу! Опыт сочинения
показывает мне, что вдохновение не должно приходить, а нужно искать его. Так
где же вдохновение? Да, это в планировании творца. Я использую слово
«планирование», как если бы это была подготовительная работа для строительства
города или, по крайней мере, виллы. Но на самом деле это почти то же самое.
Если вы прочтете все 16 моих сборников стихов, вы легко реализуете идею
поэтапного «планирования» большого проекта. Это давление работы, которое дает
мне сильное вдохновение, чтобы иметь возможность непрерывно творить. Обычно я
не пассивен по отношению к окружающему миру. Это тоже появилось только для
дополнения уже запланированных мною идей.
10. Кроме того что поэт и критик, Вы и
переводчик. „Не слова нужно переводить, а силу и дух“, считал И. А. Бунин, а
Гоголь что „переводчик должен быть как стекло, такое прозрачное, что его не
видно“. Что для вас перевод, насколько глубоко необходимо вникать в суть
написанного, чтобы иметь возможность сделать верный перевод?
- MВФ: Да, это правда, что переводчик должен
признать «силу и дух» оригинала, как сказал И.А. Бунин. Мы, жители Востока,
часто говорим, что каждое стихотворение имеет свой собственный дух, или,
другими словами, это особый свет литературного текста. Переводчик должен
распознать этот «дух» и «свет» в стихотворении, поэтому он должен выполнить
переводческую работу. Следующая важная задача - выяснить специфический язык и
поэтический стиль каждого автора. Если поставить рядом друг с другом много
стихотворений многих авторов, а читатели по-прежнему думают об одном поэте, это
провал переводчика.
11. Ваша книга "Улетел на рассвете" недавно
вышла на русском языке в издательстве "Четыре". Не могли бы Вы
рассказать нам немного подробнее о содержании книги?
- МВФ:
Содержание книги «Улетел на рассвете»
состоит из 7 частей, которые озаглавлены: Небосвод без, Вдруг ветер дует,
Следующий день, Лебедь улетел, Время утиля, Сочинения, Интервью. Книга
представляет собой сборник моих стихотворений, переведенных на русский язык,
изданных в 2-х книгах: «Два крыла» (Издательство «Нонпарелъ», Москва, 2016) и
«Время утиля» (Издательство Центр духовного возрождения Черноземного края,
Воронеж, 2020). Кроме того, книга «Улетел на рассвете» содержит ряд недавно
написанных мной стихов об Узбекистане и Беларуси. Помимо поэтической части, в
книге также печатается ряд сочинений русских поэтов и критиков о моих стихах. В
конце книги - три разговора между мной и писателем Александром Карлюкевичем -
бывшим Министром информации Беларуси о литературно-издательской ситуации в двух
странах.
12. Какой из Ваших стихов лучше всего описывает Вас?
- МВФ: В данный момент я временно выбираю
стихотворение «Горькое лекарство» для вашего вопроса, в другой раз это может
быть другое стихотворение. Это стихотворение, которое я написал для своей
дочери Нгок Чам, которой в 1990 году было 3 года. Я фигурирую в стихотворении
как отец, грубоватый снаружи, но глубокий и мягкий внутри. История
разговаривает с ребёнком, но открывает читателям мысли о жизни человека,
природе, Вселенной ...
- Спасибо, глубокоуважаемый господин Май
Ван Фан!
ВАЛЕНТИНА НОВКОВИЧ
Валентина
Новкович, окончила Филологический факультет: русской язык и литература (второй язык - английский). Поэт, прозаик,
литературный переводчик, журналист. Она опубликовала стихи и прозу во многих
журналах в Сербии: Književne novine, Trag, Književni pregled,
Brankovina, Buktinja, Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale, в
электронных журналах Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolodvor, а также во многих
литературных журналах в России, Узбекистане, Киргизии, Польше, Румынии,
Македонии, Казахстане. Одна из самых важных антологий - это антология,
составленная и переведенная на румынский язык Лео Бутнарой, поэтом, прозаиком,
публицистом, журналистом и переводчиком, номинированным Ассоциацией писателей
Молдовы на получение Нобелевской премии. В упомянутой антологии, помимо Марины
Цветаевой, Маяковского, Рильке и других всемирно известных поэтов, представлены
два сербских поэта: Зоран Пешич Сигма и Валентина Новкович. Ее стихи переведены
на русский, английский, македонский, румынский, узбекский, азербайджанский,
корейский и бенгальский языки. Лауреат множества премий в области поэзии и
прозы. Она опубликовала три книги стихов Безвременно
(Драслар,
2014), Капель на засуху (Парфенон, 2018) и Отгадки нежности (Либерланд, 2021), а также книгу
рассказов Два часа од реаль ности (АПС, 2020). Редактор издательства
Liberland, где редактирует работы художников из Сербии и ее окрестностей, а
также переводит произведения авторов из русскоязычных регионов. Журналистка
портала Focus News, собеседниками которого были многие создатели из России и
бывшего Советского Союза. Она получила большое количество наград за
художественные переводы, а как один из переводчиков получила награду Ассоциации
переводчиков Черногории за лучшую переведенную книгу прозы в 2019 году
выдающимся автором из Узбекистана («Книга рассказов для молодежи»). Руководитель
регулярной программы библиотеки «Милутин Бойич», «Разговор с поэтом». Член
Ассоциации писателей Сербии, Сербской литературной ассоциации и член Института
детской литературы. Живет в Белграде (Сербия).
Перевод с вьетнамского на
русский : Динь Тхи Нгок Хиеу