“A Ringing Bell” – The 25th poem of “hidden face flower” - "Tiếng chuông" – Bài thơ thứ 25 trong tập thơ “hoa giấu mặt” - (explication - chú giải) - Ramesh Chandra Mukhopadhyaya
“A Ringing Bell” – The 25th poem of “hidden face flower”
Tiến sỹ Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
By Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(From Calcutta, India)
A waterfall drops, a gibbon howls, an insect…
The echo goes on
Only in memory
(A Ringing Bell – Mai Văn Phấn. Translated from Vietnamese by Pornpen Hantrakool)
Explication:
A waterfall drops. It is a river or a stream suddenly falling from a
steep height. May be the poet does not see the waterfall but hears its
thundering noise. For example the waterfall named Bản Giốc in Vietnam hitting
the rocks can be heard from afar. May be a waterfall is drizzling on to
the rocks or pounding the rocks with soft intermittent bursts. The white noise
of the waterfall masks distracting sounds and lulls ones brain to sleep or
meditation. While a waterfall is being heard gibbons voices could be there.
Gibbons are found all over Vietnam in the most northerly subtropical
forests as well as in the lowland forests of the south. And their voices are
mostly duets between a male gibbon and female gibbon. While the sound of the
waterfall is continuous the voice of the gibbons on the background of the
waterfall is discrete... While the sound of the waterfall might suggest of one
reality permeating the differences of the existence, the sound of the duet of
gibbons suggests the dichotomy of the existence dangling from the tree of the
one reality. While the monotony radiated by the waterfall or one reality speaks
of an existence which is cold and where there is no diversity and variety, the
voice of gibbons speak of the existence of two souls exchanging warm love
between them. And now the poet hears an insect... It might be the cricket the
bee the bumblebee the ant the mosquito the locust and so on. We hear as it were
bass or low pitch sound in the waterfall and midrange pitch in the voice of the
gibbons and high pitch in the insect and they together constitute timbre.
The vibrations in turn set in motion frequency waves called harmonics. Here is
a poem that approximates harmonics where different sounds mingle into
a complex and wonderful pattern. May be the harmonics enthralls the poet
during his sojourns in the woodlands far from the madding crowds ignoble strifes.
When the poet leaves the woodland the sounds are no longer heard. But the echo
goes on in memory. Memory is the faculty of the mind which stores and remembers
information. The sounds heard in Nature sink deep in the poets mind. Back from
the clutch of Nature the poet perhaps being pent up in a city like Hanoi
plunges into his subconscious. Or else the subconscious all of a sudden shows
up suspending the conscious mind of the poet for a time. The subconscious mind
could be likened to a forest where waterfalls and apes and insects are heard.
They only evoke the silence created by the waterfall or the gibbons in the
being of the poet. The waterfall and the gibbons and the insects are the voice
of silence. Thus a silence fills the mind of the poet. And amidst that
silence the poet can hear the overmind rhythm in which the water fall the song
of the gibbon or the sound of the insect are sublated ever rolling on in the
existence impelling all thinking things and all objects of all thought. Read in
the Indian context the poem evokes in us the creative logos or the Om that presently
calms our restless minds and lifts them to some supramundane plane.
Translated by Phạm Văn Bình
Bản dịch của Phạm Văn Bình:
Nữ thần
Lakshmi – Tranh cổ Ấn Độ
"Tiếng chuông" – Bài thơ thứ 25 trong tập thơ “hoa giấu mặt”
Ramesh
Chandra Mukhopadhyaya
(Từ
Calcutta, Ấn Độ)
Thác đổ, vượn hú, côn trùng…
Ngân mãi
Chỉ còn ký ức
(Tiếng chuông - Mai Văn Phấn. Pornpen Hantrakool dịch sang Anh ngữ)
Chú giải:
Thác đổ. Đó là một dòng sông hay một con suối đột nhiên đổ xuống
từ một dốc cao. Có thể nhà thơ không nhìn thấy thác nước nhưng nghe được tiếng
gầm vang của nó. Lấy thí dụ, thác nước có tên là Bản Giốc ở Việt Nam dội
xuống các tảng đá có thể nghe thấy được từ xa. Thác nước có thể dội hay trút nước
liên tục xuống những tảng đá. Tiếng động của thác nước tung bọt trắng làm chìm
đi những tiếng động khác khiến người ta xao lãng tâm trí và đưa trí não người ta
vào giấc ngủ hoặc sự minh tưởng. Trong khi nghe thấy tiếng thác đổ thì người ta
cũng có thể nghe thấy tiếng vượn hú. Loài vượn được phát hiện ở khắp đất nước
Việt Nam
trong hầu hết những khu rừng cận nhiệt đới ở miền Bắc. Và tiếng hú của chúng dường
như là cuộc hòa ca giữa một con vượn đực với một con vượn cái. Trong khi tiếng
thác đổ vang lên liên tục thì tiếng vượn hú trên cái nền của tiếng thác đổ lại vang
lên rời rạc… Trong khi tiếng thác đổ có thể gợi mở một hiện thực thẩm thấu qua
những khác biệt của cuộc sống, âm thanh giao hòa của những con vượn lại gợi ra
sự lưỡng phân của sự sống treo đu đưa trên cái cây hiện thực. Trong khi sự đơn
điệu phát ra từ thác nước hoặc một hiện thực biểu lộ sự tồn tại là lạnh lùng và
là nơi không có tính đa dạng cũng như trạng thái khác biệt thì tiếng hú của
những con vượn lại biểu lộ sự tồn tại của hai tâm hồn đang trao đổi tình yêu
nồng ấm cho nhau. Và giờ đây nhà thơ nghe thấy cả tiếng côn trùng… Có thể đó là
con dế, con ong mật, con ong nghệ, con kiến, con muỗi, con châu chấu v.v… Chúng
ta như nghe thấy âm trầm hoặc âm có thang độ thấp trong tiếng thác đổ, âm trung
trong tiếng vượn hú, âm cao trong tiếng côn trùng và chúng cùng nhau tạo thành
âm sắc. Những rung động về âm thanh đến lượt mình tạo ra những sóng âm trong
tần số chuyển động được gọi là hòa âm. Đây là một bài thơ gần giống như là hòa
âm nơi mà những âm thanh khác biệt trộn lẫn vào nhau tạo thành một phức âm và là
một hình mẫu tuyệt vời. Có thể hòa âm này làm nhà thơ say đắm trong thời gian
nhà thơ tạm dừng chân ở vùng rừng núi cách xa những đám đông cuồng nộ đang
tranh danh đoạt lợi một cách ti tiện. Khi nhà thơ rời khỏi vùng rừng núi, nhà
thơ sẽ không còn được nghe thấy những âm thanh đó nữa. Nhưng tiếng vọng của
chúng vẫn còn ngân mãi trong kí ức nhà thơ. Kí ức là khả năng của thức hải lưu
giữ và hồi tưởng lại những thông tin. Những âm thanh được nghe thấy ở trong
Thiên nhiên chìm sâu trong thức hải của nhà thơ. Trở về từ cái nôi Thiên nhiên,
nhà thơ có lẽ đang bị nhốt kín trong một thành phố như là Hà Nội chẳng hạn và đắm
mình vào trong tiềm thức của bản thân. Nếu không thì tiềm thức đột nhiên hiển
lộ sự trì trệ nơi minh giác của nhà thơ trong một khoảng thời gian. Tiềm thức
có thể được ví với một khu rừng nơi mà tiếng thác đổ, tiếng hú của những con
vượn và âm thanh của những con côn trùng được nghe thấy. Chúng chỉ gợi lên sự tĩnh
lặng được tạo ra bởi thác nước hay những con vượn ở trong bản thể nhà thơ. Tiếng
thác nước và tiếng những con vượn, những con côn trùng là ngôn từ của sự tĩnh
lặng. Theo cách đó, sự tĩnh lặng lấp đầy tâm tưởng nhà thơ. Và ở trong sự tĩnh
lặng đó, nhà thơ có thể nghe thấy giai điệu mà trong đó tiếng thác đổ, tiếng hòa
ca của loài vượn hay âm thanh của những con côn trùng bị phủ nhận mãi mãi đi
cùng cuộc sống buộc tất cả mọi người phải nghĩ về mọi điều và là tất cả những
đối tượng của mọi sự suy nghĩ. Được đọc trong ngữ cảnh Ấn Độ, bài thơ gợi lên
trong chúng ta những biểu trưng mang đầy tính sáng tạo hoặc biểu tượng Om giờ đây đang
làm cho tâm trạng bồn chồn của chúng ta tĩnh lặng lại và đưa nó đến một cõi siêu
nhiên.
Nghệ thuật truyền thống vùng tây bắc Ấn Độ